Một học giả Đài Loan từng đến thăm Viện Hán học Đại học Leiden, đã hỏi người quản lý Thư viện Trường rằng “Có phải giáo sư Idema là người khá kiêu ngạo và khó tiếp cận?”
Người quản lý không thể nào hiểu: làm thế nào mà một người lúc nào cũng khiêm tốn như giáo sư Idema lại bị gọi là “kiêu ngạo”?
----
Thật ra giáo sư Idema có đủ điều kiện để tự hào về mình nếu ông muốn.
Vào năm 31 tuổi ông được phong giáo sư về văn học Trung Quốc. Hai năm sau lại làm trưởng khoa Trung Quốc học của Viện Hán học Đại học Leiden, một trong những trung tâm nghiên cứu Hán học chính ở Châu Âu. Sau đó ông trở thành Hiệu trưởng Trường Khoa học nhân văn của Đại học Leiden và làm giám đốc Trung tâm nghiên cứu các khu vực ngoài phương Tây. Ông rất năng động trong lĩnh vực học thuật, đã trình làng hơn 50 tác phẩm nguyên bản lẫn dịch thuật, không tính đến vô số ấn bản ở các tạp chí học thuật khác.
So với các nhà Hán học Châu Âu cùng thời, giáo sư Idema đang bước vào tuổi 45, được coi là một trong những học giả Hán học xuất sắc nhất.
Vừa là người thầy nghiêm túc, vừa là người bạn tốt
Giống như đại đa số người Hà Lan bình dị, hằng ngày giáo sư Idema cưỡi xe đạp đi làm việc. Vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy, vừa làm công việc hành chính, giáo sư Idema được biết đến như một trong những nhân vật bận rộn nhất trong trường. Vị giám đốc Thư viện Trường đã coi giáo sư Idema như “một giám đốc và tổng cố vấn danh dự” của Thư viện Trường, bởi vì cứ ngày một ngày hai vị giáo sư này lại ghé qua thư viện luôn miệng hỏi “quyển mới xuất bản ở Hồng Kông đã đến chưa?”, “quyển sách này hay lắm, thư viện nên mua một quyển để phục vụ độc giả” v.v… Nếu có nhu cầu mượn một quyển sách cần thiết nào đó thì ngay ngày hôm sau ông đã mang trả lại thư viện.
Với tinh thần nghiêm túc, giáo sư Idema luôn yêu cầu sinh viên phải nghiêm túc trong học tập. Đã nhiều lần vị giám đốc thư viện đã phải khổ sở vì số sinh viên do giáo sư Idema đứng lớp cứ khăng khăng yêu cầu giúp đỡ tìm kiếm hay mua hộ các quyển sách mà giáo sư đề xuất bởi vì chỉ trong vòng một, hai tuần quy định, sinh viên phải hoàn thành bài viết của mình.
Tính cách nghiêm túc này trong nghiên cứu và giảng dạy của vị giáo sư cũng là một phần trong tính cách cá nhân ông. Mấy năm trước nhân cơ hội tham gia hội thảo tại Hà Lan do Đại học Leiden và một trường ở Đài Bắc đồng tổ chức, vị giáo sư Hồ Vạn Xuyên (胡万?川)- trưởng khoa Ngôn ngữ Trung Quốc Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh đã dành thời gian đến thăm giáo sư Idema. Giáo sư Idema rất quý mến người bạn phương xa này nên đã yêu cầu giáo sư Hồ Vạn Xuyên ở lại nhà mình, hằng ngày đạp xe đưa bạn đến Viện Hán học để xem sách hay tìm tư liệu. Suốt 6 ngày liền giáo sư Idema nhiệt tình như thế chẳng khác gì một người Trung Quốc thực thụ. Theo nhận định của giáo sư Hồ Vạn Xuyên, giáo sư Idema không hề có chút gì kiêu ngạo cả.
Dũng cảm đối phó với gian nan tất thắng
Con đường học vấn của ông nhìn chung khá trôi chảy. Ông sinh năm 1944 tại khu Dalen nằm ở phía đông Hà Lan. Từ thời trung học ông yêu thích âm nhạc, thơ ca, văn học, nhất là say mê các quyển tiểu thuyết trinh thám Trung Quốc của nhà ngoại giao, nhà Hán học lừng danh người Hà Lan R.H. van Gulik. Khi vào Đại học Leiden, ông chọn khoa Trung văn - chuyên ngành vào thời ấy được xem là “thử thách nhất” .
“Mọi người đều nói Trung văn khó lắm, phức tạp lắm, vì vậy tôi cứ phải đắn đo suy nghĩ mãi. Song cuối cùng tôi đã chọn chuyên ngành văn học Trung Hoa bởi vì Trung Hoa vốn có lịch sử lâu đời nhưng nền văn hóa của họ vẫn sống động, tràn đầy sức sống”. Giáo sư Idema bộc bạch tâm sự bằng tiếng phổ thông thật lưu loát.
Khi ông tốt nghiệp đại học cũng là lúc Trung Quốc đang tiến hành cuộc Cách mạng văn hóa. Trong khi đó chính quyền đảo Đài Loan cũng không cấp học bổng cho người nước ngoài. Tuy nhiên đó lại là lúc Hà Lan và Nhật Bản lại có mối quan hệ thân thiết, chính phủ Nhật cấp rất nhiều suất học bổng nhưng thời ấy trên khắp Hà Lan chỉ có hai ba người học tiếng Nhật học nên ông đã có cơ hội dành lấy một suất du học sang Nhật.
Năm 1968, Idema học tại khoa xã hội học, Đại học Hokkaido. Năm sau ông chuyển sang Viện nghiên cứu khoa học nhân văn, Đại học Kyoto, học văn học Trung Hoa cổ cùng giáo sư Tanaka Kenni. Sau khi trở về Hà Lan năm 1970, ông trực tiếp giảng dạy tại khoa Trung văn tại trường và viết luận văn tiến sĩ. Năm 1974 ông nhận bằng tiến sĩ và hai năm sau được phong hàm giáo sư chính thức. Có thể nói, giáo sư Idema là một trong số ít các nhân tài xuất sắc tại trong các trung tâm học thuật châu Âu, nhất là trong lĩnh vực khoa học nhân văn.
Lần đông du đầu tiên – đến Nhật Bản
Là thành viên đầu tiên bước lên con đường đến Đông phương, ông đã cảm nhận được những ấn tượng khó phai từ đất nước Nhật Bản xa xôi này. Khoảng thời gian hai năm ấy cũng đã tác động sâu sắc đến con đường học thuật của ông.
Ông nói “Cho đến nay tôi vẫn giữ thói quen dùng tự điển Morohashi (Đại Hán Hòa từ điển, tức Hán – Nhật từ điển) để làm sách công cụ”. Theo ông, so với các nước Âu Mỹ, giới Hán học nước này không những đông về mặt số lượng mà còn cao hơn về mặt chất lượng, một phần là do ở Nhật có nhiều thư viện lớn với nguồn tư liệu phong phú rất cần thiết cho công tác nghiên cứu.
Cũng tại Nhật Bản, lần đầu tiên Idema được làm việc với một giáo sư phương Đông và cảm nhận được lối ứng xử trong quan hệ thầy trò kiểu phương Đông. Ông tâm sự “quan điểm của sinh viên phương Tây chúng tôi là: tôi là một cá nhân, tôi đã trưởng thành, đã khôn lớn. Tôi theo thầy để học nhưng không cần thầy phải hướng dẫn tôi học như thế nào!”. Thế nhưng cái mà ông cảm nhận được từ người thầy giáo phương Đông là sự tận tâm, sự quan tâm đến từng chi tiết nhỏ, kể cả cuộc sống. Điều này làm Idema rất cảm động. Ông luôn khoe rằng việc ông có cơ hội cùng làm việc với giáo sư Tanaka Kenji là một vinh hạnh đối với ông.
Giáo sư Tanaka là chuyên gia trong lĩnh vực văn chương học bạch thoại Trung Hoa cổ, nhất là hí khúc (kịch nghệ). Mặc dù sở thích và các nghiên cứu về văn học Trung Hoa cổ của Idema không phải bắt nguồn từ vị giáo sư hướng dẫn này, nhưng những kiến thức mà ông tiếp thu được là rất có ích trong sự nghiệp học thuật của ông.
Người nước ngoài chú ý đến là đủ tốt ?
Ông nói: “số mệnh của ngành nghiên cứu Hán học ở phương Tây thật kỳ lạ”. Những học giả người Pháp nổi tiếng như S. Julien vàA.P.L. Bazin đã nghiên cứu kịch nghệ thời Nguyên và tiểu thuyết thời Minh, Thanh từ thế kỷ XIX. Ông giải thích “Vào thời điểm đó họ không thể đến Trung Quốc được nên ngoài nghiên cứu văn học và tiểu thuyết bạch thoại ra họ không thể học được tiếng Trung Quốc thời ấy”.
Nhờ vào nền tảng này mà thế hệ Hán học sau đó phần lớn tập trung nghiên cứu lịch sử và triết học Trung Hoa cổ xưa. Mãi đến những năm 1950, văn học bạch thoại mới bắt đầu thu hút sự quan tâm của các nhà Hán học phương Tây. Gustav Prusek của Tiệp Khắc, Cyril Birch của Anh, và Patrick Hanan của Mỹ là những người tiên phong nghiên cứu văn học bạch thoại, đến những năm 1960 khi Idema còn là sinh viên, văn học bạch thoại đã trở thành chuyên ngành thời thượng trong ngành Trung Quốc học.
Hầu hết người Đài Loan nghĩ rằng, văn học bản địa là cái mà “người Trung Quốc chỉ bắt đầu nghĩ đến khi người nước ngoài đã quan tâm từ lâu”. Nhưng giáo sư Idema thì có suy nghĩ ngược lại. Theo ông, sự thu hút trở lại của văn học bạch thoại Trung Hoa ở Âu Mỹ vào những năm 1950 là do tác động của dòng văn học đại chúng Trung Hoa, tiêu biểu là Hồ Thích (1891-1962) (bổ sung của người dịch), Lỗ Tấn (1881-1936) (bổ sung của người dịch) và những một số các nhà văn Trung Hoa khác từ sau phong trào Ngũ Tứ.
Gạn lọc tinh hoa
Trong quá trình nghiên cứu văn học truyền thống Trung Hoa, có không ít các học giả cho rằng tiểu thuyết chỉ là “nói chuyện vặt”, không thể coi là văn học chính thống, còn các tiểu tiết hài hước, châm biếm trong các tác phẩm hí khúc cũng chỉ là những thứ linh tinh không chính thống. Tuy nhiên, dưới mắt các nhà Hán học Âu Mỹ vốn không câu nệ khái niệm “chính thống” thì tiểu thuyết và hí khúc truyền thống mới trở nên sống động, hấp dẫn. Giáo sư Idema cho rằng việc tìm hiểu nào là kinh, sử, tử, tập v.v. giúp chúng ta hiểu được cội nguồn văn hóa Trung Hoa, đương nhiên là quan trọng. Song, văn học dân gian vốn sống động, đầy sinh lực cũng là một phần không thể thiếu của văn hóa Trung Hoa. Đối với giáo sư Idema, ông đặc biệt hứng thú với công tác nghiên cứu sự xung đột và hòa nhập của văn học cổ điển và văn học dân gian.
Giáo sư Hồ Vạn Xuyên – người bạn thân - có phạm vi nghiên cứu khá gần gũi với Idema. Chuyên gia gặp chuyên gia, giáo sư Hồ Vạn Xuyên từng nhận xét rằng giáo sư Idema là người giỏi gạn lọc cái tinh túy nhất trong cái phức tạp, mơ hồ, là người chuyên nắm bắt được cái cốt lõi trong cái bao la rộng lớn của tri thức. Nhận xét này ta có dịp kiểm chứng qua mấy mươi tác phẩm và bài dịch mà giáo sư Idema đã công bố.
Lấy hí khúc làm ví dụ. Các công trình nghiên cứu trước đây thường chỉ chú ý đến nội dung tác phẩm, còn giáo sư Idema thì càng chú trọng hơn ở các khía cạnh như biên đạo, biểu diễn, phân vai đào kép, khán giả, kịch trường v.v.. Theo giáo sư Hồ Vạn Xuyên thì các vấn đề đại loại như ai biểu diễn, biểu diễn thế nào, ai đến xem, đặc điểm của kịch trường như thế nào, giá vé bao nhiêu .. vốn là các vấn đề xưa nay chưa từng được các tác giả nghiên cứu đến, ấy thế mà giáo sư Idema lại có thể đứng từ góc độ xã hội học tiến hành nghiên cứu một cách say sưa. Công việc ấy của giáo sư đã đóng góp không nhỏ cho giới nghiên cứu Hán học trên thế giới.
Lấy tiêu chuẩn của sâm banh để đánh giá hoàng tửu (rượu Thiệu Hưng)!
Nhìn từ góc độ phương pháp nghiên cứu mà nói thì các nhà Hán học phương Tây phần nào có thể bổ sung cho những thiếu sót của các chuyên gia người Trung Quốc do họ có thể nhìn nhận và kiến giải vấn đề một cách khách quan, song đôi khi lại gặp phải những trở ngại phát sinh từ sự cách biệt văn hóa.
Về điểm này, quyển luận án của giáo sư Idema về nghiên cứu tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc thời kì đầu đã nói lên quan điểm này của ông. Ông nói: “Tôi luôn cảm thấy khó khăn trong việc nghiên cứu văn học bạch thoại cho dù đó là những tác phẩm kịch nói hay tiểu thuyết chương hồi. Nhiều người cho rằng tiểu thuyết Trung Hoa truyền thống không hay, không có cốt truyện. Họ sai lầm vì họ đang đứng trên quan điểm tiểu thuyết Châu Âu thế kỷ XIX”. Ông cho biết không chỉ người nước ngoài mới nhận định theo cách này mà nhiều học giả Trung Quốc cũng nhầm lẫn như vậy. Nhìn theo khía cạnh khác, khi những tiểu thuyết phương Tây lần đầu được dịch sang tiếng Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc cũng cảm thấy đó không phải là tiểu thuyết. Họ thường đặt ra các câu hỏi “tại sao có quá ít nhân vật?”, “tại sao các câu chuyện lại đơn giản đến thế?” v.v..
Hơn nữa, mặc dù nhiều người cho rằng tiểu thuyết Trung Hoa truyền thống không mang tính tả thực. Giáo sư Idema cho rằng nhận định như vậy chẳng khác nào đem so sánh rượu Thiệu Hưng Trung Hoa với sâm banh phương Tây. Ông nói “Khi tác giả Trung Quốc viết một câu chuyện họ không cần quan tâm rằng lý luận văn học của người Châu Âu như thế nào”. “Họ không biết và họ không quan tâm. Tất cả những thứ ấy không có liên hệ gì đến họ. Họ muốn viết câu chuyện mà chính bản thân và độc giả đều thích”, giáo sư Idema khẳng định. “Tiểu thuyết Trung Hoa có cốt truyện riêng theo kiểu Trung Hoa. Cốt truyện của Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai lại hoàn toàn khác nhau”.
Cuộc sống người Trung Quốc do người Trung Quốc làm chủ
Tác giả, độc giả, mỗi câu chuyện ở mỗi thời đại đều có thể có cấu trúc khác nhau và tất nhiên có thể khác với tiêu chuẩn của Châu Âu. Vì thế giáo sư Idema cho rằng các học giả và các nhà phê bình trước hết phải tôn trọng những đặc trưng riêng biệt của tiểu thuyết Trung Hoa rồi mới bàn đến cái khác.
Giáo sư Idema đã đầu tư khá nhiều công sức lòng nhiệt huyết cho nghiên cứu tiểu thuyết, hí khúc Trung Hoa. Song ông không hể tỏ thái độ “bất cần” đối với một phần các yếu tố văn hóa truyền thống đã mất. Ông cho rằng văn hóa là yếu tố sống, vì vậy nó phải không ngừng biến đổi. Và vì nó không ngừng cách tân, biến đổi nên nó mới tỏ rõ được sức sống. Cho nên các nhà Hán học phương Tây phải chấp nhận một sự thật là người Trung Quốc cũng như người phương Tây đều đang sống ở thế kỷ XX.
Giáo sư Idema nhấn mạnh “Người Hà Lan có trách nhiệm với văn hóa Hà Lan. Người Trung Quốc cũng vậy, họ có trách nhiệm với văn hóa của họ. Cuộc sống của người Trung Quốc phải do chính họ định đoạt. Họ thích cái gì thì bảo tồn cái nấy. Người nước ngoài chúng ta không thể bảo họ phải bỏ cái này, bảo tồn cái kia được”.
Vứt bỏ chủ nghĩa bản vị, học cách tôn trọng nét độc đáo của một nền văn hóa khác dường như là quy tắc đơn giản, nhưng thật khó để vận dụng, cho dù là nói về văn hóa phương Tây hay phương Đông. Do vậy giáo sư Idema tin rằng các nhà Hán học phương Tây phải có ít nhất hai trọng trách: “Một là tiến hành nghiên cứu, đóng góp thành quả nghiên cứu cho cộng đồng Hán học quốc tế. Hai là giúp những người dân bình thường hiểu, tôn trọng và tiếp nhận văn hóa Trung Hoa”
Danh sách dài các tác phẩm do giáo sư Idema chủ yếu chia thành hai loại. Các tập sách và bài báo viết bằng tiếng Anh (chiếm quá bán) tập trung đi sâu các vấn đề học thuật như văn học, nghệ thuật dành cho các chuyên gia nghiên cứu học thuật. Còn các tác phẩm viết bằng tiếng Hà Lan thường là các tác phẩm dịch giải như tiểu thuyết đời Đường, tạp kịch đời Nguyên, các tác phẩm của Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ v.v. là dành cho công chúng.
Trung thành với nguyên tác, không thêm bớt, cắt xén
Trong số các tác phẩm ông công bố có không ít các tác phẩm lần đầu tiên được dịch sang tiếng Hà Lan. Một số tác phẩm đã từng được dịch sang các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức. Nếu muốn nêu bật điểm khác biệt cơ bản của các quyển dịch của ông so với các quyển dịch khác thì đó chính là đặc điểm dịch toàn văn của ông. Ông luôn cố gắng giữ nguyên tác phẩm trong khi dịch, không lược bỏ, thêm bớt bất kì chi tiết nào.
Chẳng hạn khi dịch các thoại bản (话本) nhiều dịch giả đã lược bỏ phần “nhập thoại” có tác dụng như lời vào đề hay chỉ dịch “chính thoại” mà thôi. Ngoài ra, trong các tác phẩm thoại bản, thoại bản Trung Hoa thường có các bài thơ, câu đối. Song một số các dịch giả khác đã bỏ qua phần này.
Giáo sư Idema cho rằng thoại bản sở dĩ được gọi là thoại bản là vì nó thể hiện tính độc đáo trong cấu trúc và hình thức biểu đạt này. Người dịch phải bỏ công thật nhiều vì nếu không cái mà họ giới thiệu với độc giả phương Tây sẽ là một thứ khác chứ không phải tác phẩm thoại bản nữa. Quả thật nếu không tôn trọng nguyên tác mà chỉ dịch “câu chuyện” thôi thì thật là một điều đáng tiếc. Ông nói “Tôi chỉ là một dịch giả, không phải là một nhà văn vĩ đại”. Mục đích dịch của tôi là nhằm giúp người Hà Lan cảm nhận được diện mạo đích thực của văn học Trung Hoa.
Các tiểu thuyết chương hồi (长篇小说trường thiên tiểu thuyết) được ưa chuộng nhất
Ngoài nguyên tắc “dịch toàn văn” ra, giáo sư Idema còn đính kèm mỗi tác phẩm ít nhất khoảng độ 10 trang, nhiều là vài chục trang chú giải nhằm hướng dẫn người đọc. Chẳng hạn, ông tỉ mỉ dẫn thêm về loại hình, kết cấu văn học truyền thống, bối cảnh tư tưởng, tình hình xã hội v.v. nói chưa hết thì chú thích thêm trong tác phẩm.
Dịch giả thì chủ trương như thê song nhà xuất bản lại cảm thấy không hài lòng vì e rằng độc giả sẽ cho những phần dẫn thêm như thế là phần học thuật “khó nuốt”. Thế nhưng giáo sư Idema vẫn kiên trì cách làm của mình vì ông cho rằng tìm hiểu văn học Trung Hoa cổ không thể không dẫn giải thêm.
Nói chung, độc giả Hà Lan thường rất chuộng các câu chuyện về ma quỷ (liêu trai). Họ thích đọc tiểu thuyết, rất thích các tác phẩm của Bạch Cư Dị. Trong số các tiểu thuyết, tiểu thuyết nhiều tập được ưa chuộng nhất. “Đối với người Hà Lan thì tên đất, tên người bằng tiếng Trung Hoa rất khó nhớ mà trong các tác phẩm chuyện ngắn thì thường xuất hiện nhiều tên đất, tên người, rất dễ làm người đọc rối. Trong khi đó thì tiểu thuyết dài chỉ tập trung vào một số nhân vật nhất định nên người đọc dễ nhớ hơn do chỉ cần chú ý đến một số đối tượng nên có thể thưởng thức lâu hơn.
Hà Lan chính là một Thương Hải của châu Âu
Thông thạo các tác phẩm tiểu thuyết, hí kịch Trung Hoa các đời Đường, Tống, Nguyên và Minh cộng với tiếng Hán lưu loát, giáo sư Idema được đánh giá là người mang tính cách của một “quân tử” truyền thống. Sau nhiều năm tận tâm nghiên cứu nền văn hóa khác, làm thế nào mà ông có thể duy trì sự cân bằng giữa tích cách Trung Hoa và bản sắc của dân tộc mình riêng mình?
“Trước dây, người Anh hay gọi Hà Lan là một Trung Quốc của Châu Âu”, ông cười nói. Cách ví von này không hoàn toàn thân thiện mà ám chỉ người Hà Lan giống như người Indonesia gốc Trung Quốc, đều là những “tiểu thương” .
Dĩ nhiên Hà Lan và Trung Quốc là hai quốc gia, dân tộc hoàn toàn khác nhau và có nền văn hóa khác nhau. Trung Quốc là một nước rất to, tính độc lập của nền văn hóa mạnh, còn Hà Lan là một nước nhỏ ở châu Âu, bị bao vây bởi các nước lớn khác. Hà Lan nhờ vào sự phát triển sớm của nền công nghiệp và thương mại, mở rộng quan hệ với thế giới bên ngoài, và vị trí nằm ở cửa sông Rhine mà được ví như thành phố Thượng Hải ở châu Âu: có tính quốc tế cao và người dân có cách nghĩ khá cởi mở.
Ông hình dung tính cách dân tộc của người Hà Lan không quá mạnh mẽ như người Đức, Anh hay Pháp. Một người Hà Lan yêu nước sẽ nói “À, tôi không phải người Anh, tôi không phải là người Pháp cũng không phải là người Đức. Tôi rất vui mừng”. Không giống như người Anh, Pháp hay Đức luôn nhấn mạnh tính ưu việt của dân tộc mình, tôi chỉ luôn nhắc nhở mình: “Tôi là người Hà Lan”.
Người bạn hải ngoại nguyện làm cầu nối văn hóa
Nửa trước cuộc đời ông dành cho việc nghiên cứu Hán học, nửa sau cuộc đời ông cũng không thay đổi. Lòng biết ơn và sự tận tâm của giáo sư Idema đối nền văn hóa dân tộc được thể hiện qua việc tuyển chọn và dịch các tác phẩm văn học Trung Hoa sang tiếng Hà Lan để giới thiệu cho người dân nước ông. Ông nói một cách tha thiết “Kỳ thực tôi hy vọng những gì tôi mang đến có thể đóng góp đôi chút đối với văn hóa Hà Lan. Để đóng vai trò cầu nối giữa văn hóa Trung Hoa và Châu Âu, tôi e rằng mình chưa đủ hiểu biết về văn hóa Trung Hoa, nói cách khác tôi chưa đáp ứng điều kiện để đảm nhiệm vai trò ấy”.
Giáo sư Idema có “kiêu ngạo” không? Thậm chí “quá khiêm tốn và kín đáo” là cụm từ thích hợp nhất để miêu tả người bạn hải ngoại của người Trung Quốc này.
---o0o---
Tóm tắt tiểu sử giáo sư W.L. Idema
1944: Sinh ra tại Hà Lan
1963 – 1968: Học khoa Trung văn Đại học Leiden, nghiên cứu văn học Trung Quốc cổ đại và xã hội Trung Quốc đương đại.
1968 – 1970: Nghiên cứu văn học bạch thoại Trung Quốc cổ tại Đại học Hokkaido và Đại học Kyoto dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tanaka Kenni.
1976: Được phong giáo sư văn học Trung Quốc ở Đại học Leiden
1978 – 1983: Trưởng khoa Trung Quốc học, Viện Hán học, Đại học Leiden
1988: Giám đốc Trung tâm nghiên cứu các khu vực không thuộc phương Tây, Đại học Leiden
Lĩnh vực nghiên cứu và các ấn bản: Tiểu thuyết bạch thoại và hí khúc Trung Quốc. Các ấn bản chính: Tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc – Giai đoạn hình thành (1974); Tập tư liệu về kịch trường Trung Quốc giai đoạn 1100 đến 1450 (1982); Chu Hữu Đôn tạp kịch toàn tập (1985); Trăng và đàn tam thập lục – Tây Sương Ký của Vương Thực Phủ (1990, cộng tác với S.H. West)