Bành Thuật Chi (1896-1983) đồng thế hệ, hoạt động cách mạng đồng thời với Mao Trạch Đông, là lý thuyết gia của 1 trong 4 nhóm Trotskyist Trung Quốc, từng vào tù (1932-37) tại Giang Tô với Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là Trần Độc Tú, vì bị Quốc Dân Đảng bắt được.
Bành Thuật Chi trả lời những câu hỏi về cuộc đời chính trị Mao Trạch Đông – người từng được coi là nhà lãnh tụ vĩ đại trong phong trào Cộng sản. Nhưng, nói về Mao trạch Đông, dù đã có rất nhiều xưng tụng đủ cách đủ kiểu về sự vĩ đại của Mao, thì phải chăng, đối với lịch sử, cứ hễ được xưng tụng là lãnh tụ vĩ đại… thì hẳn không thể sai lầm? Thật vậy không?
Nếu lãnh tụ không sai lầm bao giờ (lúc nào cũng tài tình), trước sau cũng sẽ “bổ túc” cho những “thiếu hụt” của Chủ nghĩa Mác-Lê, nên phải cộng với tư tưởng của mình, để khi thực hiện “Chủ nghĩa Mác-Lê trong một xứ”, thành ra cái riêng biệt chỉ địa phương mình có: Như “Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông” tại Trung Quốc… chẳng hạn.
Nhưng ở Trung Quốc, khi thêm tư tưởng Mao, thì chủ nghĩa Mác-Lê lại trở thành cái bóng mờ, hoặc làm bung xung, vì sẽ thành “chủ nghĩa xã hội trong một xứ” – như Mao đã rập theo Stalin làm ở Liên Xô – rồi áp dụng tại Trung Quốc. Trong một nước như thế, sẽ tàn sát đối lập, sẽ đến tình trạng Nước độc Đảng, và Đảng độc Khối. Và đầy những xoắn vặn cùng trá mạo lịch sử. Duy trì những điều ấy, hậu quả sẽ dẫn đến quan niệm là, “Dân chủ từ trên xuống”.
Nếu chỉ từ “Trên” mới ban được cho cái quyền cực kỳ quan trọng là Dân chủ, thì bất cứ gì khác, cũng chỉ xuất phát từ đường lối chính trị cuả cá nhân lãnh tụ, không quan điểm chính trị nào khác chen vào được. Khi sự sùng bái ”tư tưởng lãnh tụ” trở thành quốc sách, thì mọi sáng kiến phải bị tiêu diệt, giai cấp quan liêu tức khắc thành hình, Vô sản trở thành giai cấp ngu si. Nếu lãnh tụ qua đời, giới quan liêu ký sinh càng đồng loã trong sự sùng bái để củng cố quyền lực: Chế độ “Cách mạng” sẽ thành một chế độ độc đảng, sẽ tiếp tục có những quyết định độc đoán, vừa mị dân, vừa coi thường quyền sống của những người bên “Dưới” – là thành phần lam lũ thuộc giai cấp bị trị.
Điều như thế, đã tạo ra những trả giá khủng khiếp bằng bao nhiêu sinh mạng trong lịch sử Trung Quốc cận đại, mà bài phỏng vấn sau đây chứng minh về “tư tưởng Mao Trạch Đông”.
————————–
1.
Hỏi: Từ khi Mao chết ngày 9 tháng Chín vừa qua, chính trị gia khắp thế giới đều xưng tụng Mao là nhà lãnh tụ vĩ đại và ưa chuộng hoà bình. Ý ông thế nào về các nhận định trên?
Đáp: Để phân tích sự nghiệp của Mao, điều cần làm là vạch ra tư tưởng và hành động anh ta đã thể hiện trong suốt đời. Chúng ta phải “Gọi đúng tên sự việc”, như Trotsky từng nói.
Mao gia nhập phong trào Cộng sản cuối 1920, có mặt trong hội nghị khởi thủy của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng Bảy 1921. Anh ta được cử đi làm Bí thư Hồ Nam. Trong 2 năm ở Hồ Nam, Mao là một lãnh tụ địa phương tích cực, có công trong sinh hoạt sinh viên và tổ chức phong trào công nhân. Tuy nhiên, anh ta phải chịu trách nhiệm trong việc thúc ép 2 đồng chí lãnh đạo, Ho Ming-fan và Lý Đạt đã phải ra Đảng. Điều đó chứng tỏ, anh ta đã chứa tính độc đoán và đầy thiên hướng quan liêu.
2.
Hỏi: Vai trò của Mao trong cách mạng 1927 là gì?
Đáp: Khi Stalin, qua Quốc tế Cộng sản, ra lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc phải gia nhập Quốc dân Đảng vào đầu 1923, không những Mao tán thành chính sách cơ hội ấy, mà còn lý luận để bênh vực nữa. Trong một bài, chính Mao viết, nhan đề, “Cuộc đảo chính Bắc Kinh và giới nhà buôn”, Mao nhận định, “Vấn đề chính trị đương thời tại Trung Quốc nay không gì khác hơn là chuyện cách mạng quốc gia… Cuộc cách mạng là chuyện chung cả nước…Tuy nhiên, giới tư sản mại bản, mới là giới ý thức được sự thiệt thòi nghiệt ngã nhất.”[1]
Mao thêm:
“Giới nhà buôn tại Thượng Hải đã nổi dậy, chung sức hành động. Chúng ta cũng mong là các nhà buôn ngoài Thượng Hải sẽ nổi dậy như thế… Các tổ chức thương nhân càng lớn rộng, ngày càng thêm thế lực, sẽ gia tăng khả năng hướng dẫn quần chúng cả nước, tiến nhanh tới thành quả cách mạng.”[2]
Mao đem lý thuyết của Menxơvích ra thi hành! Và đã nỗ lực nhiều năm để ủng hộ đảng Tư sản, tức là, Quốc dân Đảng Trung Quốc.
Mao được bầu vào ban Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Đại hội 3 vào tháng Sáu 1923, giữ chức Bí thư Tổ chức, nhưng lơ là công việc, chỉ tập trung vào công tác của Quốc dân Đảng ở Thượng Hải. Mùa thu 1924, Mao bỏ nhiệm vụ của Đảng Cộng sản, đi Hồ Nam để phát động phong trào khởi nghĩa nông dân, đưa đến thất bại. Rồi anh ta đi Quảng Đông, trở thành Bí thư Tuyên huấn của Quốc dân Đảng, dưới quyền Uông Tinh Vệ, và làm biên tập viên cho tờ Chính trị tuần báo. Qua các bài viết trong đó, Mao rất tán tụng chủ thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên.
Tháng Ba 1926 dưới áp lực của nhiều cán bộ Đảng, Mao viết bài, “Phân tích về tính giai cấp tại Trung Quốc”, nội dung chỉnh lại thái độ thiên Hữu của mình. Anh ta nhận định, “Vô sản kỹ nghệ là lực lượng tiên phong của cách mạng”, nhưng giai cấp tư sản vẫn có Tả, có Hữu, nên “cánh Tả có thể thành bạn hữu chúng ta…”[3]. “Vì thế”, anh ta kết luận, “chính sách hợp tác của Quốc dân Đảng – Cộng sản có thể duy trì mãi mãi.”
Ngay sau khi bài viết tung ra trên Nông dân Nguyệt san, đầu tháng Ba 1926, cánh Tả của Tư sản, do Tưởng Giới Thạch chỉ huy, phát động cuộc đảo chính 20 tháng Ba, trục xuất toàn thể cán bộ Cộng sản, kể cả Mao, ra khỏi các cơ quan lãnh đạo Quốc dân Đảng. Mao phải đi Thượng Hải, và được Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ định làm nhiệm vụ phát động phong trào Nông dân.
Sau đó anh ta đi Hồ Nam để thu thập dữ kiện, rồi thảo “Bản tường trình về sự điều nghiên phong trào nông dân Hồ Nam.” Bản này được những người theo Mao (Mao-ít) coi là “tài liệu ưu mỹ” của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vì, “đã hướng dẫn nông dân tranh đấu”[4]. Vài học giả ngoại quốc, như Benjamin Schwartz, ca ngợi bài này là dấu mốc cho sự thăng tiến của Mao về sau.[5]
Bản báo cáo ấy không hề nhắc đến những giải pháp, như việc tổ chức lãnh đạo phong trào nông dân, việc trưng thu và tái phân phối ruộng đất, mà chỉ mô tả những hành động của nông dân, ngỏ ý bênh vực nông dân trước những sự bóc lột. Đề nghị độc nhất của Mao là, “Những nhà trách nhiệm làm cách mạng phải sửa chữa sai lầm trong phong trào nông dân,” mà “Những nhà có trách nhiệm làm cách mạng” lúc ấy, lại là Tưởng Giới Thạch, Uông Tinh Vệ, và Đường Sinh Trí.
Sau khi rời Hồ Nam, Mao đến Vũ Hán tham gia ban cải cách ruộng đất do Quốc dân Đảng chủ xướng. Anh ta cũng là thành viên trong “Hiệp hội Nông dân Lâm thời Toàn quốc”, nhưng không hề có đề nghị nào về việc cải cách ruộng đất cho Hiệp hội ấy, cũng như cho Đảng Cộng sản… bao giờ cả. Ngược lại, Mao chỉ chấp hành đường lối cơ hội chủ nghĩa của Stalin, trong khi tình hình tại Vũ Hán ngày càng tệ hại.
Tại Liên bang Nga Xô, Trotsky đề nghị chính sách hợp tác Quốc dân Đảng – Cộng sản phải lập tức bãi bỏ, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải lãnh đạo cuộc tranh đấu độc lập cho công nhân, nông dân, chiến binh, phải hướng dẫn họ thành lập những Xô viết, và phải chiếm quyền chỉ huy. Stalin chủ trương ngược lại, đưa đến chuyện “những nhà có trách nhiệm cách mạng” ở Vũ Hán, do Uông Tinh Vệ cầm đầu, đã “trục xuất hết thảy cán bộ Cộng sản ra khỏi Quốc dân Đảng, giải giới toàn thể các tổ chức quần chúng, kể cả Hiệp hội Lâm thời Nông dân toàn quốc”.
Cho đến 15 tháng Bảy 1927, cuộc cách mạng Trung Quốc thứ Nhì (25-27) chìm trong thất bại.
3.
Hỏi: Nếu Mao đã ngập sâu trong Quốc dân Đảng trong suốt quãng thời gian này, thì khi nào ông ta mới rõ ra là người Cộng sản?
Đáp: Sau thất bại của cách mạng 1927, Stalin đổi chính sách, từ “Cơ hội chủ nghĩa cực độ” sang “Phiêu lưu chủ nghĩa cực Tả”, ra lệnh cho Đảng Cộng sản Trung Quốc phải phát động cuộc nổi dậy võ trang. Để chấp hành đường lối mới của Quốc Tế Ba, Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới quyền Cù Thu Bạch, triệu tập cuộc họp khẩn ngày 7 tháng Tám 1927. Buổi hội công bố Thư Ngỏ tới toàn thể đảng viên, để xóa các điều sai lầm từ những chỉ thị trước của Stalin, trút hết lên Trần Độc Tú. Mao hoàn toàn hưởng ứng những lí luận bịp bợm này.[6]
Cuộc hội chấp nhận giải pháp phát động “cuộc nổi dậy mùa gặt” ở Hồ Nam-Hồ Bắc. Mao được gửi tới Hồ Nam để lãnh đạo lực lượng nổi dậy, gồm 3,000 người, diễn ra ngày 8-17 tháng Chín 1927. Kết quả, là hàng trăm người chết và bị thương bởi lính tráng Quốc dân Đảng. Hoàn toàn thất bại, Mao tẩu thoát cùng một số đến Tỉnh Cương Sơn tháng Mười 1927.
Mao và những người cùng nhóm bị cô lập hoàn toàn, trong khi đợi chỉ thị mới của Đảng. Thời gian này, có hai nhóm cướp địa phương nhập bọn. Các thủ lãnh cướp, Viên Văn Tài và Vương Tạc, cam kết sẽ chiến đấu với Mao. Tuy nhiên, khi Mao rời Tỉnh Cương Sơn, bọn cướp trở về sào huyệt, cướp bóc như cũ. Sau chúng bị nông dân giết sạch.
Cùng lúc, là cuộc nổi dậy gồm 30,000 người tại Nam Xương, thủ phủ Quảng Tây, dưới sự lãnh đạo của Hạ Long, Diệp Đĩnh và Chu Đức, dưới quyền điều động của Cù Thu Bạch. Cuộc nổi dậy này cũng thất bại, làm Hạ, Diệp, Chu phải rút về Sán Đầu thuộc Quảng Đông.
Tháng Chạp 1927, một cuộc nổi dậy của Đảng Cộng sản ở Quảng Đông cũng bị tận diệt, tổn thất 5 ngàn sinh mạng. Chính sách Stalin đòi nổi dậy võ trang tại Trung Quốc chứng tỏ bằng máu, là hoàn toàn phá sản.
Đại hội Cộng sản Quốc tế Ba tại Moscow tháng Tám 1928, đã đặt vấn đề về chuyện này. Nhưng thay vì rút được kinh nghiệm học hỏi quá khứ, vẫn chỉ đưa ra biện pháp, là phải tiếp tục con đường vũ trang nổi dậy:
“…tại thời điểm này, Đảng phải tuyên truyền mọi nơi mọi chốn cho quần chúng biết khái niệm về Xô viết, khái niệm về chuyên chính “Vô sản và Nông dân”, cùng sự không tránh khỏi việc phải vũ trang nổi dậy… Phải bền bỉ không khoan nhượng, bám sát cuộc cách mạng quần chúng võ trang, tiến tới việc nắm chính quyền. Tổ chức các Xô viết phải trở thành những bộ phận chính cho cuộc nổi dậy…”[7]
“Tại Trung Quốc, sự lớn mạnh tương lai của cách mạng sẽ đặt trước Đảng, như một nhiệm vụ để sửa soạn chuyện tiến tới cuộc nổi dậy như một con đường duy nhất, hầu hoàn tất cuộc cách mạng Dân chủ Tư sản, rồi sẽ đánh đổ Quốc Dân Đảng.”[8]
Giải pháp như trên chuyển tới cho Mao, tại Tỉnh Cương Sơn vào mùa thu 1928. Rồi Chu Đức đã đem quân từ Sán Đầu đến, phối hợp với quân của Bành Đức Hoài, thành đội quân nổi dậy cốt lõi để đương đầu với Quốc dân Đảng. Các cánh quân này, sau hợp nhất thành Hồng quân.
Tân Hồng quân từ Sán Đầu thành hình vào chớm 1929, đã bành trướng lãnh thổ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc. Họ chiếm các quận phía nam Giang Tây, đông nam Hồ Nam, lập các Xô viết, tăng bồi quân số, thi hành cải cách ruộng đất tại những địa phương chiếm đóng. Tháng Chạp 1930, Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Đại hội Xô viết ở Giang Tây, lập Chính phủ Xô viết, trong đó Mao được bầu làm Chủ tịch. Chu Đức là Tổng Tư lệnh Hồng quân.
Để đối phó với sự lớn mạnh của Hồng quân, Tưởng mở nhiều cuộc tấn công vào các vùng Xô viết năm 1931, Quốc dân Đảng đã tổn thất hàng ngàn binh lính, mất nhiều vũ khí vào tay Hồng quân. Tháng Tư 1933, Tưởng lại mở cuộc tấn công lần thứ tư vào Hồng quân. Lần này còn thất bại nặng hơn. Anh ta mất 2 sư đoàn lính, các sĩ quan chỉ huy bị bắt sống làm tù binh.
Đại diện Quốc Tế Cộng Sản từ Moscow đến Thượng Hải, tháng Giêng 1931 để tổ chức lại Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lý Lập Tam bị thay chức lãnh đạo, Vương Minh thay thế. Thời gian này, nhiều cán bộ Đảng bị bắt khắp nơi, những ai không đầu hàng đều bị giết. Để bảo đảm sự an toàn, bộ chỉ huy của Vương Minh chuyển về vùng Xô viết, đầu 1933. Mọi quyền lực của Mao và các cán bộ chóp bu bị tước đoạt, vào tay Phó Chủ tịch Hạng Anh. Mao chỉ còn giữ chức Chủ tịch trên danh hiệu trong chính phủ Xô viết. Một đòn nặng đối với Mao.
Toàn thể Xô viết Giang Tây, Phúc Kiến bị 1 triệu quân Tưởng xiết chặt gọng kìm bao vây toàn bộ khu vực. Cho nên, tháng Mười 1934, Mao cùng Chu Đức khởi cuộc Vạn lý Trường chinh chạy đi hướng đông bắc Trung Quốc, đến Diên An. Khi thoát chạy, họ đã để lại trên 1 triệu nông dân, sau này, những người đó đã bị tàn sát, hoặc chết đói.[9]
Trong cuộc Trường chinh, Mao họp Chính trị Bộ tại Tuân Nghĩa, tỉnh Quý Châu, nơi anh ta được bầu vào chức Chủ tịch Đảng kiêm lãnh tụ Hồng quân.
Khi Hồng quân tới bắc Thiểm Tây, tháng Mười 1935, quân số từ 300,000 còn 30,000[10]. Thêm vào đó, khi phát động chiến dịch quân sự, Tưởng cũng tàn sát Cộng sản tại các tỉnh lớn như Thượng Hải, Vũ Hán, Bắc Kinh, Thiên Tân. Trên mười ngàn cán bộ, thành viên, cơ sở thanh niên Cộng sản bị bắt, bị giết, hoặc bị ép đầu thú, đi tù. Các cơ sở công nhân bị tan vỡ. Stalin đề ra phát động tranh đấu vũ trang – mà phe Mao ủng hộ – đã đem lại thất bại toàn diện. Cái trả giá cho chính sách này, là sự chết chóc khủng khiếp bằng chính mạng sống của bao nhiêu người.
Khi Hồng Quân tập trung đầy đủ ở Thiểm Tây, Mao kêu gọi mọi phe, mọi nhóm, kể cả Quốc Dân Đảng, cùng đứng chung trong “Mặt trận quốc gia thống nhất chống đế quốc Nhật”, theo khuôn mẫu “Mặt trận Bình dân chống Phát xít”, là đường lối của Đệ Tam Quốc tế đề xuất.
Tưởng bác đề nghị Mao, rồi cử Trương Học Lương đem quân đến Thiểm Tây, bao vây Diên An, cốt diệt Hồng quân. Tưởng đích thân giám sát cuộc hành quân, nhưng lại bị nhóm tay chân của Trương Học Lương – những người có tư thù với Tưởng, vì Tưởng đã thông đồng với Nhật, làm quân Nhật chiếm Mãn Châu, là căn cứ của họ – bắt giữ.
Nhóm Trương Học Lương muốn giết Tưởng. Nhưng Stalin gửi điện cho Đảng Cộng sản Trung Quốc bảo phải thương lượng với Tưởng. Mao phái Chu Ân Lai đi thuyết phục Tưởng, là để Tưởng sẽ lãnh đạo cuộc chiến kháng Nhật. Tưởng đồng ý. Rồi, Đảng Cộng sản Trung Quốc bỏ rơi các Xô viết, bãi chương trình cải cách ruộng đất, chương trình tái tổ chức Hồng quân… để gia nhập quân đội Quốc gia, đặt hết lực lượng dưới quyền chỉ huy của Tưởng. Thế là, hợp tác Quốc dân Đảng – Cộng sản thành hình lần thứ nhì, mà chính Mao là người hỗ trợ mạnh mẽ.
4.
Hỏi: Cái-gọi-là thương thuyết với Tưởng, chỉ là cộng tác giai cấp, và là sự nhượng bộ toàn diện của Mao?
Đáp: Đúng thế. Sau 10 năm tranh đấu, Đảng Cộng sản Trung Quốc rõ là đầu hàng Quốc dân Đảng. Những nhượng bước ghi trong thoả thuận giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng trong bản tuyên cáo, in ngày 15, 1937 của Đảng Cộng sản, như sau:
(1) Chủ nghĩa Tam Dân do Tôn Dật Tiên đề ra là cốt lõi của Trung Quốc thời đại này. Đảng ta sẵn sàng thực hiện nhu cầu ấy.
(2) (Đảng ta) từ bỏ đường lối đánh đổ Quốc dân Đảng bằng vũ lực cùng sự thực hiện các công xã Xô viết, từ bỏ chương trình tịch thu đất các địa chủ trong chương cải cách ruộng đất.
(3) (Đảng ta) hủy bỏ chính quyền Xô viết cùng mọi chương trình dân chủ căn cứ trên quyền lợi quần chúng lúc trước, hầu thống nhất với sức mạnh chính trị Quốc gia.
(4) (Đảng ta) hủy bỏ vai trò Hồng quân, tái phối trí với Quân đội cách mạng quốc gia, đặt dưới quyền điều động của Ủy ban Quân quản quốc gia trong chính phủ Quốc gia, đợi lệnh điều hành để sát cánh trong trách nhiệm chống Nhật nơi tiền tuyến.[11]
Tưởng lúc ấy đang bị chửi rủa khắp nơi vì không muốn chống Nhật, ngay trong quân Tưởng cũng đã có mầm mống nổi loạn. Ấn bản tuyên cáo của Đảng Cộng sản thành ra cứu Tưởng, cũng thành sự hoang mang tột độ ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc.
5.
Hỏi: Có sự chống đối trong Đảng không?
Đáp: Người hiểu chuyện thì hết sức phẫn nộ. Mao phải viết một loạt bài nữa để bảo vệ cho chính sách cơ hội mới này. Trong bài, “Nhiệm vụ khẩn cấp tiếp theo cho nền tảng hợp tác Quốc dân Đảng – Cộng sản”, Mao giải thích:
“Nay mặt trận mới lập giữa 2 đảng đang dẫn tới giai đoạn mới của cách mạng Trung Quốc. Vẫn còn những người không hiểu vai trò lịch sử của mặt trận thống nhất cùng sự vĩ đại của nó, chỉ nhìn thấy tính tạm thời do thời cuộc đưa đẩy của hoàn cảnh, tuy nhiên, qua mặt trận thống nhất, bánh xe lịch sử sẽ dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Trung Quốc, tiến tới giai đoạn mới.”[12]
Còn nữa:
“Nhiệm vụ hiện nay là duy trì tinh thần cách mạng của chủ nghĩa Tam Dân của Bác sĩ Tôn suốt trên toàn quốc…”[13]
Ảo tưởng của Mao về Quốc dân Đảng hiển nhiên nhất, trong trích dẫn của anh ta ở bài “Về giai đoạn mới”:
“…Quốc dân Đảng cùng Cộng sản Đảng đều là nền móng cho mặt trận Kháng Nhật, nhưng giữa hai đảng, thì Quốc dân Đảng là nền móng trước nhất. Không có Quốc dân Đảng thì không có thể có cuộc kháng Nhật, không đeo đuổi được cuộc kháng Nhật. Theo lịch sử vinh quang của Đảng, thì Quốc dân Đảng đã lật được nhà Thanh, lập nền Cộng hòa, chống Viên Thế Khải, lập chủ thuyết Tam Dân, liên kết với Nga, với Đảng Cộng sản Trung Quốc, và với công nhân cùng nông dân, làm thành cách mạng 1926-27. Ngày nay Quốc dân Đảng lại lần nữa gánh vác trách nhiệm lãnh đạo cuộc đại kháng chiến chống Nhật. Như thế rõ là vinh quang của Tam Dân chủ nghĩa; và đã được hai nhà lãnh đạo vĩ đại kế tiếp nhau – các đại nhân Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch; cùng đông đảo những nhà ái quốc kiên trung. Như vậy chúng ta không được xem nhẹ những nhà ái quốc này, phải cùng nhau chung sức tiến đến giai đoạn phát triển của lịch sử Trung Quốc.
Để tham gia chiến tranh chống Nhật, để tổ chức mặt trận thống nhất, Quốc dân Đảng sẽ giữ vai trò lãnh đạo và tổ chức… Dưới điều kiện duy nhất như thế, người ta có thể thấy sự chiến thắng chói lọi trong tương lai của Quốc dân Đảng…
Nhiệm vụ toàn thể quốc gia là cùng nhau hợp tác chân thành, với Tưởng là nhà lãnh đạo, cũng như phải hỗ trợ chính phủ Quốc gia, và hỗ trợ sự hợp tác Quốc dân Đảng – Cộng sản.
Để đạt mục đích này, chúng ta phải nâng cao uy tín của Tưởng và chính phủ Quốc gia, hầu tránh ảnh hưởng xấu cùng tăng gia tình hợp tác chặt chẽ giữa Quốc dân Đảng và Cộng sản. Tình hợp tác ấy sẽ bền lâu – không chỉ trong cuộc chiến mà còn cho đến khi hết cuộc chiến, khi điều kiện Quốc gia và Quốc tế ngày càng làm thuận lợi thêm cho sự hợp tác.”[14]
Lý thuyết quan trọng nhất của Mao, Về Tân Dân chủ, đã xuất hiện từ Đại Hội 7 họp năm 1945, và được áp dụng trong chương trình hành động của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau chiến thắng 1949. Theo văn kiện này, Mao giải thích, sau Cách mạng tháng Mười tại Nga, Cách mạng quốc gia-dân chủ trong các xứ thuộc-địa và bán-thuộc-địa đã là cuộc “cách mạng Tân dân chủ-tư sản”, trong đó giai cấp tư sản quốc gia cũng có tính cách mạng. Cho nên cần thiết là thực hiện “Mặt trận thống nhất” gồm Công nhân, Nông dân, Tiểu tư sản, và Tư sản – khối cộng tác 4 giai cấp – để cùng chống Đế quốc và lực lượng Phong kiến, để rồi thành lập nền “Cộng hoà Tân Dân chủ”.
Tức là, Mao biện minh cho sự thành lập một chính phủ hợp tác với Tư sản.
Anh ta cũng biện minh cho “Tân Dân chủ”, tức là,
“Chỉ quốc hữu hóa Đại ngân hàng cùng những Đại kỹ nghệ và cơ sở thương mại lớn. Chế độ cộng hoà không tịch biên tài sản các nhà tư bản nói chung, cũng như không cấm sự phát triển sản xuất của tư bản, miễn là nó không khống chế sinh hoạt nhân dân, vì kinh tế Trung Quốc còn rất lạc hậu … Nền kinh tế Phú nông vẫn được phép tại thôn quê.”[15]
Mao giải thích về lý thuyết thực hiện Cách mạng Giai đoạn như sau,
“Nhiệm vụ cách mạng Trung Quốc hiện nay là chống đế quốc và phong kiến, còn xã hội chủ nghĩa chưa nói tới vội, cho đến khi nhiệm vụ trên hoàn tất, Cách mạng Trung Quốc không thể tránh được việc đi bước đi hai bước, bước thứ nhất là Tân Dân chủ rồi mới tới bước thứ hai là bước Xã hội chủ nghĩa. Thêm nữa, là bước thứ nhất cần một thời gian dài và không thể hoàn tất trong chớp mắt được.”[16]
Rồi để chứng minh chính sách này, Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động phong trào đàn áp tàn bạo Trotskyist, tổ chức duy nhất trong phong trào công nhân có tiếng nói Đối lập. Trong bài viết “Nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ kháng Nhật”, Mao luận định:
“Kẻ thù chúng ta – đế quốc Nhật, bọn Trung Quốc cộng tác, bọn ủng hộ Nhật và bọn Trotskyist – đã hết sức phá hủy nỗ lực hoà bình, tinh thần đoàn kết, dân chủ và tự do, chống lại cuộc vũ trang chống Nhật… Nay chúng ta phải tự lao vào, không chỉ trong lãnh vực tuyên truyền, khích động cùng phê bình đám thủ cựu Quốc dân Đảng và những phần tử chậm tiến trong quần chúng, mà còn phải đương đầu bằng mọi cách, chiến đấu chống lại những mưu mô của bọn đế quốc Nhật cùng lũ chó săn của chúng, bọn theo Nhật và bọn Trotskyist, đã xâm lăng Trung Quốc.”[17]
Những người Trotskyist, như Trần Độc Tú và Bành Thuật Chi, bị gọi là “lũ phản bội” trên khắp sách báo do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát, mặc dù họ cam kết ủng hộ kế hoạch quân sự của Tưởng, là chống đế quốc Nhật. Chiến dịch chống Trotskyist cuồng tín đến hung tợn, chỉ vì người Trotskyist đòi giữ quyền phê bình đối với Tưởng và chính phủ Quốc dân Đảng. Những người này kêu gọi võ trang cho quần chúng, đề nghị chương trình đấu tranh phải đặt trên quyền tự do phát biểu, trên báo chí, trên mọi Nghị hội, Hiệp hội, thực thi chương trình làm việc 8 tiếng một ngày, và quyền đình công. Đối với chính quyền Quốc dân Đảng, họ đưa ra khẩu hiệu “Triệu tập nghị hội toàn quốc có toàn quyền, được bầu cử tự do, bình đẳng, trực tiếp và kín.”
Nhưng đối với Tưởng, thì dù Mao có ca tụng đến đâu, Tưởng vẫn ra sức triệt hạ lực lượng Cộng sản. Tháng Giêng 1941, Tưởng tấn công, phá vỡ Tân Tứ quân của Cộng sản ở An Huy, bắt Tư lệnh Diệp Đĩnh, giết chính ủy Hạng Anh. Cùng lúc, quân lực Quốc dân Đảng do Hồ Tông Nam bao vây Diên An. Những thất bại của Đảng Cộng sản này báo trước cho những điềm gở sắp đến.
6.
Hỏi: Lúc đó, liên hệ của Mao đối với Stalin thế nào?
Đáp: Dịp sinh nhật 60 của Stalin, tháng Chạp 1939, Mao đọc diễn văn, có đoạn:
“Mừng Stalin nghĩa là ủng hộ ý kiến ông, ủng hộ chiến thắng xã hội chủ nghĩa, ủng hộ bước tiến của loài người mà ông đã chỉ, tức là chúng ta ủng hộ người bạn thân thiết nhất của chúng ta. Đối với đại đa số nhân loại còn bị đau khổ, đám nhân loại ấy chỉ có thể tìm thấy tự do bằng con đường Stalin đã chỉ, với sự giúp đỡ của Stalin.”[18]
Năm 1941, tại trường Đảng ở Diên An, Mao đọc diễn văn, bài “Sửa đổi học tập”, như sau:
“Thêm nữa, học Mác xít-Lêninít, chúng ta nên dùng cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản của Liên bang Xô viết (Bolsheviks), cuốn Tóm Lược, làm tài liệu chính. Đó là những cuốn tổng hợp, toát yếu đầy đủ về các chuyển cơ Cộng sản từ trăm năm nay, một mẫu mực tổng hợp về lý thuyết cùng hành động…”[19]
Thực ra, cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ là cuốn về lý thuyết Stalinist: Nào “Cách mạng giai đoạn”, nào “Xã hội chủ nghĩa trong một xứ”. Cuốn ấy chỉ nói về chính sách phiêu lưu của Stalin về tập thể hóa, kỹ nghệ hoá, chính sách đối ngoại trong cái gọi là “thời kỳ thứ ba”, và là cái Tổng kết tóm gọn của thuyết “Mác-xít xét lại” – từ đó mà có thanh trừng suốt những thập niên 1930, mở cuộc tàn sát lừng danh, thanh trừng hết các Bônxơvích cựu trào cùng các nhà cách mạng khác, rồi trơ trẽn thành lập cái chính sách sùng bái Stalin, cùng làm nền móng cho chính sách chuyên chính cá nhân.
7.
Hỏi: Mao giải thích thế nào về thất bại cách mạng 1927, cùng những thất bại về sau?
Đáp: Khi bàn đến các giải pháp chính trị trong Đại hội 5 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng Tư 1927, Mao đổ trách nhiệm thất bại của cách mạng thứ nhì 1927 lên Trần Độc Tú, và trách nhiệm thất bại quân sự cùng tổ chức Xô viết 1927-37 cho Cù Thu Bạch, Lí Lập Tam và Vương Minh. Kết luận, là chỉ mình Mao đúng trong mọi phong trào Cộng sản. Kết luận ấy thế này:
“…Sự thực hiện cách mạng Trung Quốc đã minh xác, là trong hai mươi bốn năm qua và còn tiếp tục cho đến nay, xác định rằng đường lối tranh đấu của Đảng ta cùng quảng đại quần chúng, là đường lối mà đồng chí Mao Trạch Đông vạch ra là hoàn toàn đúng đắn… Ngày nay, toàn Đảng nhận chân sự đúng đắn trong đường lối của đồng chí Mao Trạch Đông với sự nhất trí trong Đảng chưa từng có và sẽ đoàn kết dưới khẩu hiệu của đồng chí với sự cảnh giác hoàn toàn…”[20]
Nghị quyết không một chữ nào nói đến chính sách cực-cơ-hội do Stalin áp đặt trong cuộc cách mạng lần 2, và chính sách cực-phiêu lưu sau cách mạng ấy đã thảm hại thế nào. Ngược lại, Mao trích dẫn những câu của Stalin, chỉ để chứng minh Stalin lúc nào cũng đúng.
Sau Đại hội vào tháng Tư, Mao đọc báo cáo nhan đề “Về chính phủ hợp tác”, trong đó anh ta nhấn mạnh đến sự cần thiết tuyệt đối là phải cộng tác Quốc Dân Đảng, Đảng Cộng sản cùng các khuynh hướng khác, tức là thành một khối bốn giai cấp. Quốc dân Đảng tuyệt không tỏ một đáp ứng nào.
Đại hội thông qua chính sách mới, trong câu sau:
“Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác-Lê và phối hợp với nguyên tắc thực tiễn của cách mạng Trung Quốc – tư tưởng Mao Trạch Đông – là nguyên tắc hướng dẫn trong mọi hành động…”[21]
Rồi, sự sùng bái cá nhân Mao, rập khuôn Stalin, chính thức thành lập tại Đại hội này. Từ đó, Mao được nhắc đến như một “Lãnh tụ vĩ đại duy nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, “Một Stalin Trung Quốc”, “Một mặt trời phương Đông”, “Cứu tinh nhân dân”.
Có bài hát phổ biến khắp nơi, là “Đông phương Hồng”, với những câu:
Đông phương hồng
Mặt trời lên
Trung Hoa tiến lên Mao Trạch Đông
Hạnh phúc nơi nơi
Đại cứu tinh nhân dân
8.
Hỏi: Sau khi Nhật đầu hàng, chuyện gì xảy ra?
Đáp: Tháng Tám 1945, ngay sau khi Nhật đầu hàng Mỹ, Mao đi Trùng Khánh, thủ đô tạm thời của chính quyền Quốc dân Đảng. Mao ở đó tháng rưỡi, để có những cuộc tiếp xúc bí mật với Tưởng về chuyện tiếp tục sự cộng tác, và thành lập chính phủ liên hiệp. Kết quả cuộc nói chuyện được công bố ngày 10 tháng Mười, một Thông cáo Chung ghi những điều kiện duy trì hòa bình giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản. Trong buổi ra mắt công chúng, Mao tỏ tình cảm, bằng cách hô lớn, “Tưởng thủ lãnh Quốc dân Đảng vạn tuế!” Ngay sau đó là một chuỗi những xung đột giữa 2 đảng. Tưởng đưa quân tấn công vào những làng mạc có quân du kích trú đóng. Để cố gắng ngăn ngừa nội chiến có thể bùng ra bất cứ lúc nào, Truman gửi đặc phái viên là George Marshall sang Trung Quốc.
Phần Tưởng đã lợi dụng thời gian đàm phán hoà bình để điều quân, với trợ giúp của Mỹ, là viện trợ máy bay, tàu chiến, thì trong nội địa Trung Quốc, các thị trấn lớn đã tổ chức các căn cứ chiến thuật thành những “vùng bình định” để củng cố thế lực cho Quốc dân Đảng. Tưởng triệt hết mọi phong trào quần chúng, nhất là các phong trào sinh viên.
Cuối 1946, khi Tưởng chuẩn bị xong kế hoạch quân sự để tấn công, chính phủ Quốc dân Đảng công khai đóng mọi cánh cửa thương thuyết cùng đàm phán hòa bình, bằng cách tổ chức “Hội nghị quốc gia” và “Chính phủ Lập hiến”, hầu tránh việc liên hiệp với Cộng sản.
Thế nhưng Đảng Cộng sản vẫn chưa bỏ nỗ lực giải hoà. Những đại biểu của hội nghị Hòa bình vẫn còn luẩn quẩn ở Thượng Hải và Nam Kinh, mong có đàm phán thêm với Quốc dân Đảng, qua trung gian của nhóm Dân chủ Hiệp hội.
Cho đến khi Tưởng đuổi các Đại biểu Cộng sản, chiếm được căn cứ địa của Đảng Cộng sản Trung Quốc là Diên An, tháng Tư 1947, lúc ấy Đảng Cộng sản mới biết hết hi vọng hoà hợp, mới tập hợp quân lực để tự vệ. Nhưng, Đảng Cộng sản vẫn chưa dám nêu khẩu hiệu kêu gọi toàn quốc đánh đổ Quốc dân Đảng, cũng như chưa dám đưa ra chương trình nào về cải cách ruộng đất cả. Cho đến khi Tưởng công bố lệnh bắt Mao (ngày 25 tháng Sáu, 1947), ra tuyên cáo “Sắc luật tổng động viên dẹp loạn động” (tháng Bảy), thì mãi sau vài tháng chần chừ, như còn đợi lệnh từ Moscow, vào tháng Mười, Đảng Cộng sản Trung Quốc mới trương danh hiệu “Quân đội Giải phóng Nhân dân”, công khai chống Tưởng Giới Thạch, để xây dựng “Tân Trung Quốc”.
9.
Hỏi: Người ta có thể nói, là Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển từ chính sách Cơ hội sang Cách mạng, vì đã dám vi phạm chính sách điện Kremlin, một khi Mao dám chống Quốc dân Đảng. Ông đồng ý thế không?
Đáp: Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành đúng đường lối thỏa thuận với Kremlin, tức là bắt buộc thay đổi chính sách do áp lực của kế hoạch hậu chiến của đế quốc Mỹ, kế hoạch Marshall[22]. Thời điểm ấy, các đảng viên Đảng Cộng sản Tây Âu đều bị trục xuất khỏi các chính quyền Tư sản, nên Stalin muốn gia tăng sức mạnh phía Đông Âu, làm cho các chính quyền ở đó thực hiện cải cách ruộng đất và quốc hữu hóa tài sản của Tư sản, rồi lập khối Cominform (Thành lập, hoạt động 1947-56, gồm 9 nước Cộng sản Đông Âu – N.D). Theo ý tôi, Stalin, khi đã nhận thấy cục diện thay đổi đến thế, chỉ còn cách ủng hộ Cộng sản Trung Quốc chống Quốc dân Đảng – một khi Tưởng đã dứt khoát, không muốn thoả hiệp gì nữa.
10.
Hỏi: Làm sao mà Đảng Cộng sản Trung Quốc có thể thắng quân Tưởng, đoạt quyền bính, sau bao năm theo Cơ hội chủ nghĩa?
Đáp: Chiến thắng của Cộng sản Trung Quốc do tình thế rất đặc thù, chỉ có khi Nhật xâm lăng Trung Quốc, đặc biệt trong Thế chiến 2. Trong cuộc chiến Kháng Nhật, quân Tưởng cực kỳ tham nhũng, bất lực đến mức không chống trả được bất cứ cuộc tấn công nào từ phía Nhật, nếu không được trợ giúp của lính Mỹ. Đế quốc Mỹ không thể mãi tiếp sức quân sự cho Tưởng, nhất là sau khi Nhật đầu hàng, vì lính Mỹ muốn hồi hương, không muốn chiến đấu nữa – khi Thế chiến đã chấm dứt. Rồi khí giới tối tân mà Hồng quân Nga đoạt được của Nhật ở Mãn châu, lại chuyển cho Hồng quân Trung Quốc, đặc biệt là Hồng Tứ quân của Lâm Bưu.
Không có những biến chuyển bất ngờ của lịch sử như thế, chuyện chiến thắng của Mao chỉ là chuyện đâu đâu. Giả sử, Tưởng mà kiểm soát được Mãn Châu, vùng kỹ nghệ nhất Trung Quốc thời ấy, anh ta đã cắt được luồng tiếp viện kinh tế cùng quân sự từ Nga cho Mao. Cũng vậy, nếu lính Mỹ còn ở Trung Quốc, Mao có rất ít cơ may thắng trận. Chúng ta chỉ cần nhớ lại cuộc thất bại vũ trang của quân đội nông dân tại Quảng Tây trong thập niên 1930, thì biết sự quan trọng của viện trợ Mỹ cùng các đế quốc ảnh hưởng thế nào đối với sức mạnh của quân Tưởng.
11.
Hỏi: Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó có từ bỏ chính sách Cơ hội, có trở thành một đảng Cách mạng khi đã có quyền hành không?
Đáp: Các chính sách của Mao sau 1949 luồn lách nhiều mặt, từ Cơ hội sang Phiêu lưu, nhưng chưa bao giờ biến Đảng Cộng sản Trung Quốc thành một Đảng Cách mạng.
Khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên cáo ngày 1 tháng Mười 1949, rằng chính phủ Liên hiệp các Đại biểu Công nhân, Nông dân, Tiểu tư sản, và Tư sản… thành lập, thì nhân viên chính quyền chưa hề có ai được bầu ra – nhưng đã, và vẫn đang – được chỉ định bởi cái-gọi-là “Hội nghị Chính trị Hiệp thương Nhân dân Trung Quốc”. Ban này, do Đảng Cộng sản Trung Quốc là chính, cộng với “Ủy ban Cách mạng Quốc dân Đảng”, “Trung Quốc Dân chủ Đồng minh”, “Đảng Công – Nông”, cùng vài nhóm khác… hợp thành.
Chính sách của chính phủ căn cứ trên chính sách “Tân Dân chủ” của Mao, đã không trưng thu tài sản của Tư bản, còn bảo vệ cho nó – cả những cơ sở của đế quốc tại Trung Quốc. Với danh nghĩa “Tân Dân chủ”, chính quyền Mao trì hoãn nhu cầu cấp thiết nhất về cải cách ruộng đất mà nông dân đang trông chờ, để được hòa hợp với Địa chủ và Phú nông. Mao tin là “Tân Dân chủ” sẽ còn phải áp dụng trong vài thập niên nữa. Chu Ân Lai thì bảo, “Giai đoạn cách mạng Tân Dân Chủ sẽ còn phải thi hành ít nhất là 20 năm nữa.”
Điều kiện khách quan đã đến, ngay trong cuộc chiến Triều Tiên 1950. Dưới chiêu bài ủng hộ Nam Triều Tiên, đế quốc Mỹ đánh Bắc Triều tiên, trực tiếp uy hiếp Trung Quốc. Cho nên Mao phải giúp Bắc Triều tiên, mà điều trước nhất phải làm, là trưng thu tài sản, cơ sở đế quốc. Giai cấp Tư sản và Địa chủ nhân dịp này, gây ra những hoạt động phản cách mạng. Mao phải thi hành cải cách ruộng đất để yên bề nông dân, cùng phát động kế hoạch “Ngũ phản” (Chống: 1/ hối lộ, 2/ lậu thuế, 3/ gian lận, 4/ chiếm tài sản nhà nước, 5/ trộm bí mật kinh tế nhà nước. Phát động 1952, sau đó 500.000 cơ sở tư bị điều tra – N.D), tức là để chống Tư bản trong nước.
Cải cách ruộng đất 1952 phát động, không có Quốc hữu hóa, có nghĩa là đất ruộng vẫn tiếp tục bán và mua tự do trên thị trường. Điều đó tạo thêm sự chênh lệch giữa giai cấp nông dân – người nghèo phải bán, để giữ mạng sống, người có của thì mua. Phú nông cũng dự phần việc cho vay với phân lời cắt cổ cho người cần tiền, và rất nhiều viên chức cán bộ trong Đảng cũng tham gia chuyện này.
Tình hình càng tồi tệ, bắt buộc Đảng phải tham gia việc cải cách ruộng đất. Năm 1955 – phải tập thể hóa nông nghiệp. Mao bị thiểu số trong ban lãnh đạo Đảng. Chương trình của anh ta là gấp rút thực hiện tập thể hóa trước cuối năm. Lưu Thiếu Kỳ và Bành Đức Hoài thuộc số những người muốn có thời gian dài hơn, cho rằng chỉ khởi đầu được vào năm 1967. Mao đứng đầu Bộ Chính trị, triệu tập các vụ, viện, tỉnh bộ, vùng bộ để có quyết định sẽ hoàn tất năm 1957. Tính độc đoán của Mao vi phạm nguyên tắc tập trung đất ruộng và canh nông do Engels và Lenin đề ra. Thay vào đó, Mao thi hành chính sách sao chép từ Stalin trong thập niên 1920, tạo ra sự bất bình lớn trong quần chúng nông dân, vào ngay những năm tiếp đó.
Đầu năm 1953, đế quốc Mỹ cấm vận Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố thi hành chính sách của “giai đoạn chuyển tiếp” (chuyển tiếp, thường gọi là quá độ – N.D), tức là kế hoạch ứng phó, mà Mao đặt tên là “Kế hoạch Ngũ niên”, mục đích là tới sự tạo dựng kinh tế cùng kỹ nghệ hoá trong nước. Trong 1955-56, với sự phá bĩnh của tư sản trong nước trước chính sách kinh tế mới này, chương trình “Tân Dân chủ” đã bị gác, thay bằng chương trình “Nhà nước cùng Tư hữu cộng sinh”, mà Mao cho rằng sẽ để loại thải dần dần tư hữu của giai cấp Tư sản, khởi đầu cho việc xây dựng chủ nghĩa Xã hội.
Cuộc chuyển biến chính sách Đảng Cộng sản Trung Quốc từ sau khi chiếm quyền 1949, cho đến 1955, tương tự như chính sách Stalin từ 1945 đến 1948 tại Đông Âu với hiện diện của Hồng quân chiếm đóng ở đó. Chính sách đối ngoại của Mao cũng theo chính sách “sống chung hoà bình Xã hội chủ nghĩa và Tư bản” của Stalin. “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” mà Chu Ân Lai đem áp dụng với Nehru của Ấn là một thí dụ. Quãng thời gian này, Mao nhìn Stalin và Nga Xô như khuôn mẫu của một bậc thầy, anh ta phải bắt chước.
Tháng Bảy 1949, Mao chủ trương chính sách đối ngoại là “nhất biên đảo”, tức là, “ngả một bên”, và áp dụng chính sách ngả theo Nga Xô. Sau khi tuyên bố, Mao sang Nga 1950 để trực tiếp nói chuyện với Stalin. Kết quả hai bên ký kết một loạt tương ước về kinh tế, chính trị và trợ giúp quân sự giữa Trung Quốc và Nga. Tất cả những ký kết đều có lợi về Nga hơn là Trung Quốc, làm Mao về sau than phiền, “Cuộc thương thuyết của chúng ta với Nga Xô, thật giống như cuộc thương thuyết giữa con với bố.”[23]
Nhưng sau Đại hội 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô, Mao vẫn ra lệnh cho nhân viên cán bộ toàn Đảng Cộng sản Trung Quốc phải học tập lý thuyết Stalin. Khi Stalin chết năm 1953, Mao còn tuyên bố:
“Những văn bản của đồng chí Stalin là những tài liệu Mác-xít bất tử. Công trình của đồng chí, Căn bản của chủ nghĩa Lênin, Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolsheviks), cùng công trình cuối cùng, Vấn đề kinh tế tại Liên Xô là những Bách khoa Từ điển cho chủ nghĩa Mác-Lênin, là những bản tóm lưọc đầy đủ kinh nghiệm về phong trào Cộng sản suốt trăm năm qua.”[24]
Học tập chủ thuyết Stalin là điều bị bắt buộc trong toàn thể đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cùng những tổ chức thanh niên, trong cả giới giáo chức, sinh viên mọi trường lớp, trong cả mọi tầng lớp cán bộ cùng nhân viên chính phủ. Chiến dịch học tập này, kéo dài vài tháng, thực ra là để Stalin-hóa Trung Quốc.
12.
Hỏi: Bản báo cáo của Khrushchev, đem ra ánh sáng những tội ác của Stalin, đã ảnh hưởng đến Trung Quốc ra sao?
Đáp: Thật là mỉa mai, là mỗi khi Đảng Cộng sản Liên Xô bị áp lực dư luận thúc bách đòi phá bỏ sự thần thánh hóa lãnh tụ là Stalin, thì Đảng Cộng sản Trung Quốc lại mở chiến dịch nâng cao danh tiếng Stalin. Trong Đại hội 20 của Cộng sản Liên Xô 1956, khi Krushchev đòi bác sự suy tôn cá nhân Stalin, đã trưng bằng cớ tội ác cùng sai quấy của Stalin, thì các đảng Cộng sản toàn thế giới và Đảng Cộng sản Trung Quốc đều bị chấn động chuyện này.
Phản ứng của Cộng sản Trung Quốc bộc lộ trong Đại hội thứ Tám, tháng Chín 1956, mà giải pháp do Lưu Thiếu Kỳ đưa ra, là đề nghị xóa một câu của văn bản thành lập Đảng, (nhấn mạnh – N.D) câu ấy là, “Đảng Cộng sản Trung Quốc lấy lý thuyết Mác-Lênin cùng phối hợp với nguyên tắc triển khai từ kinh nghiệm thực tế của cách mạng Trung Quốc, tức là tư tưởng Mao Trạch Đông – làm những nguyên tắc hướng dẫn mọi hành động…” (nhấn mạnh – N.D)
Đặng Tiểu Bình, trong báo cáo đề nghị sửa Hiến pháp, phát biểu:
“Trong Đại hội Đảng thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô đã đưa ra bó đuốc soi đường về chiều sâu của nguyên tắc lãnh đạo tập thể cùng chống lại tệ nạn sùng bái cá nhân, đã thành một thí dụ sáng giá đem đến những ảnh hưởng sâu xa, không chỉ trong Đảng Cộng sản Liên Xô mà còn trong các Đảng Cộng sản toàn thế giới. Hiển nhiên là, một quyết định quan trọng mà chỉ do cá nhân quyết định, sẽ đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của sự thành lập Đảng đã được xây dựng trên nguyên tắc Cộng sản, chỉ đưa đến nhiều sai lầm. Chỉ có lãnh đạo tập thể, đi sát với quần chúng, theo khuôn khổ nguyên tắc Đảng là tập trung dân chủ, mới có thể giảm những sai lầm đến tối thiểu.”[25]
Bản báo cáo này tiêu biểu cho đa số ý kiến của ban lãnh đạo Đảng. Mao không dám chống lại những đòi hỏi phải xét lại thực trạng, mà còn bị áp lực, đến nỗi phải tuyên cáo trong Đại hội,
“Trong Đại hội 20 mới không xa đây, Đảng Cộng sản Liên Xô đã lập thành nhiều công thức đúng đắn và đã phê bình những thiếu sót trong Đảng ta. Cũng có thể nói một cách tự tin rằng những triển khai lớn đó sẽ đón tiếp ngay những thành quả… kinh nghiệm của chúng ta đã rất không đầy đủ. (nhấn mạnh – nguyên tác). Nên chúng ta phải biết học hỏi. Chúng ta phải biết học những bài học từ đảng tiền phong của chúng ta, là Liên Xô…”[26]
Cho dù đã nhìn nhận như thế, Mao vẫn như bị một đòn chí mạng. Sau Đại hội Tám, anh ta chuẩn bị tấn công Krushchev và triệt nhóm Lưu-Đặng. Mùa thu 1956, cách mạng Hung bùng ra. Đó là cuộc cách mạng đầu tiên nổi dậy trong khối Xô viết. Thiết giáp Xô viết đè bẹp quần chúng một cách tàn bạo, chỉ để tạo ra bao thương xót trên toàn thế giới đối với những người bị đàn áp. Tại Trung Quốc, Mao phải nói:
“Nhiều người Trung Quốc cũng tỏ cảm tình trước biến cố Hung Gia Lợi. Họ mong chuyện tương tự sẽ xảy ra tại Trung Quốc, là sẽ có hàng ngàn, hàng ngàn người cùng xuống đường biểu tình, để chống chính quyền Nhân dân Trung Quốc.”[27]
13.
Hỏi: Mao đã làm gì để tránh chuyện bùng ra tương tự, ngay trên đất Trung Quốc?
Đáp: Mao tìm liều thuốc giảm đau cho cơn bệnh bất mãn, bằng cách phát động phong trào, “Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng”. Phong trào này kêu gọi mọi đảng phái, mọi khuynh hướng, học phái, phe nhóm, mọi cá nhân… hãy bày tỏ ý kiến và cùng bình phê “Tam Hại” – là Hại quan liêu, Hại cửa quyền, Hại chủ quan. Mao hi vọng sẽ làm dịu những bất mãn cùng thù nghịch đối với sự tôn sùng cá nhân anh ta bấy lâu, bằng cách để ai ai cũng được tự do lên tiếng. Trong phong trào Trăm Hoa (Tháng Tư-Tháng Sáu 1957), có rất nhiều phê bình Đảng, về chính phủ, và về đặc quyền của giới quan liêu công quyền. Lưu Thiếu Kỳ nhìn nhận,
“Có tính quan liêu nghiêm trọng trong Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với các tổ chức Thanh niên của Đảng. Sự độc đoán của chính quyền cùng những đặc quyền hưởng thụ là có thật, đã được phê bình rõ ràng.”
Lưu còn nói,
“Sự trầm trọng về chuyện quan liêu… cùng việc phê bình đang tràn lan mọi chốn, từ hãng xưởng, trường học, trang trại, cũng như bất cứ cơ quan nào. Nhưng, mục tiêu chính, và trên cùng, phê bình toàn là nhắm vào lãnh đạo.”[28]
Những ý kiến quần chúng nổi bật nhất, là Lâm Tử Linh, thành viên của nhóm thanh niên và là lãnh tụ phong trào sinh viên; và của Đới Hoan, thành viên của Đảng, cũng là ký giả của Tân Hoa Xã. Người trước phát biểu, “Tầng lớp xã hội bên trên hiện nay không tương hợp với tư hữu chung của cả xã hội, vì guồng máy Đảng và Nhà nước đã trở thành trung tâm quan liêu cai trị một đất nước không có chút gì dân chủ,” Cho nên, cô ta khẩn thiết kêu gọi, “Không cải cách nữa, mà phải đổi thay hết.” Người sau, đề nghị lập “Đảng mới” để, “Thực hiện dân chủ, tự do, và xóa sạch giai cấp đặc quyền đặc lợi.”[29]
Trung tuần tháng Sáu 1957, trên 3,000 sinh viên Hán Dương, gần Hán Khẩu biểu tình, đốt phá các bót cảnh sát, chiếm giữ các văn phòng Đảng cùng nhiều cơ quan chính phủ. Cuộc nổi dậy là một tái hiện thu nhỏ của cách mạng Đông Âu.
Mao lập tức can thiệp, phát động cuộc phản công, diệt sạch những ai mà anh ta vừa mới mời tham gia cuộc cải tổ “Đảng và Chính phủ”. Nay những người ấy thành ra “Hữu khuynh”, “Phản cách mạng” và bị trừng trị đích đáng. Trên 50,000 nạn nhân bị trục xuất khỏi cơ sở Đảng cùng các cơ sở của Thanh niên Cộng sản. Nhiều người còn bị đuổi khỏi trường, mất việc làm ở các chức vụ công. Rất nhiều người bị bắt giữ, hoặc vào tù, hay vào trại Lao cải.
14.
Hỏi: Thành ra, thay vì Mao được thêm tôn sùng, lại có kết quả trái ngược?
Đáp: Quần chúng coi phong trào Trăm Hoa là trò lừa đểu, và là cái bẫy để thanh toán bọn đòi ly khai (dissident). Dù kết qủa trừng trị như thế, Mao vẫn chưa hài lòng, phát động thêm chương trình mới – Bước “Đại Nhảy Vọt” cùng “Nhân dân Công xã”. Trong Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa 8, Mao đề ra chương trình Nhảy vọt, hi vọng tạo ra phép lạ nông nghiệp cùng kỹ nghệ. Chương trình là chế thép ngay trong vườn nhà. Nỗ lực suốt năm, vận dụng 100 triệu người. Sinh viên, giáo sư, công nhân, nông dân, cả các bà nội trợ cũng tham gia chế thép. Trên 3 triệu tấn thép đúc, được sản xuất theo kiểu này – mà không 1 kí nào dùng được! Sự uổng phí lực lao động và vật liệu, chứng tỏ Mao thậm dốt về kỹ thuật.
Chớm đầu tháng Tám 1958, sau khi tự viếng Nhân dân Công xã tại Hồ Nam, chinh cá nhân Mao quyết định đòi tất cả nông dân bắt buộc phải tham gia Công xã. Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc phải ra lệnh theo ý Mao là công xã toàn diện mọi sở hữu quần chúng về đất đai, kể cả vườn nhỏ trong nhà, từ vựa lúa, kho thóc, gia súc, cho đến cây trái. Mục đích là,“Xóa bỏ mọi sở hữu cá nhân.” Nông dân phải cùng ăn trong Nhà ăn công cộng, trẻ con phải cùng vào Nhà trẻ công cộng, để phụ nữ có thể làm việc mười hai – đến mười bốn tiếng một ngày… tham gia việc đồng áng. Trong một thời hạn ngắn ngủi có ba tháng, 99 phần trăm nông dân đã lọt vào Nhân dân Công xã. Phương pháp tập thể hóa này vi phạm nguyên tắc sơ đẳng của chủ nghĩa Mác, đã từng được đặt thành tiêu chí của Engels, Lenin, và Trotsky.[30]
Hầu hết nông dân tuyệt vọng, đến mức chính họ phải chống lại các Công xã, bằng cách tự phá hoại, như giết gia súc, chặt cây trái, hay phá hủy mùa màng… đưa đến kết quả ngược, là thực phẩm vô cùng khan hiếm. Tình hình trở thành tồi tệ đến cùng độ vào đầu mùa hè 1959, là lúc cộng thêm thất bại sản xuất thép đã hiển nhiên. Khắp nước bất mãn. Nhiều cán bộ cùng lãnh đạo cấp cao đều tỏ lời phê bình Công xã. Nào Lưu Thiếu Kỳ, phó chủ tịch Đảng kiêm phó chủ tịch Nước, Tổng Tư Lệnh quân đội Chu Đức, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài, rồi Tham mưu trưởng Hoàng Khắc Thành, và nhiều người nữa trong Bộ Chính trị cũng lên tiếng.
Bành Đức Hoài công khai phê chính sách Nhân dân Công xã là mang đầy đủ tính chất của ”Tiểu tư sản quá khích”. Ông ta viết cho Mao một bức thư dài ngày 14 tháng Bảy, 1959, phê bình Bước Nhảy Vọt thi hành quá sớm, làm mọi tỉ lệ phân phối của kinh tế mới rối loạn, đưa đến xáo trộn xã hội, và kết quả là đã phí phạm 20 tỉ Nhân dân tệ (tương đương 9 tỉ đô la Mỹ).
Bành nói, “Nhân dân Công Xã thi hành quá sớm, đã kéo thụt lùi nền sản xuất nông nghiệp.”
Bành yêu cầu, “Nhân Dân Công Xã phải tái tổ chức, phải được hỗ trợ hết cả mọi mặt, đặc biệt là từ Quân đội Nhân dân”.
Mao phản ứng, bằng cách triệu tập Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng tại Lư Sơn, tháng Tám 1959. Sau cuộc tranh biện gay gắt, hội nghị nổi tiếng đó – Hội nghị Lư sơn – đồng chấp thuận việc tái tổ chức Nhân dân Công xã. Giải pháp, là sự hợp tác của các nhà sản xuất sẽ căn cứ trên cơ sở của sở hữu cá nhân – nghĩa là, trở lại hình thức sản xuất trước khi có Đại Nhảy Vọt. Phiên họp mở rộng này cũng quyết nghị việc phải truy lùng thành phần “ly khai” trong Đảng.
Rồi Bành Đức Hoài bị Lâm Bưu thay thế; rồi Hoàng Khắc Thành bị cách chức; và vài thành viên trong Bộ Chính trị Trung ương biến mất.
Để chống đỡ những sai lầm ngớ ngẩn của mình, Mao cũng từ chức Chủ tịch nhà Nước vào tháng Chạp, chỉ định Lưu Thiếu Kỳ thay thế. Lưu chính thức được thừa nhận vào chức vụ tháng 4, 1959. Giờ thì trách nhiệm sửa chữa những sai lầm nghiêm trọng dồn vào nhân vật mới, có nhiệm vụ xoa dịu bất mãn trong dân.
15.
Hỏi: Lưu có thực hiện được cuộc cải cách nào không?
Đáp: Lưu, cùng Đặng Tiểu Bình là Tổng Bí Thư, và Bành Chân, là Thị trưởng Bắc Kinh, cùng nhau phát động chiến dịch sửa sai, hủy bỏ chương trình nhà nhà đúc thép, cho phép duy trì quyền sở hữu đất ruộng trở lại, cùng sở hữu những phương tiện chăn nuôi tại thôn quê, bãi chương trình Nhà trẻ, Nhà ăn công cộng. Đại đa số nông dân đón mừng nồng nhiệt cải cách này. Nông phẩm tăng gia, sự thiếu hụt rau trái trầm trọng chấm dứt. Từ 1960 đến 1961, có nạn đói xảy ra, cộng đại họa Nhân dân Công xã, nhưng từ 1963, sản phẩm nông nghiệp khôi phục, thành quả đã ngang bằng với lúc trước khi có Công xã.
(Lược bỏ 15 dòng phát biểu về chính sách văn nghệ lươn lẹo của Mao, cùng những cải tổ giáo dục học đường, mà một Trotskyist khác, là Trần Kim Lan đã phát biểu trong cùng loạt bài chúng tôi đã dịch, “Văn nghệ và quyền lực”)
Cải cách của Lưu đem lại sự tán thưởng cùng khâm phục trong đa số quần chúng đối với cá nhân Lưu, đặc biệt của cả nông dân lẫn trí thức – trở thành một sự rất mích lòng Mao. Lưu đọc diễn văn trước Trung ương Đảng, ngày 22, tháng Hai 1962:
“Khó khăn tạm thời về kinh tế do những sai trái nghiêm trọng cùng nhiều lầm lỗi của chính chúng ta – 30% từ thiên tai và 70% do nhân tai. Việc đánh phe Hữu trong hội nghị Lư sơn năm 1959 (vụ Bành Đức Hoài) là quá mức, làm khó khăn cho cả những nỗ lực để rửa tiếng cho các nạn nhân. Cuộc đấu tố đã đầy sai lầm… Đảng rất thiếu dân chủ. Sinh mạng Đảng là sinh mạng của một chuỗi thanh toán tàn nhẫn, không thương sót.”
Diễn văn trên, được in lại trong Cách mạng Văn hoá, trên tờ Hồng Vệ Binh Thủ đô sau này, cốt để hạch tội Lưu Thiếu Kỳ, nhưng kỳ thật, lại làm người đọc hiểu hơn về quan điểm công khai của Lưu lúc đó. Đó là lúc Lưu ra sức cải tổ Đảng, với dự định rửa tiếng cho Bành Đức Hoài và những người oan ức khác. Cùng lúc, Mao chuẩn bị tái lập chính sách sùng bái lãnh tụ, và trả đũa những người chống đối. Trước tiên, anh ta sử dụng Lâm Bưu, Bộ trưởng Quốc phòng mới nhậm chức để tuyên truyền tư tưởng Mao và sắp đặt kế hoạch thờ phụng lãnh tụ trong quân đội. Đầu năm 1960, Lâm Bưu đưa ra giải pháp trong buổi triệu tập của Ban Trung ương Quân sự, nhan đề, “Bốn đáp án để giải quyết những khó khăn Quân sự” trong đó anh ta nhấn mạnh vai trò cá nhân lãnh tụ trên bình diện chính trị và tư tưởng. Khi giải pháp thông qua, Lâm kết luận, “Ai ai cũng phải đọc sách của Mao Chủ tịch, lắng nghe từng lời của Mao Chủ tịch, thi hành công tác theo chỉ dẫn của Mao Chủ tịch.” Tại Hội nghị Trung ương tháng Chín 1963, Mao tung ra khẩu hiệu, “Chúng ta không được xao lãng chuyện đấu tranh giai cấp”. Trong cùng buổi đó, một tuyên cáo được tung ra, như sau:
“Trong thời kỳ chuyển tiếp từ tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa… cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản vẫn còn. Cuộc đấu tranh hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa vẫn còn. Cuộc đấu tranh này không khỏi không có phản chiếu từ trong Đảng… Chúng ta phải bắt kịp thời cơ và phải đấu tranh bền chắc chống với những khuynh hướng Cơ hội chủ nghĩa mà chúng lộ ra nhiều kiểu nhiều cách. Đặc điểm của Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 8 là sự chiến thắng đập nát bọn Hữu khuynh. Tức là, đã đập tan mọi phá hoại của bè lũ Xét lại.”
Những câu trên là những lời cảnh báo đến Lưu Thiếu Kỳ, rằng nếu còn tiếp tục chống phá, tức là thuộc về khuynh hướng Xét lại, sẽ gặp số phận y như Bành Đức Hoài. Sau đó, những từ “cơ hội”, “xét lại” luôn luôn được lặp đi lặp lại trong văn bản của Đảng, trên báo chương… để dằn mặt những ai trong Đảng mà dám có ý kiến khác Mao.Trong buổi họp của Liên hội Văn nghệ Trung Quốc tháng Sáu 1964, Mao tuyên bố:
“Trong mười lăm năm qua, hội này cùng những sản phẩm đã ấn hành của họ, đã phần lớn thất bại… Họ đã nghiêng về phe Xét lại. Nếu họ không kịp tự chấn chỉnh, sớm muộn gì họ sẽ trở thành một Câu lạc bộ kiểu Petofi bên Hung.”
Mao ra lời cảnh cáo đến nhóm sinh hoạt văn hóa nào chịu ảnh hưởng Lưu Thiếu Kỳ, nhưng những lời nhắc đến nhóm cách mạng Hung của Mao mới là những lời báo động cho cuộc Cách mạng Văn hóa sắp đến.
16.
Hỏi: Tại sao Mao phát động Cách mạng Văn hóa?
Đáp: Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc là phản ứng đối phó cái kết cục bi thảm tại Nam Dương, tháng Mười 1965. Đảng Cộng sản Nam Dương là Đảng Cộng sản lớn nhất trong thế giới tư bản, với 3 triệu đảng viên cùng 10 triệu cảm tình viên. Đầu thập niên ’60, Mao đã muốn lôi kéo Đảng này về phe mình, trong cuộc tranh giành ảnh hưởng Trung-Xô trên thế giới. Mao mời lãnh tụ Đảng Cộng sản Nam Dương là Aidit đến Bắc Kinh nhiều lần để thương lượng, và Mao đề nghị Aidit hợp tác với chính quyền Sukarno, theo mô hình hợp tác Quốc dân Đảng-Cộng sản ở Trung Quốc. Đảng Cộng sản Nam Dương nghe theo, áp dụng chính sách cơ hội này, đưa đến cuộc đảo chính tháng Mười 1965, làm cho 250,000 đến 500,000 đảng viên Cộng sản cùng Dân quân bị thảm sát, kể cả Aidit. Tấm thảm kịch này là một cú nghẹt thở trước dư luận thế giới, khi thẩm xét sự khả tín chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều lãnh tụ trong Đảng cũng bất mãn với chính sách Mao, làm Mao phải triệu tập phiên họp đặc biệt tháng Chín-Mười 1965. Trong phiên họp, vài lãnh tụ chê trách việc thất bại Đảng Cộng sản Nam Dương là do chịu ảnh hưởng Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thị trưởng Bắc kinh Bành Chân gay gắt phát biểu, “Con người bình đẳng trước sự thật. Nếu Mao Chủ tịch sai lầm, cũng phải chịu phê bình.”
Sau cuộc trao đổi, Mao tức khắc đi Thượng Hải tập hợp phe nhóm, gồm Trương Xuân Kiều, giám đốc hội Văn hoá Thượng Hải, Diêu Văn Nguyên, tổng Biên tập Văn hối báo. Bọn này, dưới sự chỉ đạo của Mao, viết bài công kích vở kịch Hải Thụy bãi quan đăng trên báo ở Thượng Hải, tố cáo một tác phẩm văn nghệ tiên phong dám “chĩa” vào dự định làm Cách mạng Văn hoá. Chiến dịch tiếp, theo nhằm quảng bá “tư tưởng Mao”, khởi động trên Giải phóng quân báo dưới chỉ đạo của Lâm Bưu, tung ra những luận điệu như, “Phải học tập tư tuởng Mao Trạch Đông cùng nêu cao tư tưởng Mao Trạch Đông,” và,”Tư tưởng Mao Trạch Đông là bảng chỉ đường cho cách mạng giải phóng nhân dân thế giới.”
Trong Thư Biên tập trên báo, ngày 1 tháng Giêng 1966, viết,
“Mỗi lời của Mao chủ tịch đều là chân lý… Chúng ta phải tin chắc cùng hỗ trợ mọi điều của tư tưởng Mao Trạch Đông, và chúng ta phải cương quyết chống lại những gì không đúng với tư tưởng Mao Trạch Đông.”
Lời nhắn này, để gửi đến Lưu Thiếu kỳ cùng Trung ương Đảng.
Một vài nhà văn Bắc Kinh và Thượng Hải vẫn còn ngỏ ý bênh vực cho Ngô Hàm (tác giả vở kịch) chống những dèm pha, cho đến khi Lâm Bưu ra lệnh triệt hết khuynh hướng “chống Đảng”. Tờ Quân đội Giải phóng được dùng làm cái loa chính cho chiến dịch này, đưa tới sự đàn áp thể chất tới bất kỳ ai chống đối. Quân đội được vận dụng tham gia chiến dịch. Ngay cả khi Ngô Hàm cùng những người bênh ông ta đã im tiếng, phe Mao vẫn tiếp tục buộc tội họ, là “chống Xã hội Chủ nghĩa”, “chống Đảng”, “chống Cách mạng”, và có hoạt động “hướng đến con đường Tư bản” – tất cả cáo buộc này làm cá nhân Ngô Hàm rơi xuống vực thẳm. Tháng Tư, Diêu Văn Nguyên tung ra bài viết buộc tội các tác giả Chuyện ba nhà, và Đêm bàn chuyện Yên Sơn. Ngay sau đó, Đặng Thác cùng các tác giả kia bị trục xuất khỏi Đảng.
Cuối tháng Tư, Lâm Bưu điều động quân đội tiến chiếm toàn thể các văn phòng cơ quan chính phủ thành phố. Mao từ miền Nam trở về Bắc Kinh, chính thức phát động “Cách mạng Văn hoá Vô sản”. Anh ta lập “Nhóm Cách mạng Văn Hoá”, mà Trần Bá Đạt là Đệ Nhất chủ tịch, Giang Thanh làm Đệ Nhị. Chính quyền Bắc Kinh, mà người đứng đầu là Bành Chân, bị truất chức, đầu tháng Sáu. Rồi Lục Định Nhất, Trưởng ban Tuyên huấn, và Chu Dương, Thứ trưởng Văn hoá cùng nhiều quan chức cao cấp trong bộ Văn hoá cũng bị truất chức. Tổng Tham mưu trưởng La Thụy Khanh bị bắt. Tới trung tuần tháng Sáu thì tất cả trường, từ Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học cho đến Đại học đều đóng cửa để làm Cách mạng Văn hóa. Hầu hết Khoa trưởng, Hiệu trưởng của Đại và Trung học các cấp, cũng như toàn thể giáo viên, giáo sư đều bị Hồng Vệ Binh đánh đập, chửi rủa dưới chỉ đạo của Nhóm Cách Mạng Văn hóa – do Trần Bá Đạt và Giang Thanh chỉ huy.
Lưu Thiếu Kỳ cùng Đặng Tiểu Bình cố cứu vãn tình thế, bằng cách yêu cầu triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng. Mao từ khước không đến dự, vì cuộc thanh trừng Lưu-Đặng chưa xong. Khi Mao về tới Bắc Kinh, ra lệnh Lâm Bưu đem quân đội vây Thủ Đô. Rồi Mao mới triệu tập Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 11 khóa 8, để thi hành “Quyết nghị về Cách mạng Văn hóa Vô sản”. Điểm chính, là: “Để đập tan bọn ở ngay trong Cơ quan trách nhiệm, lại có tư tưởng theo con đường Tư bản chủ nghĩa”, và phải lập tức, “Tái cấu trúc Ban chấp hành Chính trị bộ”. Thế là Lưu Thiếu Kỳ bị cất chức phó Chủ tịch Đảng, Lâm Bưu thay thế.
Hội nghị này chủ trương kêu gọi sinh viên hãy tham gia, để tăng cường cho sức mạnh Hồng Vệ Binh. Chiến dịch đầu, là chiến dịch phá “Bốn cũ” – tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, thói quen cũ – thay bằng “4 mới”. Đầu tháng Tám, trong cuộc tập họp lớn ở Bắc Kinh, Lâm Bưu nhắn nhủ Hồng Vệ Binh là phải, “Cô lập và thanh trừng toàn thể bọn công chức ngấm ngầm theo con đường tư bản.” Cuộc diệu võ dương oai, kèm nhiều bích chương khắp nơi diễn ra, đòi hỏi Hồng Vệ Binh thanh toán gấp “Bọn đầu nậu địa phương”.
Nhưng có vài lãnh tụ địa phương tự tổ chức nhóm Hồng Vệ Binh riêng, chống Hồng Vệ Binh Trung ương của Mao, kết quả, là xảy ra nhiều đụng độ dữ dội. Ngày 15 tháng Chín, Lâm Bưu thay Mao đọc diễn văn trong buổi Đại hội Hồng Vệ Binh, cao giọng bảo đảm, là “Quân đội sẽ hỗ trợ Hồng Vệ Binh trong công cuộc diệt bọn chống tư tưởng Mao đến cùng”. Lời tuyên bố này dẹp yên hết mọi ngần ngại: Hồng Vệ Binh lập tức phát động phong trào tố cáo bằng bích chương tại Bắc Kinh, kêu gọi “Nghiêm trị bọn chạy theo Tư bản”. Chúng chỉ đích danh các lãnh đạo địa phương như Lý Tỉnh Tuyền, Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam; Lưu Lan Đào Bí thư thứ nhất Cục Tây Bắc; và Lý Tuyết Phong Bí thư thứ nhất Cục Hoa Bắc. Rồi viên chức công quyền nào cũng bị đấu, tới cả Lưu Thiếu Kỳ, chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc, cùng Đặng Tiểu Bình, Tổng Bí thư Đảng cũng là nạn nhân. Cuối tháng Mười, trong cuộc kiểm điểm 17 ngày, Lưu và Đặng bị ép phải viết bản tự kiểm. Sau phiên họp ấy, Bành Chân và Lục Định Nhất bị bắt.
17.
Hỏi: Thế có nghĩa là Mao thành công?
Đáp: Mao cũng nghĩ thế. Ngày 26 tháng Chạp, trong một bài tường thuật về buổi Khánh tiết của Hồng quân tại Bắc Kinh, toàn thể báo chí, như tờ Hồng Kỳ, đều loan tin thắng lợi của Cách mạng Văn hoá. Nhưng những biến cố tiếp sau, chứng tỏ những chống đối còn lâu mới hết.
Mùa thu 1966, một nhóm Hồng Vệ Binh hùng hậu do Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn điều động, tấn công nhiều văn phòng của các nhà chức trách Thượng Hải. Đại diện Đảng và chính quyền, như Thị trưởng Tào Địch Thu và bí thư thứ nhất Ủy ban Thành phố là Trần Phi Hiển đã ứng phó, bằng cách nhượng bước trước yêu sách của Nghiệp đoàn Công nhân để lôi kéo công nhân ủng hộ.
Tuần lễ đầu năm 1967, lực lượng đối đầu rất mạnh, đã thành cuộc đình công to lớn bùng ra tại Thượng Hải, đến nỗi làm Mao phải lưu ý, là có một lực lượng có thể dám chống lại Hồng Vệ Binh cùng Cách mạng Văn hoá. Trung ương Đảng, theo lệnh Mao, dự tính cho nhóm Hồng Vệ Binh “Tả”, phải chiếm chính quyền tại Thượng Hải ngay. Do đó, Lâm Bưu phải phụ trợ, bằng cách đem quân đội đến, dẹp đình công. Xong xuôi, Mao lập tức thanh trừng toàn ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại Thượng Hải, Hồng Vệ Binh “Tả” khống chế mọi hãng xưởng, công đoàn, cơ sở giáo dục cùng cơ sở văn hoá. Tiền lương tăng cùng giờ làm giảm do cuộc đình công đoạt được, nay hủy bỏ hết, làm kinh tế toàn tỉnh tê liệt. Chu Ân Lai nhập cuộc để cứu vãn, đưa “giải pháp Tam Liên”, gồm đại diện quân đội, đại diện tỉnh, đại diện Hồng Vệ Binh… cùng liên hiệp, thay thế chính quyền cũ, cùng nhau điều hành tỉnh. Thực ra, quyền điều hành đã lọt vào tay nhóm Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn (cùng Giang Thanh, là “Tứ Nhân Bang”) là những người mà sau này, bị Hoa Quốc Phong thanh toán – vào mùa thu năm ngoái.
Cùng lúc, một xung đột lớn giữa chính 2 nhóm Hồng Vệ binh xảy ra tại Nam Kinh. Khoảng 50 người chết, 100 bị thương. Mao không cho quân đội trợ giúp Hồng Vệ của mình được, vì lực lượng Hồng Vệ đối đầu lại do Chính quyền địa phương yểm trợ, cùng với Tư lệnh quân đội địa phương là Hứa Thế Hữu nhập phe nhau. Chu Ân Lai lại can thiệp, đưa đến sự tương nhượng. Tại Hồ Nam, Hồng Vệ tự nhân danh là nhóm “Hai-Bảy Công Xã” (công xã tháng Hai, ngày 7) cũng muốn như nhóm Thượng Hải chiếm chính quyền. Lực lượng địa phương chống lại chuyên này, với trợ giúp của quân đội địa phương. Hai nhóm đánh nhau suốt từ tháng Hai đến tháng Sáu 1967, rất nhiều người chết. Nhóm “Hai-Bảy” thất bại, cũng có vài sĩ quan bị kỷ luật, nhưng rốt cục, quyền lực của tỉnh vẫn trong tay địa phương.
Thời kỳ đầy bi kịch, là tại Vũ Hán vào tháng Bảy, khi một nhóm Hồng Vệ được hỗ trợ mạnh từ Bắc Kinh muốn chiếm chính quyền tỉnh. Giới chức địa phương tổ chức một nhóm Hồng Vệ chống lại, lấy tên là “Bách vạn hùng sư”. Họ được tư lệnh quân đội địa phương Trần Tái Đạo hỗ trợ. Nhóm Hồng Vệ của Mao kêu gọi tiếp viện, nhóm chỉ đạo Trung ương sai Tạ Phú Trị, Bộ trưởng Công an, cùng Vương Lực, Tổ trưởng Tổ tuyên truyền Trung ương, cùng đến Vũ Hán ngày 14 tháng Bảy, hai đại diện cùng lên án quân đội địa phương đã nhập phe “bọn bảo thủ”. Hai người đều bị quân đội bắt giữ.
Lâm Bưu lập tức đi chiến hạm đến, ra tối hậu thư, đòi thả ngay 2 người bị bắt, ra lệnh lực lượng địa phương phải đầu hàng. Địa phương đầu hàng xong, rất nhiều đảng viên cùng nhân viên chính quyền bị bãi chức, kể cả Trần Tái Đạo. Lực lượng “Bách vạn hùng sư” bị giải tán. Có vẻ như Mao lại thắng lớn. Nhưng chuyện nào chỉ có thế.
18.
Hỏi: Sau đó, các nhóm Hồng Vệ Binh có kết hợp nhau, cùng chống chính quyền địa phương hay không?
Đáp: Tiếp sau biến động Vũ Hán, Mục Hân và Vương Lực, dưới chỉ đạo của Giang Thanh và Trần Bá Đạt, viết một bài trên Hồng Kỳ, ra lệnh Hồng Vệ binh phải tấn công “một nhóm quân đội” và “chiếm vũ khí trong kho súng quân đội”. Điều này làm các nhà quân sự địa phương nhất định chống lại, bằng cách kết hợp với Đảng ủy và quân đội địa phương, tổ chức lực lượng Hồng Vệ binh riêng để chống Hồng Vệ Trung ương. Diễn tiến việc này đã được Trần Bích Lan báo cáo trong phúc trình gửi Đệ tứ Quốc tế:
“Từ khi Mao tổ chức Hồng Vệ Binh để nắm quyền lực vào đầu tháng Giêng 1967, không nơi nào trên đất Trung Quốc được sót mà không phải thấy những cuộc xung đột lớn lao, tàn nhẫn giữa các hãng xưởng, giữa những khuynh hướng. Các va chạm có đặc điểm vào đúng giai đoạn của cái được gọi là Cách mạng Văn hóa. Cao trào là vào tháng Tư và tháng Bảy, 1968, diễn ra tại Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Tây Tạng, Tân Cương và Phúc Kiến. Mức độ ác liệt tới nỗi có thể xem như xảy ra nội chiến tại từng địa phương.
Thí dụ, tại Quảng Tây, Hồng Vệ Binh chia thành 2 nhóm. Một nhóm, tự xưng là “Nhị- Thập-Tứ Quân Nổi dậy” (Quân đội Nổi dậy của ngày 20 tháng Tư), ban chỉ huy gồm sinh viên, công nhân và vài đơn vị quân đội, đặt dưới quyền điều động của Ban Chỉ huy Tối cao Bắc Kinh. Nhóm kia, tên là “Quảng Tây Nổi dậy Thống nhất”, gồm công nhân, nông dân, các đơn vị quân đội, đảng viên địa phương, sinh viên. Nhóm này được chỉ huy bởi Đệ Nhất Bí thư Quảng Tây, Vi Quốc Thanh, và Tư lệnh quân đội địa phương. Hai nhóm đụng độ kịch liệt vào tháng Năm tại Vụ Châu. Khí giới của 2 phe đều rất hiện đại – từ súng trường cho đến súng máy, cho đến pháo binh nặng, và thiết giáp – đưa đến kết quả là cả 2 bên đều chết hàng ngàn người. Theo báo cáo trên tờ Tây Giang Nộ Báo của nhóm “Nhị Thập Tứ quân”, nhìn nhận đã tổn thất nhân mạng tới vài ngàn, chưa kể bị thương, có trên 3,000 bị bắt, trong đó có 317 người bị xử tử. Báo đó cũng tổng kết, là trên 2,000 nhà bị phá hủy. Những trận đụng độ khác ác liệt cũng tương đương, xảy ra tại các thành phố thuộc Quảng Tây, như Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâm cùng vài thành phố khác mà tôi đã nói ở trên.Thí dụ, tại Vân Nam, thành phố Côn Minh (thủ phủ Vân Nam) theo báo cáo của Tỉnh trưởng Đàm Phủ Nhân trình lên Mao, là có đến 30,000 người bị chết ở Vân Nam. Mao hồi đáp, rằng anh ta ước tính con số khoảng 80,000. “Theo tin tức trên báo địa phương,” Mao tuyên bố, “Thì có đến 160,000 bị chết. Có thể là con số phóng đại.” (trích Nhân dân Nhật báo).
Do hậu quả trầm trọng của tình hình như trên đã nói, Mao buộc phải có những quyết định làm dịu nỗi bấp bênh của địa vị mình. Đầu tiên, là quyết định ban hành tình trạng khẩn cấp toàn lãnh thổ, ngày 3 tháng Bảy. Rồi đến ngày 24 tháng Bảy, lại ra lệnh rút tình trạng khẩn cấp. Những chỉ thị bất nhất như thế, cũng đã làm ngưng mọi xung đột giữa Hồng Vệ binh với nhau và Hồng Vệ binh với công nhân. Cùng lúc, nhiều đơn vị quân đội được điều động từ Bắc Kinh đến các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến và Tân Cương để ngăn chặn đụng độ. Chỉ còn cách đó Mao mới có thể chặn được họa nội chiến tại nhiều địa phương. Rồi Mao đề nghị thành lập các Ủy ban Cách mạng tại mỗi tỉnh nói trên, cũng như tại các thành phố lớn”.[31]
Cũng nên ghi nhận về các Ủy ban Cách mạng, cái gọi là Ủy ban Tam liên (3 liên hiệp) thì bị kiểm soát bởi quân đội, vì thường khi Chủ tịch Ủy ban lại kiêm Tư lệnh quân đội địa phương. Rồi toàn thể Hồng Vệ binh bị bắt buộc phải trở lại trường học, hay lao động trong các trại sản xuất ở thôn quê. Con số chính thức, cho biết có ít nhất 10 triệu thanh niên đã bị đi đày theo kiểu này.
19.
Hỏi: Hồng Vệ Binh chắc chắn là con bài mạnh của Mao Trạch Đông, khi họ còn trong đội ngũ.
Đáp: Đúng. Tuy nhiên, không phải sự việc bao giờ cũng đúng như ý Mao. Thí dụ, tháng Giêng 1967, sau khi Trung ương đã nắm quyền tại Thượng Hải, cùng đã thanh trừng xong toàn ban lãnh đạo địa phương, vài nhà lãnh tụ nổi bật, như Đàm Chấn Lâm, Bộ trưởng Nông nghiệp, Diệp Kiếm Anh, Phó Chủ tịch Trung ương, Nhiếp Vinh Trăn, Trưởng ban Khoa học Kỹ thuật, và Lý Phú Xuân Bộ trưởng Kế hoạch – tất cả là thành viên Bộ Chính trị, cùng nhau công khai phê bình Hồng Vệ binh đã hành động thái quá, gây ra bạo loạn. Phe Mao lập tức “gắn nhãn hiệu” cho những người này, gọi họ là bọn “Dòng nước ngược tháng Hai”. Chu Ân Lai lại xuất hiện, giải cứu cho tình trạng hiềm thù giữa Mao và các lãnh đạo kỳ cựu. Tuy sau đó thì Đàm Chấn Lâm bị bãi chức Bộ trưởng Nông nghiệp. Nhưng dù vậy, các lãnh đạo già cũng ghi được chút thắng lợi.
Một sự cố liên hệ tới nhóm “Ngũ-thập-lục Quân” (“Quân đội 16 tháng Năm”), là nhóm của Thích Bản Vũ và Vương Lực trong Tiểu tổ Văn Cách Trung ương, đã phát động phong trào chống các Bộ trưởng trong chính quyền Trung ương, muốn họ phải từ chức, thay bằng những người hoàn toàn theo Mao. Chu Ân Lai lại cứng cỏi chống việc này, đưa đến chuyện đối đầu trực tiếp với nhóm Giang Thanh và Trần Bá Đạt. Mao phải nhượng bước, cách chức Thích Bản Vũ, Vương Lực cùng một số tay chân của mình trong Tiểu tổ Văn Cách Trung ương.
Tại Hồ Nam, mùa hè 1967, một nhóm Hồng Vệ mang tên “Đại Vô sản Cách mạng liên hiệp” tấn công nhà cầm quyền địa phương, cướp kho vũ khí quân đội. Họ chiếm một vài hãng xưởng cùng những cơ sở tài chánh. Được Giang Thanh và Trần Bá Đạt hậu thuẫn, họ ra tuyên cáo “Trung Quốc đến đâu?”, chỉ trích Ủy ban Cách mạng là bộ máy của giới thư lại trong giai cấp “Tư sản mới”, gọi đích danh Chu Ân Lai là đại biểu của giai cấp này. Họ kêu gọi thành lập một Ủy ban khác thay thế, tên là “Nhân dân chân chính”, để đưa Trung Quốc tiến trên con đường cách mạng thật sự.
Dù đó là một tuyên ngôn chứa những tư tuởng lộn xộn và mơ hồ, nhóm Hồng Vệ binh này lại đã đáp ứng phần nào sự mong đợi có thay đổi của quần chúng. Vì thế, Giang Thanh cùng Trần Bá Đạt bỏ rơi họ. Mao gửi đại diện từ Bộ Chính trị Trung ương là Khang Sinh đến tận nơi để giải tán nhóm này, gọi là nhóm “Phản cách mạng”, rồi để nhà cầm quyền Hồ Nam (với Hoa Quốc Phong trong đó) tiêu diệt họ một cách tàn nhẫn.
Biến cố thứ tư, mà Mao không kiểm soát được, xảy ra vào tháng Tám 1968. Một cuộc đụng độ lớn xảy ra giữa Hồng Vệ binh của Trung ương với Hồng Vệ địa phương Quảng Đông, do lãnh tụ quân đội địa phương là Hoàng Vĩnh Thắng chỉ huy sự đối đầu. Anh này lại là người thân tín của Lâm Bưu, cho nên không những về sau đã được miễn nhiễm mọi cáo buộc, lại còn được thăng chức, làm Tham mưu trưởng tại Bắc kinh.
20.
Hỏi: Có thể coi việc động viên quần chúng trong Cách mạng Văn hoá là một cuộc cách mạng được không?
Đáp: Câu hỏi này đã bàn cãi giữa những người Triệt để, cả những người Trotskyist, suốt 10 năm qua. Câu trả lời nằm trong việc Hồng Vệ Binh đã được thành hình thế nào, phương pháp họ đã sử dụng ra sao, để đấu tranh với giới quan liêu. Trích dẫn sau đây, do George Novack và Joseph Hansen cung cấp:
“Trường học đóng cửa, hàng triệu học sinh lêu lổng. Chúng được hứa hẹn những đặc quyền rất hấp dẫn, cho ngay cả ở những xứ tư bản giàu có; như là, được đi chơi Bắc Kinh do chính phủ đài thọ, [tức là, được đi bất cứ đâu trên đất Trung Quốc – Bành chú thích]. Phí tổn chuyển vận, cho đến ăn và ở, đều miễn phí. Chỉ tiêu vui thích đó được đặt ra, cốt phục vụ những ứng viên nào sẽ gia nhập tổ chức mới này.
Chính sách là đoàn ngũ thanh niên cho họ thành một phe với nhau, dụ dỗ chúng quyết tâm đoàn ngũ với nhau, không cần biết ý định nào khác, chỉ cùng nhau triệt bất cứ phe đối nghịch nào, không để bất cứ ai có cơ hội được trình bày, dù là với một cuộc tranh luận có lý luận, nhất là một khi đối thủ đã bị bôi nhọ ngay từ đầu, có tội là “bội phản” hay “phản cách mạng”, tức là phe đối nghịch sẽ là toàn những ma với quỷ…
Tội lỗi thực sự của các lãnh tụ bị tố, không phải vì họ rập mưu theo “con đường tư bản”, mà chỉ vì họ khác biệt nghiêm trọng với phe Mao-Lâm. Quan điểm họ bị mạo hóa, làm họ mất tín nhiệm trước mắt quần chúng, để rồi bị tiêu diệt về chính trị, nếu không nói là cả thể xác.
Phép luận chiến kiểu này, mà phe Mao đem ra dùng, là đã học được ở trường phái Stalin, trước đã đem áp dụng đối với những người Trotskyist tại Liên Xô, sau được phe Krushchev áp dụng, nay mang ra dùng ở Trung Quốc để thanh trừng cả với các chiến hữu lão thành cũ, từng sống chết có nhau. Không có điều gì mới trong cung cách kì dị này vượt quá trí tưởng tượng của con người, như ai nấy tưởng, là Mao còn thêm sáng kiến nào khác.”[32]
Tôi chỉ muốn thêm ở đây, chuyện Mao tổ chức Hồng Vệ Binh chỉ là cốt diệt phe Lưu Thiếu Kỳ-Đặng Tiểu Bình. Khi xong việc, Mao lập tức loại thải Hồng Vệ Binh chạy tứ tán, với trợ lực của quân đội do Lâm Bưu chỉ huy. Sau đó, thì Lâm lại là mục tiêu kế tiếp cho Mao nhắm đích.
21.
Hỏi: Ảnh hưởng trên toàn quốc sau cuộc Cách mạng Văn hoá thế nào?
Đáp: Toàn thể xã hội Trung Quốc bị đảo lộn, đất nước tan hoang như vừa trải qua cuộc chiến tranh. Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng những tổ chức thanh niên đều bị nghiền tan nát. Lệnh của Mao cùng câu nói của Mao được trích dẫn để thay thế cho điều luật Đảng cùng luật lệ chính phủ. Chính quyền Trung ương vẫn giữ cái vỏ bề ngoài, nhưng toàn thể chính quyền các cấp đã thay đổi. Chính quyền mới lập ra “Ủy ban Cách mạng toàn quốc” có toàn quyền. Ủy ban này lại đặt dưới sự kiểm soát của các sĩ quan quân đội, trừ có vài nơi, như ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Hầu hết các lãnh đạo cũ từng chiến đấu cạnh Mao trước và sau cách mạng lần ba, đều bị trừng trị, lãnh chịu những đánh đập của Hồng Vệ Binh. Gần hết đã bị đấu tố, nhiều người phải vào trại lao cải hay nhà tù, hoặc bị chết. Hệ thống giáo dục và văn hoá tiêu hủy hoàn toàn. Hàng ngàn nhà giáo, văn nghệ sĩ bị ra khỏi Đảng, mất công ăn việc làm.
Hàng triệu Hồng Vệ Binh bị đày ải về thôn quê hay lên vùng rừng núi. Nền kinh tế ngưng đọng, sản xuất tuột dốc. Công nhân, nông dân, kỹ thuật gia cùng đảng viên nào mà đã dính dáng đến Cách mạng Văn hoá, hay đã liên hệ với bất cứ ai từng bị đấu tố trong Cách mạng Văn hóa, chính người ấy cũng bị tẩy trừ.
Chính sách đối ngoại của Mao trở thành cực kỳ biệt phái, chứng cớ là anh ta từ khước tham gia vào mặt trận thống nhất với các nước xã hội khác để cùng chống đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Mặt khác, Mao còn để cho Hồng Vệ tấn công toà Đại sứ Anh và Nga Xô. Trong cao trào Cách mạng Văn hoá, Trung Quốc trở thành cực kỳ cô lập trước thế giới. Sự cô lập và sự tàn phá nội bộ Trung Quốc lộ rõ trong Đại hội Đảng lần thứ 9.
22.
Hỏi: Điều gì đã xảy ra tại Đại hội 9?
Đáp: Đại hội tại tháng Tư 1969, có 1,512 đại biểu, toàn là những người được chỉ định, chứ không do bầu cử từ các Ủy ban cách mạng địa phương. Rõ ràng Đại hội chịu dưới ảnh hưởng quyền lực của Cách mạng Văn hoá.
Lâm Bưu đọc báo cáo chính trị trước Ủy ban Trung ương, mà đa số thành viên Ủy ban đã bị thanh trừng. Lâm ca tụng Mao đã phát động Cách mạng Văn hóa, đồng thời khen ngợi sự hỗ trợ hữu hiệu của quân đội. Anh ta không hề nhắc gì tới hậu quả cũng như về sự tái thiết những đổ nát kinh tế hay trấn an sự dao động tâm lý quần chúng. Bản báo cáo là một chuỗi những khẩu hiệu mơ hồ:
“Hãy nắm chắc cách mạng, hãy giương cao cách mạng…
…để khai triển tình thân hữu sẵn có, hãy cùng giúp đỡ nhau, cùng hợp tác với những nước xã hội chủ nghĩa trên nguyên tắc của tình vô sản quốc tế; hỗ trợ và tham gia thêm vào các cuộc đấu tranh cách mạng cho kẻ bị áp bức, cho các nước bị áp bức; hãy hướng đến hoà bình bằng cách cùng sinh tồn với những nước không cùng hệ thống xã hội với chúng ta theo tiêu chuẩn “5 nguyên tắc”…
Hãy chôn đế quốc Mỹ, hãy diệt bọn Nga Xô cùng tay sai của chúng…”[33]
Lâm còn đề nghị cán bộ nào lầm lỗi trong quá khứ sẽ được rửa tiếng, được trở lại chức vụ trong Đảng hoặc trong Chính quyền, nếu họ biết nhận lỗi. Đề nghị này cốt gây dựng lại sức mạnh cho phe Mao-Lâm, nhưng không phải ai cũng ôm chầm lấy ngay. Thắng lợi lớn nhất cho Mao-Lâm, chỉ là một thông qua điều lệ hồi phục một đoạn ghi lại trong hiến chương Đảng, mà trước đây đã bị bãi bỏ trong Đại hội 8:
“Tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ nghĩa Mác-Lênin của thời đại mà đế quốc hướng đến sự sụp đổ hoàn toàn, và xã hội chủ nghĩa đang tiến đến thắng lợi trên khắp thế giới.
Đã nửa thế kỷ nay… Đồng chí Mao Trạch Đông đã gia nhập chân lý hoàn vũ của chủ nghĩa Mác-Lênin với những kết quả cụ thể của sự thể hiện cách mạng, đã thừa kế, đã bảo vệ và đã khai triển chủ nghĩa Mác-Lênin, cũng như đã đưa nó lên cao trào trong giai đoạn hoàn toàn mới.
Đồng chí Lâm Bưu đã bền bỉ giương cao biểu ngữ đỏ của Tư tưởng Mao Trạch Đông và đã trung thành cũng như đạt hiệu quả lớn, trong việc truyền bá cũng như bảo vệ cuộc Cách mạng vô sản mà đường lối Mao Trạch Đông đề ra. Đồng chí Lâm Bưu là chiến hữu thân cận nhất của Đồng chí Mao Trạch Đông và là người kế nghiệp.”[34]
Đại hội bầu được thêm 170 tân thành viên, trong đó phe quân đội chiếm 30%. Chín đại biểu quân đội lọt vào, làm thành viên trong số 21 người của Bộ Chính trị. Quân nhân chiếm đa số chức vụ trong chính quyền, như Bộ trưởng Quốc phòng, Tham mưu trưởng, Tư lệnh Không quân, Chính ủy Hải quân, đều do ảnh hưởng của Lâm Bưu. Lâm cũng nắm trong tay tất cả các quân nhân lãnh đạo trong những Ủy ban Cách mạng.
23.
Hỏi: Điều gì tạo ra sự xung đột Lâm-Mao?
Đáp: Sau Đại hội 9, Mao thấy rõ sức mạnh quân sự đều vào tay Lâm, bèn tung ra khẩu hiệu mới: “Đảng chỉ huy súng, súng không thể chỉ huy Đảng”. Lâm ứng phó sự thay đổi thái độ của Mao bằng cách củng cố phe cánh mình. Mao ra tay ngay, thanh trừng Trần Bá Đạt vào tháng Tám 1970, cất chức Chủ tịch Ủy ban Cách mạng tối cao, bãi luôn chức vụ trong bộ Chính trị Trung ương của Trần. Không ai chắc Trần Bá Đạt hoàn toàn biến mất trước công chúng vào lúc nào, nhưng trong Đại hội 10 của Đảng, Chu Ân Lai chính thức công bố tội ác của Trần, là đã giữ vai chính trong “Nhóm chống Đảng” của Lâm Bưu.
Sau khi Trần bị thanh trừng, Lâm Bưu buộc phải có thái độ. Trong tài liệu “Phác thảo chương trình 571”, Lâm nhận định:
“Ông ta (Mao) lạm dụng lòng tin và chức vụ mà nhân dân Trung Quốc giao phó… Thực ra, ông ta đã trở thành Tần Thủy Hoàng… Ông ta không thật là người Mácxít-Lêninít, chỉ dùng chủ nghĩa Mác-Lê để thực hiện lý thuyết riêng, là Khổng-Mạnh chủ nghĩa, và áp dụng phương pháp của Tần Thủy Hoàng. Đó chính là kẻ độc tài nhất trong lịch sử Trung Quốc.”[35]
Những tố cáo Mao như trên cho thấy rõ Lâm đã chuẩn bị cuộc đảo chánh. Tuy nhiên, anh ta bị chính con gái mình phản bội, trước khi kịp ra tay. Chính quyền của Mao về sau xác nhận Lâm và đoàn tùy tùng dự tính trốn sang Nga Xô nhưng máy bay bị bắn rơi trên không phận Ngoại Mông. Tất cả đều chết.
Mao rơi vào tình trạng cô đơn hoàn toàn, dù sau khi diệt hết các đối thủ bằng cách này hay cách khác. Không thể giải thích với công chúng lí do xung đột với Lâm Bưu, nên Mao phải nhờ đến Chu Ân Lai. Phe Mao-Chu tính bạch hoá trước công chúng mọi chuyện trong Đại hội Đảng thứ 10, tháng Tám 1973. Chu báo cáo bằng diễn văn chính trị, phỉ báng Lâm là tay “tư sản nhà nghề”, đã “âm mưu tính ám sát Chủ tịch Mao Trạch Đông vĩ đại của chúng ta”, và “dự định biến Đảng Cộng sản Trung Quốc thành một đảng “xét lại”, “phát xít” cùng toan tính tái lập chế độ của bọn “địa chủ và giai cấp tư sản”:
“Trên mặt quốc tế, chúng muốn đầu hàng bọn Xô viết xét-lại, bọn xã hội chủ nghĩa đế quốc, rồi liên minh với mọi đế quốc, mọi xét-lại, mọi phản-động để chống Trung Quốc, chống chủ nghĩa Cộng sản và chống Cách mạng.
Lâm Bưu, tên tư sản nhà nghề, tên âm mưu và hai mang, đã tham gia vào cơ cấu Đảng của chúng ta, không chỉ trong một, mà đã nhiều thập niên.”[36]
Báo cáo của Chu đều là vu khống, dĩ nhiên, nhưng cũng đưa ra được lý do tại sao Lâm Bưu đã phản Mao. Mọi dấu vết dính dáng đến Lâm đều bị xóa sạch trong sử Đảng. Một nhóm lãnh đạo lão thành, như Đặng Tiểu Bình, Đàm Chấn Lâm và Ulanfu[37] được rửa tiếng. Một số tư lệnh quân đội như Hứa Thế Hữu, Trần Tích Liên, Hàn Tiên Sở cũng được rửa tiếng. Vương Hồng Văn được thăng chức phó Chủ tịch Đảng. Một chiến dịch trên toàn quốc “phê Lâm”, “phê Khổng” phát động từ mùa thu 1973 cho đến cuối 1974, quét sạch giới chỉ huy quân đội tay chân của Lâm trước kia, nhẹ thì bị thuyên chuyển, như Hứa Thế Hữu từ Nam Kinh về Quảng Đông, Trần Tích Liên từ Phúc Kiến về Lan Châu. Mao coi là các thuyên chuyển như thế đã tạm ổn, có thể tái lập chương trình tôn sùng lãnh tụ được rồi, nhưng một khuôn mặt mạnh mẽ xuất hiện đã cản đường – Chu Ân Lai.
24.
Hỏi: Chu có phe riêng của mình không?
Đáp: Sau khi những phe nhóm của Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu bị tan tành, Chu trở thành cục nam châm thu hút những lãnh đạo già và bất mãn. Việc Chu vọt lên quyền lực thành hiển nhiên nhất, trong Đại hội Nhân dân toàn quốc lần 4, tháng Giêng 1975, được toàn thể Đại hội nhất trí chấp thuận đề nghị cải cách “4 Hiện Đại Hóa” của Chu, là Kỹ nghệ, Nông nghiệp, Quốc phòng, và Khoa học kỹ thuật. Đa số thành viên trong ban Chấp hành Trung ương được bầu ra đều là người ủng hộ Chu, địch thủ tinh quái của Mao, kể cả Chủ tịch là Chu Đức. Chu Ân Lai được tái cử chức Thủ tướng, Đặng Tiểu Bình là phó Thủ tướng và Tổng tham mưu trưởng quân lực, Diệp Kiếm Anh làm Bộ trưởng Quốc phòng. Mỗi một chức lọt vào tay phe Mao, là Trương Xuân Kiều được cử vào chức phó Thủ tướng thứ ba kiêm Chính ủy quân đội. Vắn tắt, thì Chu Ân Lai đã là lãnh tụ thực sự của Trung Quốc, Mao chỉ còn làm vì.
Sau Đại hội, Mao phát động phong trào mới nhắm vào phe Chu. Bài Quan điểm của Tổng Biên tập trên Hồng Kỳ, tháng Ba 1975, viết:
“Hàng triệu triệu người phải học để nắm vững chủ nghĩa Mác nói về chuyên chính vô sản, là điều quan trọng nhất để làm vững chắc, cũng như để tăng cường sức mạnh cho chuyên chính vô sản. Tất cả thành viên của các ủy ban thuộc Đảng phải học và nắm vững chuyên chính vô sản để có thể thực hiện với đầy đủ ý thức đường lối căn bản của mọi chính sách tiến tới việc chống Lâm, chống Khổng.” (tức là, chống Chu-Đặng – chú thích Bành).
Mao tung ra chuyên chính vô sản để làm màn khói cho chuyên chính Mao, chứng minh những việc thanh trừng của mình là cần thiết để bảo vệ cho nguyên tắc Mác xít. Mao cũng cảnh cáo “thành viên tất cả các ủy ban thuộc Đảng” rằng họ sẽ bị trừng phạt nặng nề hay thanh trừng, nếu họ không “nắm chắc” tư tuởng chuyên chính của Mao, là nền tảng thi hành “đường lối căn bản cho tất cả mọi chính sách”.
Những người theo chủ nghĩa Mao (Mao-ít) viết nhiều bài công khai phỉ báng Chu Ân Lai, kết án Chu là “đồ phản bội”, y như Tống Giang trong truyện Thủy Hử đã phản bội chiến hữu. Thêm vào sự phỉ báng, bọn Mao-ít còn gây ra những bức hại trên thể chất Chu, trong lúc Chu đang trong cơn bệnh ngặt nghèo cuối đời, để bị đẩy đến chỗ chết sớm. Họ thuyên chuyển bác sĩ riêng của Chu đi chỗ khác, chính Vương Hồng Văn còn bắt ép Chu phải tiếp điện thoại Mao Trạch Đông, trong lúc Chu đang chữa trị tại bệnh viện. Người tín cẩn của Chu là Tổng thư ký Quốc vụ viện Châu Vinh Hâm đi đến chỗ phải tự tử vì bị bôi nhọ trước công luận. Đấy mới chỉ là một ít những hành hạ, trong lúc Chu trên giường bệnh chờ chết.
25.
Hỏi: Có bao giờ Mao tấn công Chu công khai không?
Đáp: Không. Sau khi Chu chết, ngày 8 tháng Giêng 1976, Mao tập trung chiến dịch nhắm vào người kế vị chính của Chu, là Đặng Tiểu Bình, từng bị gán cho tội “phục hưng Hữu khuynh”, “chạy theo tư bản”. Chương trình “4 Hiện đại hóa” của Chu cũng bị đánh. Cách đối xử cạn tàu ráo máng của Mao đối với Chu đã làm nổi lên sự bất mãn, tạo thành cuộc biểu tình rất lớn tại Thiên An Môn ở Bắc Kinh, ngày 5 tháng Tư, 1976. Dân chúng bùng nổ bạo lực, nổi lửa đốt xe cảnh sát và các trại lính, thành cuộc bạo loạn, là thách thức to lớn đối với Mao. Lần đầu tiên, “Tư tuởng Mao” bị gọi là “để Thiến chủ nghĩa Mác-Lênin”. Hành động xuống đường rầm rộ, mang theo bóng ma đòi dẫn tới cuộc cách mạng cần thiết để lật đổ giai cấp quan liêu, nhất là khi dân xuống đường gọi nhau, “Chúng ta nhất định không sợ máu đổ, cũng không sợ mạng mất”. Sau cách mạng Hung, Mao đã nói “cũng có lắm người đang ao ước sẽ có chuyện tương tự tại Trung Quốc.” Tháng Tư 1976, hàng ngàn, ngàn người đã bày tỏ hành động làm Mao sợ nhất – cuộc biểu tình chống chính phủ. Dù cho Mao đã dẹp biểu tình tàn nhẫn, nhiệt huyết cùng quyết tâm của họ vẫn ám ảnh Trung Quốc, y như Tuyên ngôn Cộng sản từng đón mừng “bóng ma ám ảnh Âu châu” xưa kia. Đúng là sau khi Mao nhìn thấy bóng ma này, thì anh ta chết và đi vào “lịch sử địa ngục” dành riêng cho các bạo chúa cùng các nhà độc tài.
26.
Hỏi: Cái chết của Mao có ảnh hưởng gì cho phe Mao không?
Đáp: Cuộc đời cá nhân độc tài của Mao chấm dứt một cách rất phù hợp với con người anh ta, vì một sự thanh trừng xảy ngay đến với những người trung thành nhất với anh ta, như Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên – đều cùng bị thanh toán, bởi chính người do Mao đích thân chọn lựa, Hoa Quốc Phong. Kịch bản chính trị này tương đương với cuộc thanh trừng Malenkov và Beria do Krushchev thực hiện sau khi Stalin chết. Để lượng định cuộc đời chính trị Mao Trạch Đông, có những sự kiện không thể chối cãi được, là tư tưởng Mao thừa hưởng trực tiếp từ Stalin – nào cộng tác giai cấp, cách mạng từng giai đoạn, xã hội chủ nghĩa trong một xứ, và sống chung hòa bình giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Mao tuyên truyền lý thuyết Stalin suốt đời mình, từ Cơ hội Quốc dân Đảng-Cộng sản hợp tác tới Phiêu lưu đấu tranh võ trang. Sau thất bại 1927, Mao sao chép Stalin xít xao trong cuộc thanh trừng toàn thể thế hệ Bolshevik cùng các đoàn thể Thanh niên Cộng sản trong các thập niên 1920, ‘30 và ’40 ở Nga, và cũng thành lập chính sách thờ phụng lãnh tụ cùng chuyên chính quan liêu của Stalin… để áp dụng tại Trung Quốc.
Mao rất phấn đấu để trở thành tay Staliniêng lớn nhất thế giới. Anh ta đã thành Staliniêng thứ thiệt tại Trung Quốc, bởi tính khí cùng phương pháp anh ta sử dụng, y như mẫu người hùng bên Xô viết của anh ta. Mao rắp tâm thủ tiêu chính trị – nếu không nói là cả mạng sống, cho những ai dám đặt câu hỏi về chính sách của anh ta, hoặc những ai trở thành có quyền lực trước mắt quần chúng – như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Lâm Bưu và Chu Ân Lai… Đấy là mới kể một số ít. Sự thật là Mao trở thành Tần Thủy Hoàng của thời đại mới, là Nero của Trung Quốc – Nero là người mà Trotsky đã khéo nhắc trong một câu:
“Nero, cũng thế, là sản phẩm của thời Y. Thế mà sau khi Y chết, hình tượng Y bị đập nát, tên Y bị cạo xóa mọi nơi. Sự trả thù của lịch sử ghê gớm hơn cuộc trả thù của bất cứ Tổng Bí thư Đảng [hay Chủ tịch – Bành] nào. Tôi đánh bạo nhận xét như thế để có sự an ủi.” [38]
27.
Hỏi: Thế tại sao, sau khi chết, Mao lại được ca ngợi nhiều đến thế, từ các chính trị gia tư sản đến những người Triệt để?
Đáp: Chính trị gia tư sản như Gerald Ford và Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Waldheim cất lời ca tụng, vì Mao hoàn toàn hủy bỏ cách mạng thế giới để được sống chung hòa bình với tư bản. Anh ta tố cáo Liên bang Xô viết là đế quốc xã hội, kêu gọi tư bản đánh đổ kết quả đạt được của Cách mạng tháng Mười. Thêm nữa, chính trị gia tư sản thích thú việc phản bội của Mao với chủ nghĩa xã hội, thì có khó gì mà không gọi Mao là “lãnh tụ vĩ đại”, cùng “yêu chuộng hòa bình”. Vài người Trotskyist còn nhìn chưa rõ Mao, chỉ coi Mao là “quan liêu Trung phái”, vì tuy anh ta có chính sách đi dây, dích-dắc giữa cách mạng và phản cách mạng để rồi kết cục, cũng quốc hữu hóa tài sản tư bản, cũng làm cải cách ruộng đất. Thì Stalin cũng đã làm y như thế ở Đông Âu, và chắc chắn Stalin là người Stalinít.
Người Trotskyist luôn tin rằng Stalin phản cách mạng, dù anh ta lật hệ thống tư bản ở Đông Âu, để thành lập chế độ quan liêu chuyên chính lên các nước ấy, đối nghịch với đường lối kinh tế căn bản của xã hội chủ nghĩa. Đó thành ra cái thắng, chặn đà phát triển của Đông Âu cùng cách mạng thế giới. Leon Trotsky rất có thể cũng tiên đoán tương tự về Mao tại Trung Quốc, khi ông nhìn thấy sự trở lại của tư hữu tài sản trong vùng Xô viết chiếm đóng ở Ba Lan, lúc bắt đầu Thế Chiến II:
“Điều kiện tiêu chuẩn tiên quyết của chúng ta, không phải sự chuyển biến các liên đới tư hữu từ vùng này sang vùng khác, dẫu cho chuyện ấy có quan trọng thế nào đi nữa, nhưng chính là chuyển đổi Nhận thức cùng Tổ chức của thế giới vô sản, nâng cao khả năng họ trong việc bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được, đi tới thắng lợi mới. Từ điểm đó, và chỉ từ điểm đó, lập trường quyết định, thì chính sách của Moscow, xét trên tổng thể, toàn chứa những tính chất phản cách mạng, thành trở ngại chính trên con đường cách mạng Thế giới.”[39]
———-
[1] Mao Trạch Đông, “Cuộc đảo chánh Bắc Kinh và giới nhà buôn”, Hướng Đạo, số 31-32, Tháng Bảy 1921.
[2] Hướng Đạo, tháng Bảy 11, 1923.
[3] Mao Tuyển (London, 1950, vol 1, p. 20)
[4] Hồ Kiều Mộc, tác giả 30 năm của Đảng Cộng sản tại Trung Quốc. (London, 1951) p.22. (Sinh ở Quảng Tây (1911- ), học Vật lý ở Bắc Kinh, 1933 đi Thượng Hải, thành viên của ban Tuyên huấn. Gia nhập Đảng 1937, đi Diên An, trở thành Bí thư chính trị của Mao, trách nhiệm về các cơ sở tuyên truyền, như Nhân dân Nhật báo, Đài phát thanh Bắc Kinh và Tân Hoa Xã. Thập niên 1950 tích cực trong việc chỉnh huấn các nhà văn ly khai. Được bầu vào Bộ Chính trị, 1956. Cuốn lịch sử Đảng nổi tiếng, 30 năm của Đảng Cộng sản tại Trung Quốc bị thu hồi trong Cách mạng Văn hoá. Biến khỏi chính trường sau Đại hội Trung ương Đảng kỳ 9, năm 1969. Chỉ tái xuất hiện cuối 1978. Sau được vào Trung ương trở lại, tháng Chạp 1978. Chú thích N.D)
[5] Chinese Communism and the rise of Mao, (New York, Harper & Row, 1967) pp. 73-78. (Tức là Mao ra sách lược “Lấy nông thôn bao vây thành thị”, như nhiều người nghĩ. Tức là, Mao đã biết khai thác sức mạnh nông dân, biết sử dụng sức mạnh đó làm cốt lõi – điều chỉ ở Trung Quốc… sáng chế ra. N.D)
[6] Phiên họp ngày 7 tháng Tám, 1927, là “phiên họp khẩn”, chủ đích trất chức Trần Độc Tú, đưa Cù Thu Bạch thay thế. Đại diện mới của Quốc tế Ba là Vissarion Lominadze điều hành buổi họp, được kêu bí danh là “đồng chí N”. Một đại diện khác, là Heinz Neuman tổ chức nổi dậy thành phố Quảng Đông, chỉ đến Trung Quốc tháng Mười, không có mặt trong phiên họp. (chú thích N.D)
[7] Theses on the Revolution Movement in the Colonies and Semi-colonies, International Press Correspondence, vol. 8, n.88, Dec 12, 1928, p. 1670.
[8] Như trên.
[9] Edgar Snow, Red Star Over China (New York: Garden city Pub. 1939), p. 174.
[10] Con số ước tính cuả Hồ Kiều Mục, sử liệu chính thức của Đảng trước Cách mạng Văn hóa, 30 năm của Đảng Cộng sản tại Trung Quốc, tr. 40.
[11] “The CCP’s Public statement on KMT-CCP Co-operation”, A Documentary History of Chinese Communism, Conrad Brant, Benjamin Schawartz, and John K. Fairbank (Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1952), p. 246. Tài liệu này cũng được nhắc đến với ghi chú là ngày 22 tháng Chín 22,1937, ngày được loan báo chính thức trên báo chí do Quốc dân Đảng phát hành. Bản văn được thảo ngày 4 tháng Bảy, chính thức được đại diện Ban Trung ương Đảng Cộng sản chuyển tay đến ban lãnh đạo Quốc dân Đảng ngày 15 tháng Bảy 1937.
[12] Mao Tuyển, Anh ngữ, vol 2, p.p 37-38.
[13] Như trên.
[14] Lun Hsin Chieh-tuan (Về tân giai đoạn), (Diên An: Chỉnh Phong, 1939). Đây là báo cáo của Mao trong Phiên họp mở rộng lần thứ 6 của Đại hội Sáu Trung ương Đảng, tháng Mười 1938. Mao cho ấn hành chữ in năm 1939, nhưng sau ngưng việc phát hành (chỉ một ít trích dẫn được in lại trong Mao Tuyển, bài “Vai trò của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong chiến tranh Quốc gia”).
[15] Về Tân Dân Chủ, tháng Giêng, 1940, Mao Tuyển, vol 2. p.353.
[16] Như trên.
[17] “Nhiệm vụ Đảng Cộng sản trong phong trào kháng Nhật”, tháng Năm, 1937, Mao Tuyển, vol. 1, p.264.
[18] “Stalin, Bạn của Nhân dân Trung Quốc”, ngày 20 tháng Chạp 1939,Selected Works (Peking: Foreign Languages, 1967) vol. 2, p. 335.
[19] Như trên.
[20] “Giải đáp vài câu hỏi về lịch sử đảng ta”, Mao Tuyển, vol. 4, pp. 171-218.
[21] Hiến chương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng Sáu, 1945, sách của Brandt, A documentary of Chinese Communist, p. 422.
[22] Kế hoạch Marshall, soạn 1947, áp dụng 1948. Kế hoạch chuẩn chi 12 tỉ Mỹ kim tái thiết Âu châu, làm bức tường chắn Cộng sản. Chấm dứt 1952.
[23] Ghi chú trong biên bản Hội nghị tối cao Nhà nước, ngày 12, tháng Mười 1957.
[24] Tsui wei-ta ti Yu-i (Đại Hữu Nghị), Bắc Kinh, 1957, Anh ngữ, của Schram, “Political Thought of Mao Tse-tung”, p. 265.
[25] Đặng Tiểu Bình, “Báo cáo về việc duyệt lại Hiến chương Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Đại hội 8 của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Anh ngữ, (Peking, Foreign Languages Press, 1956) vol. 1. Document, p. 192
[26] Mao Trạch Đông, “Diễn văn khai mạc tại Đại hội 8 của Đảng Cộng Sản toàn Trung Quốc” sđd. p.10. (Tài liệu) Nhấn mạnh trong trích dẫn.
[27] Để chỉnh những mâu thuẫn trong quần chúng (Peking, Foreign Languages Press, 1960), p. 13.
[28] “Diễn văn chào mừng đại biểu Đảng Lanka Sama Samaja” của Tích Lan,Nhân dân Nhật báo, 19 tháng Năm, 1957.
[29] Quang minh Nhật báo.
[30] Chi tiết trong bài “Phê bình về công xã nhân dân” của Bành Thuật Chi,The Chinese Communist Party in Power – Pathfinder, p.p 171- 223.
[31] Ch’en Pi-lan, “The New Developments in the Chinese situation”, Inter. Info. Bulletin, May 1969, p. 9.
[32] G. Novak – J. Hansen, Behind China’s Great Cultural Rev. (New York, Patfinder Press, 1967) p.p 47-48, 52.
[33] Bắc Kinh tập san, tháng Tư 30, 1969, p. 33.
[34] Như trên.
[35] Ghi chú từ nguyệt san của nhóm Trotskyist Hong Kong, Tập san tháng Mười, tháng Tám, 1974.
[36] Bắc Kinh tập san, tháng Chín, ngày 7, 1973, p. 20.
[37] Ulanfu (1906 – ): Người Mông Cổ, sinh ở Nội Mông. Ulanfu là chính trị gia cao cấp nhất không phải người Trung Quốc được vào Chính trị Bộ. Gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc do Lý Đại Chiêu tuyển mộ, 1923. Bị thanh trừng 1967, vì chống lại lực lượng Hồng Vệ Binh đánh phá tại Mông Cổ. Được phục hồi danh dự (rửa tiếng) 1973. Sau khi Mao chết, trở lại chức vụ cũ, 1977. (N.D).
[38] Leon Trotsky, Stalin (London: Panther Books, 1969) vol. 2, p. 202.
[39] Leon Trotsky, In Defense of Marxism (New York: Pathfinder Press, 1973), p. 19.
Nguồn: Bản tiếng Việt © 2010 Vũ Huy Quang & talawas
http://nghiencuuquocte.org