1. Nỗ lực từ phía Nhà nước, chính quyền và ngành văn hóa trong bảo tồn và phát huy DSVH cồng chiêng
Theo Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (Paris, 17/10/2003) thì một di sản phi vật thể, muốn duy trì được sức sống của nó, phải có ý nghĩa với cộng đồng và liên tục được cộng đồng đó tái tạo, lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nếu không được quan tâm, một số di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ mai một hoặc sẽ biến mất. Do vậy, công việc bảo tồn đặt ra gồm “... các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, truyền dạy, đặc biệt là thông qua hình thức chính quy cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này” (mục 3, điều 2). Theo tinh thần Công ước ấy, và với xuất phát điểm, xem văn hóa dân tộc là sức mạnh, là động lực của sự phát triển, từ năm 2006, các ban ngành hữu quan, quản lý văn hóa ở các tỉnh Tây Nguyên đã có những chủ trương xây dựng thành các đề án, đặt ra một chương trình nghiên cứu tập trung, lâu dài, cụ thể gồm ba nhóm việc: (1) Sưu tầm và nghiên cứu; (2) Bảo tồn và phát huy; (3) Truyền dạy và quảng bá. Và đặt ra các chương trình hành động cho từng giai đoạn cụ thể về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng phù hợp với tiềm lực, vật lực và nhân lực của tỉnh. Trong đó, tỉnh Đak Nông, hai năm sau khi tỉnh được thành lập, ngoài nguồn kinh phí được UNESCO tài trợ trên 100.000 USD để bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng tại địa bàn, kết hợp từ nguồn ngân sách hỗ trợ của địa phương dành gần 5 tỷ đồng để thực hiện đề án “Bảo tồn lễ hội, hoa văn, cồng chiêng và nhạc cụ dân tộc Mơ nông, giai đoạn 2006-2010”. Qua đó, tỉnh đã khôi phục được 30 lễ hội lớn nhỏ của đồng bào Mơ nông và trang bị cồng chiêng được 122 bộ cho nhiều bon không có cồng chiêng.
Từ nguồn kinh phí của dự án, địa phương đã xây dựng và thành lập được 8 đội cồng chiêng tiêu biểu, xây dựng quy chế hoạt động của câu lạc bộ, sau đó đã nhân rộng mô hình này đến các bon. Ngoài ra, địa phương còn chú trọng vào công tác truyền dạy cồng chiêng ngay tại bon, buôn cho thế hệ trẻ là con em của đồng bào dân tộc tại địa phương.
Tiếp sau đề án trên, tỉnh Dak nông tiếp tục triển khai đề án: “Bảo tồn lễ hội, cồng chiêng các dân tộc bản địa tỉnh, giai đoạn 2011 -2015” với tổng kinh phí 10 tỷ đồng. Đề án này ngoài việc chú ý khôi phục lại các lễ hội truyền thống thì tiếp tục duy trì công tác truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ là con em của đồng bào Mơ nông trong bon. Đề án nhấn mạnh đến việc đào tạo lớp kế cận biết đánh cồng chiêng, được xem là một kênh bảo tồn quan trọng. Do đó, kết hợp với các ban ngành khác trong tỉnh Dak nông, ngành văn hóa - cụ thể là Sở Văn hóa tỉnh đã có một chương trình cụ thể phối hợp với Bảo tàng: từ năm 2010 đến nay đã thực hiện phối hợp với phòng giáo dục “đưa bảo tàng đến trường học” - đưa các hiện vật lịch sử đến các trường học, tổ chức 7-10 lần/năm, trong đó cồng chiêng được đưa vào trưng bày, giới thiệu và đã tạo hiệu ứng tốt cho con em vùng đồng bào không có điều kiện đến bảo tàng. Và phối hợp với Trung tâm Văn hóa tỉnh triển khai các lớp dạy cồng chiêng[2]:
“Ở Dak nông hiện có 71 đội cồng chiêng, họ duy trì sinh hoạt ở ngay tại bon của mình và hiện ở trung tâm của chúng tôi cũng có một đội cồng chiêng. Tùy theo lượng kinh phí mà mỗi năm chúng tôi tổ chức được khoảng 2-3 lớp dạy đánh cồng chiêng, mua sắm được trang phục cho đội. Về tổ chức lớp học, có người già người trẻ, các bon sẽ cử người lên học, thời gian học tập trung chừng 10-15 ngày và yêu cầu sau khi kết thúc khóa học thì mỗi người tham gia phải biết diễn tấu được một vài bài chiêng. Ngoài dạy đánh cồng chiêng, chúng tôi còn mở cả lớp chỉnh chiêng, lớp dạy làm cây nêu truyền thống theo tinh thần của đề án "Phát huy lễ hội, hoa văn và cồng chiêng truyền thống" do Sở triển khai. Kết thúc mỗi khóa học thì các đội cồng chiêng về sinh hoạt tại bon và địa phương nơi có đội cồng chiêng sẽ có trách nhiệm nhắc nhở sinh hoạt, đánh giá. Bên cạnh đó, chúng tôi còn thực hiện đào tạo khóa học tại một số bon của đồng bào dân tộc. Chẳng hạn, vừa rồi chúng tôi tổ chức lớp học ở Bon Pinao, đã xây dựng được cho họ các lớp: hát, đánh cồng chiêng, diễn xướng cồng chiêng và tổ chức giao lưu, phục vụ diễn xướng tại cộng đồng”.
Bên cạnh đó, cồng chiêng còn được đưa vào dạy trong trường học, cụ thể là trường dân tộc nội trú nơi có con em đồng bào dân tộc học tập trung; đây được xem là một giải pháp thiết thực, gắn với địa bàn, triển khai xuống tận huyện, tận bon làng, như trường hợp huyện Dak Rlấp, phòng VHTT huyện đã kết hợp với Phòng Giáo dục huyện:
“Vừa qua, chúng tôi cũng đã tổ chức được 1-2 lớp học tại trường dân tộc nội trú: truyền dạy các bài chiêng và diễn tấu chiêng... cho các em và được các em đón nhận nhiệt tình[3]”.
Ngoài ra, ngành đặc biệt chú ý vào việc nâng cao năng lực cho đội ngũ nghệ nhân:
“. Mở lớp truyền dạy phổ cập trong hệ thống Nhà văn hóa cộng đồng cho các đối tượng là người dân tộc tại chỗ yêu thích cồng chiêng nhưng chưa đánh chiêng bao giờ.
. Mở lớp truyền dạy cồng chiêng phổ cập và nâng cao trong các trường Dân tộc nội trú.
. Mở lớp truyền dạy biểu diễn cồng chiêng cho những người đã biết đánh chiêng nhưng đã bị mai một (do đã lâu không tham gia).
. Mở lớp nâng cao năng lực nghệ nhân truyền dạy cồng chiêng.
Trong 5 năm qua, tỉnh đã tổ chức được 70 lớp cồng chiêng tại các nhà văn hóa cộng đồng, 14 lớp tại các trường PT DTNT (trong đó có 7 lớp phổ cập và 7 lớp nâng cao), 10 lớp nâng cao năng lực nghệ nhân (trong đó 2 lớp cấp tỉnh và 8 lớp cấp huyện) [Lê Thị Hồng An 2009].”
Tỉnh còn đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao năng lực nghệ nhân truyền dạy cồng chiêng” khi mạnh dạn đưa người Kinh yêu thích cồng chiêng tham gia các lớp học này với “hy vọng tất cả các dân tộc đều có thể tham gia vào việc bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng và họ sẽ cùng hỗ trợ, bổ sung kiến thức cho nhau... và có thể tìm ra những phương pháp truyền dạy hợp lý nhất để các học viên có thể tiếp thu được một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất và hiệu quả nhất…” [Lê Thị Hồng An 2009: tr. 15].
Kết hợp với các nghệ nhân am hiểu về cồng chiêng, ngành văn hóa tỉnh đã tổ chức được hai lớp: nâng cao kỹ năng chỉnh, sửa chiêng; lớp nâng cao kinh nghiệm dạy diễn tấu chiêng và bổ sung thêm các bài nhạc chiêng có nguy cơ bị thất truyền. Sắp tới trong công tác bảo tồn di sản cồng chiêng vẫn rất chú ý đến kênh bảo tồn này, mở rộng thêm với những hình thức: tập huấn, tọa đàm, giao lưu học hỏi kinh nghiệm trong và ngoài tỉnh, tổ chức "trại sáng tác" các nghệ nhân dân gian, xây dựng tài liệu để ghi lại các kinh nghiệm, các bài nhạc chiêng bằng văn bản, bằng phim ảnh, ... để hỗ trợ cho công tác truyền dạy, học tập và nghiên cứu về di sản cồng chiêng của các dân tộc bản địa tỉnh Dak nông [Lê Thị Hồng An 2009 ].
Tóm lại, từ sau khi được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể truyền khẩu của nhân loại, những giá trị văn hóa cồng chiêng sau một thời gian bị ngủ quên, có nguy cơ bị mai một đã được nhận thức lại trong các sinh hoạt của cộng đồng. Sự hồi phục này là nhờ sự nỗ lực, đầu tư tập trung kịp thời của Nhà nước và đặc biệt là sự quan tâm của các địa phương nói chung, Dak nông nói riêng - nơi không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên tồn tại. Vì vậy, dù biết rằng cuộc sống vận động là vừa có tính nguyên mẫu, vừa có những sáng tạo và mọi sự phân tích đều không tránh khỏi tính chủ quan, do vậy chọn kênh tiếp cận với góc nhìn từ phía cộng đồng/chủ thể của di sản cồng chiêng sẽ cho ta một cái nhìn đa chiều, khách quan hơn về thực trạng, về sức sống của di sản này trong đời sống văn hóa. Từ đó, có thể thấy được hiệu quả, những nỗ lực từ các chính sách bảo tồn văn hóa cồng chiêng của các nhà quản lý thấm vào đâu trong lòng cộng đồng từ sau khi cồng chiêng được thế giới công nhận. Vì cộng đồng chính là chủ thể văn hóa, là những người duy trì sự tồn tại của nó, cho nên họ có một vị trí đặc biệt trong việc bảo vệ nó, quyết định sự sống còn của nó.
2. Tiếng nói từ phía cộng đồng/ chủ thể văn hóa cồng chiêng
Trong xã hội truyền thống, cồng chiêng trong lòng cộng đồng các dân tộc bản địa Tây Nguyên có một vị trí đặc biệt, hết sức thiêng liêng: gắn bó với vòng đời một con người; nối dài tình cảm cộng đồng bằng sức mạnh thiêng kết nối được với thế giới các vị thần. Vì thế, khi cồng chiêng được UNESCO công nhận trở thành một di sản phi vật thể truyền khẩu của nhân loại thì danh hiệu ấy được xem như một động lực làm thức tỉnh đời sống văn hóa của bon làng, mỗi người như được thấy trở lại là chính mình trong dòng chảy cuộc sống hiện đại. Anh Y Măng - là một nghệ nhân giỏi ở bon Pinao[4] - hào hứng kể:
“Cồng chiêng bây giờ được thế giới biết đến... đồng bào mừng lắm chứ. Nhờ có Nhà nước, chính quyền quan tâm mà tui được học thêm nhiều bài chiêng của ông bà, được đi Đan Mạch biểu diễn năm rồi (2013), biểu diễn xong tui thấy họ vỗ tay dữ lắm, thấy cũng mừng là họ biết đến cồng chiêng của đồng bào. Rồi trong các Ngày hội văn hóa các dân tộc, các kỷ niệm của huyện xã thì đội cồng chiêng của tui đều đi tham gia hết đó”
Nói một chút về bon Pinao, đây là một bon cổ, sống đa phần là tộc người Mơ nông bản địa - có thể xem như vùng sâu vùng xa thuộc xã Nhân Đạo, huyện Dak Rlấp, mà theo lời cán bộ phòng VHTT huyện[5] thì:
"Văn hóa cồng chiêng còn được thực hành nhiều, vì trong bon tập trung sinh sống chủ yếu là dân tộc Mơ nông, và hầu như họ vẫn giữ được những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống, các tôn giáo mới chưa xâm nhập vào nhiều và đặc biệt họ có đội cồng chiêng rất mạnh, có những nghệ nhân giỏi...”
Qua thực tế điền dã tại bon, nhận thấy từ khi ngành văn hóa có những chính sách, kinh phí đầu tư cho hoạt động bảo tồn văn hóa cồng chiêng, mà cụ thể là có câu lạc bộ cồng chiêng về đến tận bon thì giá trị văn hóa cồng chiêng đã phần nào được nhận thức lại trong suy nghĩ của người dân và bản thân họ cũng đã bắt đầu ý thức về giá trị nội tại của những bộ chiêng quý[6]:
“… Hiện nhiều gia đình trong bon đã lên rẫy mang mấy bộ cồng chiêng cổ, quý về giữ trong nhà, xem như một phần còn lại của ông bà. Do vậy, bây giờ chúng tôi có tập dượt đánh chiêng thì chỉ đánh chiêng do Nhà nước mua/trang bị cho thôi chứ không được đánh chiêng của gia đình, do ông bà xưa để lại vì mấy ông bà già giờ giữ kỹ lắm, họ không cho mang ra đánh đâu, vì họ sợ làm hư chiêng của họ... họ giữ ghê lắm!”[7]
Thực tế là ngay chính người làm quản lý văn hóa, người nghiên cứu sưu tầm các hiện vật cho Bảo tàng cũng có nhận xét:
“...Từ khi cồng chiêng được công nhận là di sản thế giới, về cơ bản tôi thấy là tất cả người dân - đặc biệt là đồng bào dân tộc - rất mừng, phấn khởi tự hào về di sản này... Nói về sự thay đổi này, tôi muốn nói đến câu chuyện đi sưu tầm hiện vật của tôi. Sưu tầm cồng chiêng bây giờ cũng khó khăn lắm nhưng khó là khó cho người đi sưu tầm thôi còn lại rất thuận lợi cho dân. Người dân bây giờ không bán cồng chiêng nữa vì họ thấy được giá trị và ý nghĩa của nó. Ở những bon cổ thì ý thức giữ gìn của họ cao hơn, có nhiều gia đình còn giữ được những bộ chiêng quý, đã có nhiều nhà sưu tầm tư nhân trả giá cao để mua cho được bộ chiêng đó... nhưng gia đình, dòng họ nhất quyết không cho bán, họ không muốn bán là vì họ nói là muốn giữ lại cho con cháu”[8]
Có thể nói, với quá trình sưu tầm, tư liệu hóa những nghiên cứu về giá trị văn hóa cồng chiêng, quá trình thực hiện các giải pháp, theo từng giai đoạn của công tác bảo tồn văn hóa cồng chiêng ở các địa phương đã có những tác động tích cực đến quá trình nhận thức lại những giá trị văn hóa của loại hình di sản này và bước đầu tạo dựng được niềm tự hào, ý thức quay trở lại bảo vệ di sản của cộng đồng. Tuy nhiên, ý thức của chủ thể mới chỉ dừng lại, xem trọng ở cấp độ giá trị vật chất - đó là giữ lại những chiếc chiêng cổ, quý với suy nghĩ rằng đó là "những kỷ vật, là kỷ niệm, là chiêng của ông bà già xưa để lại", nhờ vậy đã hạn chế được phần nào nạn chảy máu cồng chiêng.
Tuy nhiên, trong quá trình trao đổi, khảo sát tại thực địa, người viết nhận thấy bản thân họ chưa thực sự chú ý, ý thức nhiều đến việc phải làm sao phát huy, bảo vệ những giá trị tinh thần đã làm nên chiếc chiêng quý, thành một chiếc chiêng có "hồn chiêng" - có nghĩa là chưa phát huy hết được sức mạnh, giá trị văn hóa của chiêng trong đời sống hiện tại của cộng đồng. Điều này cho thấy bảo tồn " tĩnh" : sưu tầm, thống kê, lưu trữ, tư liệu hóa di sản, nghiên cứu giá trị di sản... khá tốt, hiệu quả. nhưng bảo tồn " động" làm sao phát huy được môi trường sống của di sản đó do chính cộng đồng/chủ thể văn hóa thực hiện thì chưa được chú ý, chưa thực sự hiệu quả.
Việc chủ thể văn hóa của cộng đồng đó tích cực tham gia vào các lớp tập huấn, truyền dạy đánh cồng chiêng, chỉnh chiêng, làm cây nêu ... đã phần nào đánh thức được tâm thức cộng đồng niềm tự hào văn hóa truyền thống, tự tin hơn trong hòa nhập vào cuộc sống đương đại khi mà lâu nay họ thu mình và trong suy nghĩ nhiều người họ xem đó là thứ văn hóa lạc hậu, bảo thủ. Nói như vậy để thấy rằng việc phát huy giá trị di sản vào trong đời sống, làm cho di sản ấy liên tục, trở thành nó trong đời sống văn hóa cộng đồng không phải là một quá trình tỉ lệ thuận với ý thức muốn bảo vệ. Đó là khó khăn trong duy trì cồng chiêng trong môi trường diễn xướng: là lễ nghi, lễ hội, là không gian rừng, là tín lý đa thần... gắn với một không gian văn hóa cụ thể nơi mà cồng chiêng ký thác, tồn tại đi liền với cả những bức bách đòi hỏi cần thay đổi, phát triển của đời sống thực tế. Mà cái không gian ấy lại "dễ vỡ" chịu sự tác động của những yếu tố kinh tế, xã hội, quá trình giao lưu văn hóa, quy luật phát triển nội tại của chính bản thân cộng đồng đó... nên, ở một góc độ nào đó, vừa là lực cản vừa là lực đẩy ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện phát huy giá trị di sản cồng chiêng trong đời sống văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên. Do vậy, trong quá trình thực hiện những chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa cồng chiêng những năm gần đây đã gặp phải tâm lý ỉ lại, trông chờ của đồng bào vào sự đầu tư của nhà nước. Đó là, khi có đầu tư, có kinh phí và có tổ chức các sự kiện văn hóa nào đó của tỉnh, hay huyện xã mà được yêu cầu biểu diễn thì họ tham gia. Qua điền dã từ thực tế, ghi nhận:
- Trong quá trình tham gia thực hành văn hóa cồng chiêng trong một số sự kiện văn hóa của huyện, tỉnh, người làm quản lý gặp phải một sự "trả giá" từ phía người tham gia - nghệ nhân:
“Về sự thực hành cồng chiêng thì hiện nay, tại địa phương hàng năm có tổ chức các sự kiện văn hóa: ngày hội văn hóa thể thao, ngày hội các dân tộc... thì địa phương đó có sẵn đội cồng chiêng của bon tham gia diễn tấu thì mời họ diễn tấu thôi chứ tự họ bây giờ đứng ra tổ chức một lễ hội thì họ không có điều kiện và tiền để tổ chức. Thế mà đôi khi chúng tôi cũng gặp khó khăn khi tìm người tham gia đó. Có những người chúng tôi phải tìm đến tận nơi thuyết phục họ tham gia vì họ đòi hỏi phải có tiền, phải trả tiền cho họ thì họ mới tham gia...”[9]
“... để tuyên truyền cho người dân và để họ ý thức hơn với văn hóa truyền thống của mình thì hiện nay Nhà nước hầu như bỏ tiền ra làm. Mà tôi nghĩ việc đánh cồng chiêng không thể khiên cưỡng, phải xuất phát từ sự tự nguyện thì tiếng chiêng mới thiêng liêng, mới có hồn và quan trọng là đồng bào phải ý thức được vốn văn hóa mà họ đang sở hữu, chứ như bây giờ Nhà nước đầu tư lễ hội từ A đến Z: như mua một con trâu 15-20 triệu, trả tiền cho người tham gia ... mà thấy lễ hội vẫn diễn ra có phần nhạt nhẽo thế nào ấy. Do vậy, việc rót tiền của Nhà nước từ A-Z như hiện nay cần được xem lại. Tôi nghĩ quan trọng là đồng bào phải ý thức về văn hóa của họ thì lúc đó họ sẽ tự nguyện và quyết định cái gì là tốt nhất cho mình.”
Và thực tế là sinh hoạt cồng chiêng đã bị đứt đoạn trong dòng chảy cuộc sống hiện tại của các dân tộc Tây Nguyên; việc tổ chức lễ hội của gia đình, cộng đồng không còn xuất phát từ nhu cầu tâm linh, từ nhu cầu gắn kết với thế giới thần linh để hòa mình vào vũ trụ, tự nhiên nữa mà ở đây là mối quan hệ xã hội, những bức bách của nhu cầu kinh tế đã đẩy họ xa dần khỏi mối quan hệ với vũ trụ - thần linh, tự nhiên. Do vậy, việc duy trì sinh hoạt cồng chiêng hiện nay vẫn mang tính chất trào lưu, phong trào, mang tính biểu diễn, chưa gắn với nhu cầu văn hóa thực sự của cộng đồng:
“Từ khi cồng chiêng được công nhận là di sản của thế giới thì tôi thấy về cơ bản là các dân tộc Tây Nguyên vui mừng, tự hào nhưng nói về mức độ thực hành cồng chiêng thì vẫn chỉ là có tính chất trào lưu, mà chị biết thì trào lưu là có lúc lên, lúc xuống tùy thuộc vào mức độ quan tâm, đầu tư của Nhà nước. Thông thường nếu được tổ chức thì đa phần là người già còn mặn mà tham gia chứ lớp trẻ thì thờ ơ... nhưng có tổ chức thì họ mới tham gia chứ tự gia đình họ tổ chức thì không...” [10]
Nếu nhìn lại thời điểm trước 2005, khi cồng chiêng chưa được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể truyền khẩu của nhân loại, thì "nạn chảy máu cồng chiêng" diễn ra khá nghiêm trọng, được báo giới quan tâm cảnh báo thì nay, sau khi được là di sản thế giới, nạn chảy máu đã chững lại, cồng chiêng không còn rơi vào tình trạng báo động của sự mai một. Nhưng ta phải thừa nhận rằng giá trị hiện vật và giá trị văn hóa tiềm ẩn trong hồn chiêng đã không còn giữ được nguyên vị ban đầu trong đời sống cộng đồng Tây Nguyên nữa và lo lắng sinh hoạt cồng chiêng trở thành một sản phẩm của Nhà nước cũng không phải là không có cơ sở: Nhà nước rót tiền từ A đến Z, mời chủ thể văn hóa tham gia, tổ chức các sự kiện văn hóa, tổ chức phục dựng các lễ hội, lễ cúng được sân khấu hóa... tất cả hợp lại để tạo nên một môi trường diễn xướng cồng chiêng có sự xếp đặt. Do vậy cồng chiêng chỉ còn thấy được ở khía cạnh âm nhạc biểu diễn, trở nên lạc lõng xơ cứng giữa một rừng người. Một hồn chiêng làm nên văn hóa rất riêng của tộc người giữa một không gian bao la của đại ngàn đã không còn vang nữa, liệu đến một lúc nào đó hiện thực văn hóa này cũng chỉ còn tồn tại trong ký ức, hoài niệm?
“Về di sản cồng chiêng, từ khi được công nhận đến giờ thì có duy trì được một cơ chế chính sách để di sản này không tiếp tục mai một nhưng thực ra theo tôi mới chỉ là chú ý đến tính phong trào chứ chưa chú ý đến cái đằng sau của hiện vật cồng chiêng - đó là giá trị tinh thần, giá trị ngôn ngữ đậm tính trần gian và tâm linh của cồng chiêng. Với cách làm như hiện nay, tôi thấy chưa hiệu quả, chỉ mới làm chững lại quá trình mai một thôi, và sợ đến một lúc nào đó văn hóa dân gian Tây nguyên, cụ thể là sinh hoạt cồng chiêng theo kiểu bây giờ trở thành một sản phẩm của Nhà nước. Mà nếu cứ kéo dài như hiện nay thì lo xu hướng này trở thành một thói quen ăn sâu vào suy nghĩ của mọi người.” [11]
- Bên cạnh đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản cồng chiêng qua đào tạo truyền dạy, tổ chức sinh hoạt trong các câu lạc bộ cồng chiêng với quy chế hoạt động cũng còn nhiều bất cập..., đang vấp phải chính những vấn đề bức bách của cuộc sống: là nhu cầu làm kinh tế, là quá trình thúc bách của hội nhập, giao lưu, là sự không mặn mà của đa phần thế hệ trẻ và phải đối diện với thực tế là nhiều nghệ nhân lớn tuổi mang vốn văn hóa cồng chiêng sắp đi về thế giới của ông bà mà chưa được chú ý nghiên cứu khai thác. Do vậy, ta gặp phải những suy nghĩ của chủ thể, nửa muốn tiếp thu cái mới lạ, nửa muốn giữ lại văn hóa truyền thống của ông bà nên trong suy nghĩ của nhiều người trong cuộc dường như có sự mâu thuẫn là những háo hức với văn hóa mới nhưng lại bị quá khứ níu giữ, trăn trở; là xu hướng bảo thủ, giữ gìn truyền thống nhưng lại thấy mình lạc hậu với cuộc sống hiện tại... nên trong họ là nuối tiếc và đành chấp nhận hiện thực có thể xảy ra:
“... người ta cứ nói do dân trí thấp nhưng tôi thấy ngày xưa đồng bào tôi có được học hành nhiều như bây giờ đâu mà người ta vẫn giữ gìn văn hóa truyền thống trong đó có cồng chiêng được vậy. Rồi lại nói do cơ chế thị trường tác động, các trào lưu văn hóa mới có nhiều ma lực... tôi cho là cũng phần nào. Cái quan trọng vẫn là văn hóa, vì người ta sống với nhau được là bằng văn hóa. Do vậy, tôi nghĩ cốt lõi là làm sao duy trì được một môi trường văn hóa mà... môi trường và đời sống văn hóa lại không thể không chịu sự tác động từ bên ngoài được, nên cũng không biết sẽ sao. Tôi nghĩ, xu thế trong tương lai thì e là Di sản cồng chiêng này cũng chỉ còn được ghi nhớ trong sách vở, trong ký ức còn sót lại mà thôi?”[12]
Thay lời kết luận
Từ góc độ chủ thể văn hóa, cái nhìn của người trong cuộc đã ít nhiều phản ánh về một đời sống của cồng chiêng gắn với những thăng trầm của quy luật phát triển xã hội. Sự công nhận không gian văn hóa cồng chiêng là di sản thế giới và đi theo sự công nhận này là hàng loạt những định hướng, chính sách bảo tồn của Nhà nước áp xuống (top down). Tuy nhiên ta lại thấy sự tiếp nhận của cộng đồng còn thụ động, chưa biết cách biến những tác động từ chính sách ấy thành nội lực văn hóa, thành ý thức văn hóa của cộng đồng. Do vậy, những biểu hiện: tâm lý trông chờ, dựa vào sự đầu tư của Nhà nước; sự lo lắng, quan tâm cho số phận của cồng chiêng; cả những nguy cơ về vốn văn hóa sẽ mất đi theo tuổi tác của những nghệ nhân lớn tuổi; cả những thay đổi trong nhận thức về giá trị của cồng chiêng...; tất cả những biểu hiện ấy cho ta thấy niềm trăn trở của cộng đồng. Đó như một sự thức tỉnh văn hóa cần thiết dù là còn thụ động, yếu ớt trước những tác động đa chiều của phát triển xã hội. Qua đó cho thấy nhu cầu hưởng thụ văn hóa, vai trò của cộng đồng còn thụ động chưa phát huy hết được sức sáng tạo trong quá trình tham gia vào bảo tồn và phát huy giá trị của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Điều này phản ánh tính tương tác giữa chính sách/người làm chính sách và người thụ hưởng/thực hành chính sách ấy có những khó khăn nhất định và chưa được ăn ý nhau, vai trò của chủ thể chưa được chú ý trong các giải pháp bảo tồn và phát huy di sản cồng chiêng trong đời sống hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Dự án sưu tầm, bảo tồn không gian văn hóa cồng chiêng ở Dak Nông.
- Lê Thị Hồng An 2009: Một số kinh nghiệm về nâng cao năng lực nghệ nhân truyền dạy cồng chiêng trên địa bàn tỉnh Dak Nông.// In trong: Kỷ yếu hội thảo “Sự thay đổi đời sống kinh tế, xã hội và bảo tồn văn hóa cồng chiêng ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á”. Viện VHNT VN.
- Henri Maitre 2008: Rừng người Thượng, NXB Tri Thức.
- Nhiều tác giả 2006: Các nhạc cụ gõ bằng đồng - những giá trị văn hóa, NXB VHDT.
- Nhiều tác giả 2004: Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Viện VHTT.
- Văn bản 2003: Công ước di sản phi vật thể năm 2003 (tài liệu phổ biến của Cục Di sản.)
- Viện VHDG - Sở VHTT Dak Lak (Ngô Đức Thịnh chủ biên) 1995: Văn hóa dân gian M'nông, Sở VHTT Dak Lak.
(Bài viết dẫn liệu từ khảo sát chính sách bảo tồn và phát huy DSVH cồng chiêng ở Bon Pinao, Dak Rlấp tỉnh Dak Nông, sau khi di sản này được UNESCO công nhận)
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”
[1] Tỉnh Dak Nông gồm 7 huyện, 1 thị xã; tổng cộng có 71 xã phường, thị trấn (trong đó có trên 40 xã có đồng bào dân tộc tại chỗ sinh sống, có gần 30 xã ở vùng sâu vùng xa, và giáp biên giới). Dân số toàn tỉnh là hơn 400.000 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số 125.273 người (chiếm 34,5% gồm 31 dân tộc thiểu số), đồng bào bản địa 40.000 người (chủ yếu là ba dân tộc M'nông, Mạ và Ê Đê).
[2] Phỏng vấn Nguyễn Thị Phương (Phó giám đốc TTVH tỉnh), nhật ký điền dã Gia Nghĩa 12/1/2014.
[3] Phỏng vấn Ô. Võ An (Trưởng phòng văn hóa huyện Dak Rlấp), nhật ký điền dã Dak Rlấp ngày 13/1/2014
[4] Phỏng vấn A. Y Măng (nghệ nhân đánh cồng chiêng của bon, đã từng tham gia đi biểu diễn cồng chiêng ở Đan Mạch 2013), nhật ký điền dã Bon Pi nao, xã Nhân Đạo, huyện Dak Rlấp, ngày 13/1/2014.
* Anh Y Măng được mọi người đánh giá là một nghệ nhân đánh cồng chiêng giỏi và là trưởng nhóm trong đội cồng chiêng của Bon, từng tham gia đi biểu diễn đánh cồng chương ở Đan Mạch (2013), Hà Nội (trong ngày hội Văn hóa các dân tộc), và trong các sự kiện văn hóa , liên hoan cồng chiêng 2 năm/lần của các tỉnh Tây Nguyên... Sai quá trình tham gia học tập, tập huấn trong các lớp truyền dạy cồng chiêng của tỉnh thì anh có thế đánh được hầu như tất cả các bài chiêng của dân tộc mình (25 bài chiêng gốc) và hiện tham gia truyền dạy lại cho thế hệ sau, chưa biết đánh cồng chiêng của Bon. Ngoài đánh được các bài chiêng cổ của dân tộc mình thì trong quá trình sinh hoạt trong đội cồng chiêng, anh còn có thể sáng tác thêm được 15 bài chiêng mới và chơi được một số nhạc cụ khác ngoài cồng chiêng.
* Bon Pi nao hiện có 4 đội cồng chiêng: một đội chính là những nghệ nhân có thể đánh được nhiều bài chiêng, ba đội phụ còn lại gồm hai đội nam và một đội nữ thì thuộc và đánh được ít bài hơn (từ 5-10 bài), ngoài ra mọi người trong bon cũng có thể tham gia trong đội múa.
[5] Phỏng vấn, A. Nguyễn Văn Tuấn, nhật ký điền dã bon Pi nao ngày 13/1/2014
[6] Chiêng quý - trong suy nghĩ của đồng bào thì gắn với giá trị tinh thần, đó là kỷ vật của ông bà, từng gắn bó với những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng trong quá khứ, từng chứng kiến những vui buồn của phận người, của thăng trầm gắn bó của cộng đồng, tức là có giá trị về mặt văn hóa - được xem như một vật chứng sống còn lại của ông bà xưa (giá trị về mặt thời gian).
[7] Phỏng vấn A Ka Bông (nghệ nhân Bon Pi nao), nhật ký điền dã Pi nao ngày 13/1/2014
[8] Phỏng vấn Nguyễn Anh Bằng, nhật ký điền dã 12/1/2014
[9] Phỏng vấn chị Phương (TTVH Dak Nông), Gia Nghĩa, nhật ký điền dã ngày 13/1/2014
[10] Phỏng vấn anh Bằng (bảo tàng), nhật ký điền dã, Gia Nghĩa 12/1/2014.
[11] Phỏng vấn anh Y Ái, nhật ký điền dã Gia Nghĩa ngày 13/1/2014.
[12] Phỏng vấn anh Y Ái, nhật ký điền dã Gia Nghĩa ngày 13/1/2014.