I. Đặc điểm nhận dạng các pho tượng
1. Tượng thần Bà La Môn giáo trong sưu tập điêu khắc đá Champa
1.1. Đầu thần Shiva
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5884
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam
Thần đội mũ Kirita – Mukuta, kiểu mũ có ba tầng trang trí mô típ lá đề trên mỗi tầng (mô típ phổ biến trong loại hình điêu khắc Trà Kiệu). Con mắt thứ ba của thần nằm giữa trán, lông mày nối liền nhau tạo thành hình cánh cung, mắt mở bình thường, tai đeo trang sức dạng miếng tròn mỏng xâu lại.
1.2. Đầu thần Shiva
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5866
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam.
Thần đội mũ Jata – Mukuta (những lọn tóc được bới lại thành mũ đội), con mắt thứ ba nằm giữa trán, lông mày liền nhau, mắt có con ngươi hơi lồi, cánh mũi rộng, cặp môi dày, ria mép rậm, hai tai có xâu lỗ để đeo đồ trang sức.
Bà La Môn giáo thờ ba vị thần chính: Brahma (thần Sáng Tạo), Vishnu (thần Bảo Tồn), Shiva (thần Hủy Diệt). Nhưng ở Champa, Shiva giáo chiếm vị trí độc tôn, các văn bia cổ khắc bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong thánh địa Mỹ Sơn đã tôn Shiva là “chúa tể của muôn loài…” là “cuội nguồn của nước Champa…”. Thần Brahma không được thờ phổ biến, còn Vishnu biến thành thần Bảo Vệ (Dravapala) cho các đền tháp.
Người Chăm ảnh hưởng Bà La Môn giáo quan niệm rằng Shiva là thần Hủy Diệt, đồng thời cũng là thần Sáng Tạo, thần được thờ qua ngẫu tượng Linga (cột đá hình sinh thực khí của đàn ông). Trong điêu khắc đá Champa, Shiva được thể hiện dưới hình dạng mạnh mẽ của một nam thần có ba mắt, đầu đội mũ Jata – Mukuta có đính đồ trang sức hoặc kiểu mũ Kirita – Mukuta chạm trổ cầu kỳ (những đầu tượng Shiva tại BTLSVN – TP. HCM). Ngực thần đeo một con rắn thần Naga biểu trưng cho sợi dây Bà La Môn, tay cầm đinh ba lửa, cưỡi trên lưng bò thần Nandin. Tuy nhiên, cũng có một số bức phù điêu lại thể hiện nét mềm mại dị thường của thần Shiva trong vũ điệu Tanvada (vũ điệu vận hành vũ trụ) như phù điêu trên mi cửa đền Pô Naga ở Nha Trang hay đền Pô Klông – Giarai ở Phan Rang. Đôi khi tượng Shiva lại mang hình dạng của một tu sĩ với bộ râu dài, tay cầm chuỗi tràng hạt, đang trong tư thế tọa thiền với chân trái gác lên chân phải (kiểu ngồi này được các nhà nghiên cứu gọi là kiểu ngồi Ấn Độ, trong Phật giáo gọi là kiểu ngồi Bán già). Nhìn chung, trong điêu khắc đá Champa thần Shiva được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau nhưng tất cả các hình dạng này đều dựa trên những truyền thuyết về thần Shiva trong kinh Vệ Đà.
1.3. Tượng thần Ganesa
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5929
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Cẩm Lệ - Quảng Nam
Thần đội mũ miện, phía dưới hình vuông, bên trên có ba tầng, hai tầng phía dưới trang trí những cánh hoa giống như kiểu trang trí trên đồ đội của các tượng tìm thấy tại di chỉ Đồng Dương. Tầng trên cùng hình trụ đỉnh bằng, phía sau có một chiếc tán (dạng hào quang). Con mắt thứ ba nằm giữa trán, hai tay thần bị gãy sát nách, đầu vòi cũng bị gãy, đặc biệt trên đùi phải còn dính một bàn tay cầm cây đinh ba. Ngực thần đeo sợi dây Bà La Môn choàng từ vai trái xuống hông, y phục thể hiện theo kiểu Sampot. Từ vị trí của khóa dây nịt có hai dải nơ, dải trên và dải dưới mỗi dải đều có năm nếp xếp, dải trước che kín bàn chân phải chỉ còn hở ngón chân cái.
Theo thần thoại Ấn Độ, Ganesa là con trai của thần Shiva và nữ thần Pavarti. Vị thần này tượng trưng cho trí tuệ của thần Shiva là vị phúc thần chuyên ban phước lành cho người nghèo và giúp đỡ giới thương buôn. Thần được thờ trong phạm vi của nhiều quốc gia, trong các hệ phái của Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Tại Champa, Ganesa được thờ trong “vạn thần miếu của Shiva giáo”. Các tượng thần Ganesa của Champa thường có một khối U trên trán giống như “nhục kháo” trên đầu của các tượng Phật Thích Ca, có lẽ chúng được tạo tác trong thời kỳ mà Phật giáo đã thịnh hành ở Champa nên mang những yếu tố ảnh hưởng của Phật giáo. Một số tượng của người Khmer cũng có dấu hiệu tương tự như vậy. Ở Bảo tàng Munich có một pho tượng Khmer bằng đồng lại thể hiện thần Ganesa với một “luân xa” trên lòng bàn chân. Tại Miến Điện, người ta cũng tìm thấy một pho tượng Ganesa với tư thế tay chỉ lên trời tay trỏ xuống đất giống như tư thế của tượng Phật Thích Ca sơ sinh. Có thể nói những yếu tố này đã chứng tỏ có sự giao thoa văn hóa giữa Phật giáo và Bà La Môn giáo tại nhiều quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á trong đó có Champa.
Dấu hiệu của thần Shiva cũng được tìm thấy trên pho tượng Ganesa tại BTLSVN – TP. HCM và các pho tượng Ganesa khác như con mắt thứ ba nằm giữa trán, vầng trăng lưỡi liềm khắc trên búi tóc, con rắn Naga quấn quanh cổ, tay cầm đinh ba lửa và ngực đeo sợi dây Bà La Môn.
1.4. Tượng thần Vishnu
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5926
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Khương Mỹ - Quảng Nam
Tượng Vishnu đứng trên bệ trong tư thế chân trái thẳng, chân phải nhón gót. Thần đội mũ Kirita – Mukuta ba tầng to nặng trang trí mô típ hình lá đề, khuôn mặt hơi gồ ghề, mắt mở to có con ngươi, môi hơi dày, ria mép ngắn, cổ đeo vòng trang sức, ngực để trần. Sampot có vạt ngoài hình chữ nhật xõa dài xuống chân, vạt trong ngắn bay lệch về phía đùi phải. Thần có bốn tay, hai tay trước, tay phải chống lên đùi, tay trái cầm một vật giơ lên ngang ngực, hai tay sau cầm giơ cao vật gì không rõ. Các cổ tay đều đeo vòng trang sức.
Vishnu là một những thần linh vĩ đại của Bà La Môn giáo. Trong kinh Vệ Đà (Veda), Vishnu được suy tôn là thần Thái vương, Đấng sáng tạo thế giới và là thần Bảo Tồn. Thần đã 10 lần giáng thế để giành lại công bằng cho cuộc đời, những lần giáng thế đó gọi là những kiếp hóa thân (Avatar).
Ở nước Champa cổ, Vishnu không được sùng bái như thần Shiva. Hình tượng Vishnu chỉ đồng nghĩa với các vị thần Bảo Vệ (Dravapala) trong các đền tháp Champa. Cũng có một số ít tượng Vihsnu được tìm thấy tại các di tích Champa nhưng đặc biệt là các kỳ tích của Vishnu trong sử thi Ramayana lại được thể hiện khá sâu sắc qua những bức chạm tại thánh địa Mỹ Sơn - Quảng Nam. Tuy vậy, khi bàn đến các tuyệt tác về Vishnu phải kể đến những công trình điêu khắc của người Khmer trong thời kì Angkor (thế kỷ X – XII).
1.5. Tượng nữ thần Laskmi
- Loại hình: tượng tròn nửa phù điêu
- Ký hiệu: BTLS. 5928 và BTLS. 5929
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam
Gồm hai pho tượng (một lớn, một nhỏ) trong tư thế ngồi theo kiểu Ấn Độ được thể hiện trên hai bức diềm cửa hình lá nhĩ (typan). Tượng lớn có bốn tay, hai tay trước cầm gậy (hay cây chùy Gada) và búp sen đặt trên đùi, hai tay sau cầm giơ cao một con ốc gai (Sankha) và một vật hình tròn tượng trưng cho vầng thái dương.
Cả hai pho tượng đều mang những đặc điểm chung của phong cách Trà Kiệu muộn (thế kỷ thứ X) như: mũ đội là loại Kirita – Mukuta có nhiều tầng hoa, chóp mũ cao trang trí nhiều cung tròn đồng tâm. Mắt nữ thần hình khuy áo không có con ngươi, lông mày thanh thoát và tách rời nhau, mũi thon nhỏ, miệng tươi cười, cổ đeo đồ trang sức hạt nhỏ, ngực nở đầy đặn.
Theo thần thoại Bà La Môn giáo, Laskmi là nữ thần Sắc đẹp và Thịnh vượng, vợ của thần Vishnu. Nữ thần xuất hiện trong cuộc “Khuấy Biển Sữa” để tìm thuốc trường sinh. Trong điêu khắc đá Champa, tượng Laskmi phổ biến với nhiều tiêu bản tượng tròn và phù điêu.
1.6. Tượng thần Indra
- Loại hình: tượng tròn
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Mỹ Sơn - Quảng Nam
Thần được thể hiện trong tư thế ngồi theo kiểu Ấn Độ trên một cái bệ, phần đầu đã bị vỡ, bàn tay trái đặt úp lên gối trái, tay phải đặt ngửa lên đầu gối phải và cầm lưỡi tầm sét. Trên bệ tượng chạm voi thần Airavata nằm phủ phục.
Bà La Môn giáo mô tả Indra là vị thần Sấm sét hùng mạnh trên thiên giới. Thần sử dụng lưỡi tầm sét làm khí giới, cưỡi voi thần Airavata và là thần trấn trị phương Đông. Trong điêu khắc đá Champa, tượng Indra thể hiện khá phổ biến dưới dạng tượng tròn và phù điêu.
1.7. Bệ thờ chín vị thần
- Loại hình: phù điêu
- Ký hiệu: BTLS. 5976
- Niên đại: thế kỷ thứ X
- Nguồn gốc: Trà Kiệu - Quảng Nam
Bệ thờ chín vị thần thường phổ biến trong nghệ thuật điêu khắc đá Cam Pu Chia, rất hiếm thấy ở Champa. Trên bệ thờ này, các vị thần được thể hiện trong tư thế ngồi theo kiểu Ấn Độ, hai tay đặt trên gối, phần đầu đã vỡ chỉ còn lại dấu vết của những chiếc tán tượng trưng cho vầng hào quang. Đồ trang sức hạt nhỏ đeo trên cổ và tay chân, ngực để trần, thắt lưng có khóa hình lá đề đeo cao trên hông. Y phục là kiểu Sampot có vạt ngắn. Dưới phần bệ của một số tượng có chạm nổi những con vật dùng làm biểu tượng của các thần vì vậy có thể phân biệt được các vị thần như sau:
- Surya: thần Mặt trời, biểu tượng là cỗ xe có ngựa kéo.
- Kubera: thần Tài lộc, tọa thiền theo kiểu Ấn Độ, tay cầm quả chùy Jumba, phía sau lưng là một tòa tháp.
- Soma: thần Mặt trăng, biểu tượng là con báo.
- Brahma: thần Sáng tạo, biểu tượng là ngỗng thần Hamsa.
- Yama: thần Diêm vương, biểu tượng là con chó.
- Vayu: thần Gió, biểu tượng là con ngựa
- Indra: thần Sấm sét, biểu tượng là voi thần Airavata.
- Shiva hay Isana (hóa thân của Shiva): thần Hủy diệt, biểu tượng là bò thần Nandin.
- Vị thần cuối cùng trên bệ thờ có thể là một vị vua Champa được phong thần vì có vật biểu tượng là con sư tử (Singha). Ở Champa có sự kết hợp giữa vương quyền và thần quyền. Hình tượng con sư tử tượng trưng cho uy quyền của nhà vua, đồng thời cũng là một trong những kiếp hóa thân của thần Vishnu.
Có thể nói bệ thờ chín vị thần tìm thấy tại Trà Kiệu là một tập hợp các vị thần Bà La Môn giáo được thờ phổ biến trong “vạn thần miếu của Shiva giáo”. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng đây là bệ thờ “Cửu tú” hay “Cửu diệu”, tức chín vị thần cai quản vũ trụ theo thiên văn học Ấn Độ.
2. Tượng thần Bà La Môn giáo thuộc sưu tập điêu khắc đá cổ vùng đồng bằng sông Cửu Long.
2.1. Nhóm tượng thần Vishnu
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5551, BTLS. 5525, BTLS. 5528…
- Niên đại: từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ X
Cho đến nay đã có một số lượng lớn tượng thần Vishnu được phát hiện trên vùng đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó có thể thấy rằng vào thời cổ đại Vishnu giáo vốn được sùng bái ở đây. Trên các pho tượng Vishnu này còn phảng phất dấu ấn của điêu khắc Ấn Độ với khuôn mặt trầm tưởng, tư thế đứng thẳng, đầu đội mũ trụ tròn mang phong cách Ba Tư hay mũ có chóp nhọn mang phong cách Amaravati (Nam Ấn). Thần không đeo đồ trang sức, trang phục là kiểu Sarong dài đến ống chân. Các tượng Vishnu đều có bốn tay, mỗi tay cầm một bảo vật đặc trưng.
- Tay trước bên trái: cầm con ốc gai (Sankha) tượng trưng cho ngũ hành.
- Tay trước bên phải: cầm cái đĩa tròn tượng trưng cho mặt trời, thần trí của đạo Bà La Môn.
- Tay sau bên trái: cầm cây cung, tượng trưng cho ảo giác hoặc cầm nụ sen biểu tượng cho sự vận hành của vũ trụ.
- Tay sau bên phải: nắm cây gậy hoặc chùy (Gada) tượng trưng cho bản ngã, tri thức nguyên thủy.
Hình tượng các kiếp hóa thân của thần Vishnu cũng được tìm thấy khá phổ biến trong điêu khắc đá vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại BTLSVN – TP. HCM có trưng bày một đầu ngựa đá đội mũ Kirita – Mukuta năm tầng chạm trổ tinh xảo, tìm thấy tại chùa Vạn Đức – Gò Vấp. Pho nói về kiếp hóa thân cuối cùng của thần Vishnu dưới hình dạng của một người khổng lồ đầu ngựa mà thần thoại gọi là Kalki. Lời tiên đoán trong thần thoại cho rằng: vào thời kỳ Mạt thế của cuội đời này, thần Vishnu sẽ giáng thế dưới hình hài của một Kalki để phá tan thế giới đầy bất công trụy lạc nhằm tạo lập một cuộc đời hoan hỉ và hạnh phúc. Trong sưu tập điêu khắc đá Cam Pu Chia tại BTLSVN – TP. HCM cũng có một pho tượng Vishnu trong kiếp mục đồng Krishna. Pho tượng thể hiện một chàng trai đội mũ trùm kính đầu, mình mặc Sampot, đang cưỡi trên mình trâu. Cùng với câu chuyện hoàng tử Rama trong truyền thuyết Ramayana, câu chuyện dũng sĩ Krishna trong sử thi Mahabharata đã trở thành những bản trường ca vĩ đại trong văn học cổ điển Ấn Độ, chúng là nguồn cảm hứng sáng tác nghệ thuật cho các nghệ sĩ thời cổ xưa ở Đông Nam Á.
2.2. Tượng nữ thần Uma
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5552
- Niên đại: thế kỷ thứ VII
- Nguồn gốc: An Thành – Tây Ninh
Uma là vợ của thần Shiva, đồng thời cũng là hiện thân nữ tính của Shiva (Sakti). Vị nữ thần này có lẽ xưa kia được thờ phổ biến tại vùng đồng bằng sông Cửu Long vì có nhiều tượng Uma được tìm thấy trên vùng đất này. Niên đại của chúng vào khoảng giai đoạn Tiền Angkor (khoảng thế kỷ thứ VII – VIII). Pho tượng Uma tại BTLSVN – TP. HCM được thể hiện trong tư thế đứng trên bệ, đầu đội mũ trụ hình tròn, khuôn mặt thanh thoát. Nữ thần có bốn tay tựa vào một cái khung đỡ, hai tay trước đặt song song ngang hông, hai tay sau cầm giơ cao một vật hình chữ nhật và một vật hình tròn. Sở dĩ cho rằng đây là tượng Uma vì giữa bệ tượng có chạm nổi một cái đầu trâu. Trong truyền thuyết Bà La Môn giáo, Uma là vị nữ thần đã chiến thắng con quỉ trâu Mahita vốn là vật cưỡi của thần Diêm vương Yama.
2.3. Tượng thần Surya
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5499 và BTLS. 5527
- Niên đại: thế kỷ thứ VII
- Nguồn gốc: An Giang
Surya là thần Mặt trời, trong điêu khắc đá cổ đồng bằng sông Cửu Long, thần được thể hiện trong tư thế đầu đội mũ kiểu Ba Tư, phía sau có vầng hào quang tượng trưng cho mặt trời. Mình thần khoát một chiếc áo choàng dài phủ đùi hoặc để mình trần vận Sarong. Hai tay cầm hai nụ sen giơ ngang vai, biểu tượng của bình minh.
Tất cả các tượng Surya phát hiện trên vùng đồng bằng sông Cửu Long đều có vầng hào quang phía sau mũ. Trên vầng hào quang đôi khi có những đường kẻ như tia nắng mặt trời. Còn chiếc xe do ngựa kéo của thần hầu như không thấy thể hiện trong nghệ thuật tạc tượng vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hình như chúng chỉ phổ biến trên các đồ án điêu khắc đá Cam Pu Chia thế kỷ X – XI mà thôi.
2.4. Tượng thần Ganesa
- Loại hình: tượng tròn
- Ký hiệu: BTLS. 5512 và BTLS. 5573
- Niên đại: thế kỷ thứ VII
- Nguồn gốc: An Giang
Gồm hai pho tượng Ganesa: một pho tượng bán thân, đầu đội mũ chóp nhọn, vòi vễnh về phía tay trái, hai tay đã gãy. Pho tượng còn lại được thể hiện trong tư thế đứng, đầu trần, tai rộng, có một “khối u” trên trán. thần có bốn tay, hai tay trước cầm vật gì không rõ, hai tay sau cầm giơ cao một con ốc gai (Sankha) và một vật hình tròn tượng trưng cho vầng thái dương (dấu hiệu thường thấy trên các pho tượng Vishnu đồng bằng sông Cửu Long). Ngoài pho tượng này, chưa thấy một pho tượng nào có những vật cầm tay giống như vậy. Phải chăng pho tượng được tạo tác trong giai đoạn mà Vishnu giáo thịnh hành tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
II. Nhận định chung
· Về bối cảnh lịch sử
Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung Việt Nam từng tồn tại những quốc gia cổ chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Thế kỷ I – VI là giai đoạn phát triển rực rỡ của nền văn hóa Óc Eo. Năm 650, Chân Lạp thôn tính Phù Nam, cư dân cổ vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục phát huy nền văn hóa thời kì Hậu Óc Eo (Post - Óc Eo) trên cơ sở tiếp thu những yếu tố nghệ thuật từ Chân Lạp và Champa nhất là trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Thế kỷ VIII và IX đã bùng nổ những tranh chấp triền miên giữa Thủy và Lục Chân Lạp, tiếp theo là các cuộc tiến công của Java và Chân Lạp vào Giao Châu và Champa. Đến năm 1000, Champa rời bỏ kinh thành Indrapura (Kinh đô của Vùng Ánh Sáng tại Quảng Nam) thiên đô vào Vijaya (thành Chà Bàn tại Bình Định) xây dựng những triều đại mới và phát triển những phong cách nghệ thuật đặc sắc tại đây.
Nhiều thế kỷ xung đột đã tạo nên sự tiếp xúc về văn hóa giữa Champa cổ và vùng đồng bằng sông Cửu Long được phản ánh qua nghệ thuật tạc tượng. Tại một số di tích Champa ở Nam Trung bộ, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy những bộ Linga đầu tròn đặt trên bệ Yoni hoặc Linga có ba phần (đầu hình tròn, thân hình bát giác và đế hình khối vuông) vốn phổ biến trong điêu khắc đồng bằng sông Cửu Long. Các mô típ hình “đuôi cá”, “nửa đuôi cá” trên các đầu vạt trước của Sampot, Sarong xuất hiện trong điêu khắc đá đồng bằng sông Cửu Long thế kỷ IX trở về trước đã hiện diện trên y phục của một vài pho tượng Hộ Pháp ở Đồng Dương, Vishnu và Hộ Pháp ở Khương Mỹ hay nhóm tượng người múa khăn ở Khương Mỹ với mô típ đuôi cá ở đầu dải khăn.
· Về chất liệu và kỹ thuật tạc tượng
Trong điêu khắc đá Champa, hầu hết các pho tượng đều được tạo tác từ nguồn sa thạch hồng có kết cấu chắc bền nên việc thể hiện các đường nét hoa văn cầu kì như tượng cổ đồng bằng sông Cửu Long là một điều khó khăn. Các pho tượng Chăm có hình dáng hơi gồ ghề, phần lớn những pho tượng tại BTLSVN – TP. HCM chỉ tập trung thực hiện ở các mặt trước, sau lưng còn nguyên cả khối đá với những nhát đục chưa hoàn thành. Có lẽ chúng được dùng để gắn vào các bờ tường, gốc tháp hay hành lang nên mặt sau không được chú trọng nhiều. Tượng cổ đồng bằng sông Cửu Long được tạo tác theo các qui chuẩn chính xác về cơ thể học, những đường nét hoa văn được thể hiện một cách cầu kì, tinh xảo ở từng bộ phận trang phục và trang sức. Có lẽ cư dân cổ đồng bằng sông Cửu Long đã mai mắn tìm thầy nguồn sa thạch tốt hơn ở miền Trung Việt Nam.
· Về phong cách thể hiện
Ở mỗi vùng đất, trong mỗi giai đoạn lịch sử, tượng cổ Champa đều mang những phong cách riêng. Tuy nhiên, các pho tượng có một đặc điểm chung là đầu đội kiểu mũ Kirita – Mukuta hoặc Jata – Mukuta đôi khi cách điệu, những con linh thú chỉ được thể hiện tượng trưng dưới phần bệ tượng, hiếm thấy vị thần nào cưỡi trực tiếp lên mình thú như trong điêu khắc đá cổ đồng bằng sông Cửu Long.
Phần lớn các pho tượng cổ đồng bằng sông Cửu Long đều đội mũ trụ tròn theo phong cách Ba Tư hoặc kiểu mũ chóp nhọn theo phong cách Amaravati (Nam Ấn), sau lưng các pho tượng đôi khi có khung đỡ vừa tăng giá trị thẩm mỹ, vừa tạo độ vững bền cho pho tượng. Một điều đặc sắc nữa là các vị thần được thể hiện trong tư thế cưỡi trực tiếp lên mình các linh vật, các vật cầm tay của thần cũng được thể hiện rõ ràng.
Tóm lại, sưu tập điêu khắc đá Champa và điêu khắc đá cổ đồng bằng sông Cửu Long chứa đựng những tuyệt tác về nghệ thuật mà BTLSVN – TP. HCM đã mai mắn kế thừa. Những pho tượng trên đã từng hiện diện trong hai nền văn hóa cổ nổi tiếng ở Đông Nam Á, Óc Eo và Champa. Ngày nay chúng là nguồn tài liệu quí giá không những phục vụ thiết thực cho công tác nghiên cứu văn hóa nói chung, nghệ thuật và kỹ thuật tạc tượng nói riêng ở Việt Nam mà còn phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa của cả vùng Đông Nam Á. Công tác nghiên cứu này sẽ góp phần tăng cường sự giao lưu văn hóa, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước trong khu vực cũng như với các nước trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Louis Malleret 1963. Tìm hiểu nghệ thuât điêu khắc Phật giáo và Bà La Môn giáo ở Đông Dương. Bản dịch đánh máy lưu trữ tại BTLSVN – TP. HCM.
2. Phạm Hữu Mí 1995. Điêu khắc đá Champa. Luận án phó Tiến sĩ KHLS.
3. Philip Rawson 1976. The art of Southeast Asia (Nghệ thuật Đông Nam Á). Published in USA.