Ở nội dung bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến những tri thức truyền thống của người Raglai ở Khánh Hòa đối với các loại hoa màu sẵn có trong khu vực cư trú của họ hay do chính họ trồng tỉa, chăm sóc, và công việc bảo vệ, gìn giữ các giống hoa màu trong cuộc sống hằng ngày từ ngàn xưa đến nay người Raglai vẫn làm, đang làm và cũng sẽ tiếp tục làm như thế nhưng với cách thức tiến bộ hơn nhờ áp dụng kỹ thuật và khoa học hiện đại.
Sống trong khu vực địa lý tương đối khắc nghiệt về thời tiết và khó khăn về tự nhiên, mặt khác cộng thêm phương thức canh tác thô sơ nên chuyện đói thiếu trong mùa giáp hạt không phải là chuyện thi thỏang mà gần như trở thành phổ biến đối với người Raglai. Đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, các huyện miền núi như Khánh Sơn, Khánh Vĩnh ở Khánh Hoà trở thành nơi tập kết, căn cứ địa của cách mạng, làm bàn đạp tấn công các căn cứ quân sự ở đồng bằng. Người Raglai ở đây luôn chân chất, một lòng tin theo kháng chiến, họ không chỉ tiết kiệm cho chính mình mà còn phải giúp đỡ lương thực cho các đơn vị bộ đội, cho lực lượng du kích tham gia chiến đấu. .. Vì thế, đã khó khăn về lương thực họ lại càng khó khăn hơn sau những đợt càn quét, những đợt tập kích của địch phải bỏ nương, bỏ làng để lùi dần vào rừng sâu. Hết gạo, bắp thì rau rừng, củ khoai mài trên rừng (kuduh huvuơi hlàq viaq djaq tlar) trở thành nguồn lương thực chính.
Khoai mài cũng có nhiều loại: Loại một bụi có nhiều củ ở rễ như khoai mài apheq, maliau/liau, janing, củ khoai mài sèc, khoai mài yo, capuc, tleh, rakai, huvuơi pagưc, huvuơi vilàc; có loại ăn ngon nhưng củ ở sâu trong đất ...
Khoai sắn rừng cây có lá nhỏ, thân cây màu trắng hơn giống sắn cao sản hiện nay. Củ sắn có vị chát nên trước khi ăn phải luộc kỹ và đổ bỏ nước đầu tiên, luộc lại lần thứ hai mới ăn được. Loại sắn huvuơ groq có củ trắng, thân cây hơi trắng như cây sắn gòn, nhiều củ, ăn ngọt, bùi.. Kinh nghiệm sống ở rừng núi từ hàng trăm năm nay đã truyền cho họ tri thức khi sử dụng các loại khoai dây hay củ rừng. Đối với những cây lương thực này, trước khi ăn người Raglai đều ngâm nước suối, luộc thật kỹ mấy lần mới tránh không bị say, độc.
Rau ở vùng người Raglai ở tương đối đa dạng và phong phú. Có thể kể một vài loại rau rừng phổ biến như rau rịa (djap viaq) hay còn gọi là rau dạ chim cu gáy, có thể ăn được nhiều. Một số người Raglai già ở Khánh Sơn nói rằng loại rau này có thể thay thịt để nấu canh với đọt mây đắng nhưng ăn rất ngọt, thơm (djap viaq pai vanĩh gual layau), ngoài ra cũng có thể nấu trộn với các củ sắn, khoai mài (huvuơi huvlo suvai djap), hoặc nấu cháo với bột bắp giã mịn, với gạo tấm hoặc bắp tấm (priang djap hlưq gilo prieng). Một loại rau không thể không nói đến, bởi hình như loại rau này có mặt ở khắp nơi, đó là loại rau má. Người Raglai còn gọi loại rau này là rau ma, rau mã (hlàq huvlo huvuơi atơu). Loại rau này có thể dùng để nấu canh hoặc nấu cháo. Đặc biệt loại rau ma rau mã này giã lấy nước uống trị được bệnh mệt mỏi (pajrãu ruaq pajiap).
Theo kinh nghiệm của người Raglai dạy bảo con cháu các loại khoai củ (huvuơi chàc vilàc pagùc) trong đất ăn được vào mùa khô hanh đến tháng 10 âm lịch. Rau rừng càng hái thì chồi non mới mọc ra, ăn mới ngon được, tốt nhất là nên hái rau rừng từ tháng tư đến tháng tám âm lịch. Cũng chính nhờ ở tri thức này người Raglai mới biết tận dụng và khai thác được những thức ăn sẵn có trong rừng núi, nơi cư trú của họ để chống lại cái thiếu ăn, đói lương thực trong mùa giáp hạt. Đến nay trong dân gian Raglai vẫn còn lưu truyền những câu nói vần (đờp pacap) về kinh nghiệm chống đói khát:
"Ừq duah ia lapa rưq,
ừq duah viaq lapa,
Duah tlar duah huvuơi..."
Tạm dịch:
"Ngặt đói đi tìm nước đói đi tìm cỏ,
Ngặt đói tìm rau rịa,
Đói thiếu đi tìm củ khoai mài rau rừng..."
Cũng vì thế người Raglai còn có những câu nói như căn dặn con cháu:
"Mãq adãt mũ mucal mã ar paq ranĩ huvuơi huvlo gilo padai sa kuai la ngã, gilo padai jai ratàq..."
(Nhờ bàn tay ngày xưa xin đừng quên củ khoai củ sắn rau rừng khi nói tới đậu mè ngũ cốc, bắp lúa).
Phát xuất từ tín ngưỡng đa thần, người Raglai cho rằng rau củ trên rừng là của núi rừng, là của trời ban cho họ trong lúc khó khăn, do đó người Raglai rất trân trọng và không bao giờ để phung phí. Củ khoai, củ sắn trên rừng đào được nếu ăn không hết thì mang cho những người khác xung quanh cùng ăn chứ không vứt bỏ, đó là điều kiêng kị vì củ khoai, rau rừng là bắp là lúa, là phần cơm quí của ông bà. Theo quan niệm của họ, nếu cho những người khác những sản phẩm từ rừng núi ban cho thì ông bà mới không bắt phải đi đào bới củ mài rau rừng suốt cả đời, có như vậy đến mùa bắp mới thu đầy nhà, lúa thu đầy kho (tang mupha yo pachriah padai vaq pakòc gilo vaq galang).
Trong rừng còn có nhiều loại cây, dây rừng làm men ủ rượu cần như củ danhruiq, của jawai, dây pateh, củ riềng...có nhiều loại cây rừng chặt về sao lên, sắc nước làm thuốc chữa bệnh thông thường như nhức đầu, đau lưng, cảm cúm, đau bụng, tiêu chảy...đó là các loại cây họ đậu. Có loại cây dùng thân, rễ hoa lá như cây hureq reh khiaq, cây lấy vỏ nấu cô lại làm thuốc (djinh cayơu krai). Đặc biệt có cây kreq có trái như trái đậu màu đỏ tươi trị đau bụng tiêu chảy, tả lị; giống cây chuối ở suối (juãi ruguh) lấy củ chuối rang lên nấu nước trị bệnh kiết lị.
Núi rừng còn cho người Raglai những cây trái khác để ăn cho cơn đói ngòai rau, củ mài còn có trái cây "dây vỏ buộc đít mũi tên" (voh tluat voh hureq tluat brơp), trái cây koh khuơl, cây voh sumupòq, cây voh lat, trái bí hang voh tuwu. Loại trái ăn rất mát và cũng là một loại thuốc như trái ươi (ư voh chalàt) ngâm nước nở bung ra rất lớn, trái cây kơnia có thể đập ra lấy hạt để ăn sống hoặc rang lên ăn rất thơm...
Trong dân gian Raglai hiện vẫn còn truyền nhau câu chuyện kể về việc thử thách sự kiên trì, chịu thương chịu khó của con người khi đi tìm cái ăn, có vật liệu làm nhà tốt... Trước kia khoai mài có rất nhiều củ nhỏ bằng cổ tay ở sát mặt đất con người rất dễ dàng tìm thấy để ăn; lá tranh, dây mây to như các tàu lá chuối khiến người Raglai ỷ lại cứ chui vào đó mà ở luôn hoặc là ở các gộp đá... ông bà Cơi Masrĩh Mỏq Vila (ông bà Tổ mẫu- người Raglai tin đây là các nhân vật có thật, là tổ tiên từ xa xưa của người Raglai) sợ con cháu Raglai không làm gì mà vẫn có cái để ăn, có chổ để ở bèn cho bụi khoai mài có mùi khai như phân dê, mùi nước đái bò, phải đào sâu xuống đất mới tìm thấy củ khoai; ông bà Cơi Masrĩh Mỏq Vila xé lá tranh , dây mây nhỏ như ngày nay để muốn có cái lợp người Raglai phải cắt về phơi rồi đan thành từng liếp, từng tấm mới lợp thành mái mà ở.
Trong mỗi gia đình Raglai đều có hai loại lương thực chính là bắp và lúa để nuôi sống gia đình. Điều đầu tiên, người Raglai chọn đất phù hợp để sản xuất từng loại cây lương thực. Đối với đất trồng lúa thì không chọn núi cao quá vì gió sẽ làm cho lúa không thể đậu được bông, đất trũng lúa sẽ bị ngã trước khi trổ bông. Đất để trồng lúa rẫy là vùng đất đồi thấp. Không chọn nơi có thân cây to, rừng lồ ô, rừng le, rừng có mọc nhiều cây lá dong, người Raglai rất kiêng cữ, sợ cây thân to cổ thụ, sợ cây sung cây đa (cayơu dlai tuha inã mum, ảiq dac kat dac vinủq, kat jua hara valơu: Rừng cây già tổ mẫu có nhiều sợi dây uốn, sợi dây cây đa, dây uốn cây đa cây sung ác thần như đàn bà góa bụa, nơi đấy có ác thần độc địa). Không chọn đất trũng, vùng thấp sợ lúa rẫy sẽ cao mà ngã.
Để chọn đất trồng bắp (ruah lơt dahnỏq ngãq drap gilo) người Raglai không chọn đất núi cao mà chọn nơi triền đồi thấp. Theo họ, trồng bắp (gilo)ở vùng đất thấp vừa có nhiều cỏ, cây bắp cao dễ bị ngã do các luồng gió. Các vùng trũng họ không sử dụng làm nương rẫy mà chỉ làm lúa nước. Các thửa ruộng nước (viq loq ar humã) được phân ra các tên gọi khác nhau tùy theo diện tích của nó: ruộng lớn gọi là viq humã, miếng ruộng vừa và ruộng nhỏ là jưq ar humã.
Cùng với quá trình sinh tồn của mình, người Raglai đã tìm và tạo ra các giống lúa khác nhau để sản xuất. Có thể kể một vài loại phổ biến như sau:
-Tính theo thời gian có lúa nhẹ tháng (padai sidjuơl) và lúa dài tháng (padai va-ảq).
-Phân loại theo loại: lúa nếp (padai tlìq) và lúa tẻ (padai sruai va-ảq)
Mỗi loại lúa lại được người Raglai phân ra thành nhiều loại khác nhau tùy theo đặc điểm của nó. Ví dụ như lúa nếp bao gồm các lọai: lúa nếp cánh (padai tlìq machhiảq), lúa nếp màu đất (padai tlìq valơt), lúa nếp đen đít nồi (padai tlìq jùq goq), lúa nếp quạ (padai tlìq àq), lúa nếp đen màu mực (padai tlìq pađưc)...Lúa tẻ (padai sruai va-ảq) còn chia ra: lúa tẻ sàng sãy (padai stacai diri), lúa tẻ thóc đỏ gạo trắng (padai sruai maliac), lúa tẻ hạt dài dây leo (padai sruai wac hureq), lúa tẻ hạt tròn lớn (padai sruai wac voq)...
Bắp cũng được phân ra nhiều giống với các tên gọi khác nhau như: Bắp tẻ dài tháng dài năm (gilo sruai va-ảq), bắp nhiều màu, hạt trắng xanh da trời và hạt đen trắng (gilo sruai chalaq) bắp trái nhỏ vừa chắc hạt, hạt vàng hoặc trắng, hạt xanh da trời (gilo sruai cabơu), bắp lao trái to hạt trắng hoặc hơi vàng (gilo sruai sabràq), bắp hạt lòi ra trên vỏ (gilo sruai plơt), bắp trái dài như cây le (gilo sruai sanràq ale), bắp tẻ trái to hạt đỏ (gilo sruai dadàc), bắp nhẹ tháng ngắn ngày (gilo sruai sidjuơl trẽq), bắp ít đốt thấp bằng chân chó (gilo sruai treq tacai asơu), bắp nếp trái to (gilo tlìq jùq goq), bắp nếp nhẹ tháng (gilo tlìq kòq), bắp nếp đen đít nồi (gilo tlìq jùq goq)...
Đậu (ratàq) cũng là một loại lương thưc có thể ăn riêng hoặc nấu chung với những vật liệu khác như rau, thịt, các loại trái củ khác để tạo nên thức ăn hàng ngày của người Raglai. Tuy không phải là cây lương thực chính như bắp và lúa nhưng trong rẫy nương của người Raglai vẫn có rất nhiều loại đậu khác nhau:
Đậu gạo (ratàq tanẽh) hạt nhỏ, dài, màu đỏ, dùng để nấu trộn với gạo, bắp ăn bùi và mềm cơm hơn, Ratàq djap: loại đậu dùng trái non để nấu canh hầm thịt, ratàq agal: Đậu nấu canh hầm thịt, ruvai djap: đậu ván dùng trái non hoặc hạt để nấu canh...Các loại đậu này người Raglai thường trồng xen cùng với cây bắp, khi cây bắp thu hoạch xong thì cũng là lúc cây đậu leo lên cây bắt đầu trổ bông kết trái.
Cũng là thực phẩm trồng trên rẫy ngòai bắp, lúa, đậu còn có khoai củ. Các loại khoai củ để lâu trong kho giúp cho người Raglai qua những lúc giáp hạt, đói kém. Khoai mài trồng trên rẫy cũng là một trong những vật phẩm không thể thiếu trong lễ tết ăn đầu lúa mới (bơc kakìq) của người Raglai. Khoai củ trồng cũng có nhiều loại như khoai mài, củ từ, khoai môn, khoai sắn...mỗi loại khoai đều có một màu sắc, cách trồng ,chăm sóc và chế biến thành nhiều loại thức ăn khác nhau.
Trong câu nói hàng ngày, trong ca dao, thành ngữ và ngay cả trong các akhàt jucar của mình, người Raglai luôn có canh (djap) đi kèm theo cơm (vu/buh). Canh được nấu từ nhiều nguồn nguyên vật liệu khác nhau như rau quả trên rừng, rau quả trồng trong vườn, nấu chung với thịt, cá... Có thể kể một vài loại canh mà người Raglai thường dùng trong bửa ăn hàng ngày của họ như sau: Canh nấu với trái bầu (djap viluai voh viluai), canh bí đỏ (djap diduq voh pluơi), canh bí trắng (djap voh sadàt), canh rau hoa cúc (djap haniaq), canh rau ma (djap hlàq huvuơi lo atơu)...Cũng như người Việt (Kinh) thường hay nói "cơm thịt, cơm cá"...người Raglai lại nói là cơm canh. Có thể nói canh rất hiếm khi nào thiếu trong một bửa ăn của người Raglai ở Khánh Hòa, thậm chí người ta còn nấu canh ăn thay cơm khi lương thực trong kho đang cạn dần mà mùa thu hoạch chưa đến. Bắp, gạo lúc này chỉ để dành cho những người già, trẻ em hay cần thiết mà thôi. Một trong những điều cấm kị của người Raglai là không bao giờ được ăn đến lúa, bắp, khoai giống. Dù có thiếu ăn, có chết đói đến nơi họ cũng nhất quyết bảo vệ giống má trong kho để trồng trỉa cho vụ mùa sau chứ không hề đụng đến. Hiện nay nếu chúng ta đi đến vùng người Raglai ở Khánh Hòa đang ở, trên các nương rẫy thỉnh thỏang lại thấy một căn nhà sàn nhỏ bé chỉ từ 4 đến 6 hay 8 cột, diện tích vỏn vẹn khỏang trên dưới 6 mét vuông, mặt sàn cao khỏang 1 đến 1,2 mét. Đấy chính là nhà kho của người Raglai. Từ ngàn đời đến nay, mặc dù không hề cử người canh giữ những nhà kho chứa lương thực trên nương trên rẫy, nhưng cũng không bao giờ bị mất cắp, lấy trộm giống má của nhau.
Theo tín ngưỡng của mình, người Raglai quan niệm giống má, lương thực là hạt ngọc trai, là hạt ngọc gái (cunãi sisrĩt lacơi ranỉq pariaq), là thần linh, họ còn gọi là Chúa trắng tinh khiết (Pukòq). Hạt gạo tượng trưng cho ba nàng công chúa: Nàng gạo lớn, Nàng Đầu lòng (Kachua vra), Nàng gạo thứ hai (Khrãh vra) và Nàng Út (Tiluiq vra).
Trong lời cầu cúng của người Raglai khi khấn các thần gạo, thần lúa trong lễ tết lúa mới (Bơc Kakìq), họ vẫn thường nói với nhang (yàc ): "Vungãq tiluiq khrãh vra, vungãq vra kachua chum...", có nghĩa là: Hồn của lúa gạo út mang hồn gạo thóc đầu lòng, nay xin được ăn gạo ăn bắp...Cây lúa, cây bắp, cây đậu...là mẹ (beq inã gilo, beq inã padai), hạt lúa, hạt bắp, hạt đậu, hạt kê... là con (voh uràc anảq gilo, anảq padai, anảq jai, anảq langã...). Từ quan niệm này mà người Raglai khi thu hoạch không cắt, đập...sợ làm đau người mẹ (piđìq tahu pi inã aluah gilo padai sakuai langã jai ratàq), bắp chỉ bẻ, lúa được tuốt từng bông một (chũiq sapuaq ruiq sapuat). Dùng lòng bàn tay và các ngón tay tuốt hạt bỏ vào tó, khi tó đầy mới đổ vào gùi. Trong quá trình thu hoạch gùi luôn phải đeo chắc chắn ở vai hoặc để ở vị trí vững chãi, không để cho ngã. Gùi bị ngã, đổ trong khi thu hoạch lúa sẽ làm cho lúa sợ bay hồn vía. Cái tó, cái gùi không được tung bổng, quăng, ném trong khi tuốt ,suốt lúa.
Bắp lúa, hoa màu khi thu hoạch về không được bước, không được nhảy qua, không được làm rơi vãi... đó là những điều kiêng kị. Sau khi thu hoạch tất cả hoa màu trên rẫy, người Raglai bắt đầu làm tết Kakìq (lễ hội ăn đầu lúa mới).
Để bảo quản được giống má từ xưa đến nay, người Raglai ở Khánh Hòa đã trao truyền lại cho các thế hệ những kiến thức trong quá trình thu hoạch và bảo quản các giống lúa, bắp, đậu, khoai...
Đối phó với sâu, mối mọt làm hư hỏng giống má, người Raglai đợi lúa thật chín, bắp thật khô mới thu hoạch, nơi cất giữ lúa giống là nhà kho được làm theo kết cấu nhà sàn cao từ năm đến bảy nấc thang. Lúa chất thành đụn, bắp được buộc thành chùm làm giống. Bắp nếp để nguyên vỏ rau, bắp tẻ cắt đầu râu chống mối mọt thâm nhập vào. Với những tri thức truyền thống của mình, người Raglai quản lý được giống trong kho từ năm đến bảy năm mà không hư hại gì cả.
Ngày nay, đã có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để giúp người Raglai phát triển mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Một trong những công việc đó là cấp các loại giống bắp, lúa nước, lúa rẫy, sắn cao sản...đã giúp cho người dân Raglai đang ngày càng phát triển, xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên hệ quả của những công việc này chính là sự ỷ lại của một số bộ phận bà con Raglai. Mặc dù không phổ biến nhưng không thể nói là không có. May mắn thay đó chỉ là hiện tượng. Ngày nay, người Raglai đang biết vận dụng tiến bộ khoa học kết hợp với tri thức truyền thống của mình trong canh tác, sản xuất các loại cây lương thực, trong việc bảo quản các loại giống hoa màu. Tương lai của họ đang rộng mở cùng với quá trình phát triển chung cả nước.
TKH
______________________________________________________________
Để hoàn thành được bài viết này, chúng tôi đã được ông Chamaliaq Riya Tiẻnq-nghệ nhân Raglai ở Khánh Sơn tỉnh Khánh Hoà cung cấp rất nhiều thông tin- xin chân thành cảm ơn ông.