1. Hậu quả của cách mạng Văn hóa sau 50 năm
Evan Osnos
Biên dịch: Nguyễn Thùy Linh
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Nghiencuuquocte.org: Evan Osnos là nhà báo người Mỹ. Ông tốt nghiệp ngành Khoa học Chính trị tại Đại học Harvard và trở thành cây viết của tạp chí The New Yorker từ năm 2008. Cuốn Age of Ambition: Chasing Fortune, Truth, and Faith in the New China đã mang lại cho ông Giải thưởng Sách quốc gia Mỹ cho thể loại Phi hư cấu năm 2014.
Evan Osnos, “The Cost of the Cultural Revolution, Fifty Years Later”, The New Yorker, 06/05/2016.
Năm 1979, ba năm sau khi cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản kết thúc, lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã có chuyến công du đến Mỹ. Trong một buổi quốc yến, ông ngồi cạnh nữ diễn viên Shirley MacLaine, người đã nói với vị lãnh tụ rằng bản thân bà vô cùng ấn tượng với những gì mắt thấy tai nghe trong chuyến du lịch đến quốc gia này vài năm về trước. Bà nhắc lại cuộc trò chuyện với một nhà khoa học. Ông bày tỏ lòng biết ơn Chủ tịch Mao Trạch Đông vì đã điều chuyển mình khỏi trường đại học về lao động tại một nông trường như Mao đã làm với hàng triệu trí thức khác. Đặng Tiểu Bình đáp lại rằng: “Ông ta nói dối đấy”.
Ngày 16 tháng 5 tới đánh dấu kỉ niệm 50 năm ngày Cách mạng Văn hóa chính thức bắt đầu khi Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng cuộc cách mạng nhằm mục đích thanh trừng các thành phần phá hoại và phản động, “tìm ra các đại diện của giai cấp tư sản đang ẩn nấp trong nội bộ Đảng, Chính phủ, quân đội, và các lãnh địa văn hóa khác”, rồi phơi bày chúng dưới “kính viễn vọng và kính hiển vi của Tư tưởng Mao Trạch Đông”. Đến khi Cách mạng Văn hóa chấm dứt, nó đã để lại rất nhiều hậu quả: khoảng 200 triệu người sống tại các vùng nông thôn bị suy dinh dưỡng kinh niên do nền kinh tế kiệt quệ; có tới hai mươi triệu người bị điều chuyển về các vùng nông thôn; và khoảng 1,5 triệu người đã bị hành quyết hoặc bức tử. Những lời buộc tội thường dựa trên lí lẽ rằng đương sự đã bị vẩn đục bởi các tư tưởng của ngoại bang, bất kể có căn cứ hay không; những thư viện lưu trữ các cuốn sách ngoại văn đã bị phá hủy, và Đại sứ quán Anh thì bị thiêu cháy. Tập Trọng Huân – cha đẻ của Chủ tịch đương nhiệm của Trung Quốc Tập Cận Bình – cũng đã bị lôi ra luận tội trước đám đông mà một trong các tội của ông là đã dám dùng ống nhòm nhìn sang Tây Đức trong một chuyến công du đến Đông Đức.
Trong quá trình điều tra các hậu quả gây ra bởi Cách mạng Văn hóa, điều khó ước lượng nhất không thể được lượng hóa một cách chính xác đến vậy: Cuộc Cách mạng Văn hóa đã ảnh hưởng đến tinh thần của người Trung Quốc như thế nào? Đây vẫn là một vấn đề chưa thể hoặc ít nhất là không dễ để nêu ra tranh luận công khai. Đảng Cộng sản vẫn rất nghiêm khắc hạn chế bất kì cuộc thảo luận nào liên quan đến giai đoạn này với nỗi lo rằng những điều đó sẽ châm ngòi cho một cuộc xét lại toàn diện di sản của Mao cũng như vai trò của Đảng Cộng sản trong lịch sử Trung Quốc. Trong tháng Ba vừa qua, nhằm đón đầu các động thái có thể diễn ra trong ngày lễ kỉ niệm, Hoàn cầu Thời báo, một tờ báo của Đảng Cộng sản đã đăng một bài xã luận nhằm cảnh cáo các “nhóm nhỏ lẻ” nhân cơ hội này tạo ra “một sự hiểu lầm hoàn toàn rối loạn về cuộc cách mạng văn hóa”. Bài xã luận nhắc nhở người dân rằng: “mọi cuộc thảo luận đều tuyệt đối không nên xa rời khỏi các quyết sách chính trị và chủ trương của Đảng”.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số người đã và đang cố gắng lật lại lịch sử và xét lại vai trò của họ trong thời kì ấy. Vào tháng Một năm 2014, các học sinh của một trường Trung học Thực nghiệm thuộc Đại học Sư phạm Bắc Kinh đã chính thức ngỏ lời xin lỗi tới các giáo viên của mình vì những gì họ đã gây ra trong làn sóng bạo lực vào tháng 8 năm 1966 khi chính Hiệu phó của trường là cô Biện Trọng Vân (Bian Zhongyun) bị các học sinh của mình đánh đập đến chết. Nhưng những cử chỉ như vậy quả là hiếm. Thường những người ngoài cuộc khó hiểu được vì sao những người còn sống sót sau Cách mạng Văn hóa lại thường cảm thấy không muốn nhắc lại những trải nghiệm vốn đã thay đổi sâu sắc cuộc đời họ đến vậy. Có một lời giải thích là các sự kiện diễn ra trong thời kỳ ấy hỗn mang đến mức nhiều người cảm thấy mang trong mình gánh nặng kép khi vừa là kẻ tội đồ, vừa là nạn nhân. Trước đó, Bao Pu, một tác giả trưởng thành tại Bắc Kinh nhưng hiện sống tại Hong Kong, nói “Mọi người đều cảm thấy mình là nạn nhân. Nếu nhìn vào họ, bạn sẽ thắc mắc rằng “Mày đã làm cái quái gì vậy? Tất cả là lỗi của người khác? Mày không thể đổ hết mọi tội lỗi cho Mao Trạch Đông được. Đúng, ông ta có trách nhiệm, ông ta là kẻ chủ mưu, nhưng để tàn phá toàn bộ đất nước đến mức như vậy – thì cả một thế hệ phải nhìn nhận lại.”
Đất nước Trung Quốc ngày nay đang ở giữa một cơn sốt chính trị được biểu hiện dưới hình thái của những động thái quyết liệt chống tham nhũng và việc bóp nghẹt những luồng tư tưởng trái chiều. Nhưng không vì thế mà có thể kết luận một cuộc Cách mạng Văn hóa thứ hai đang chuẩn bị được tái diễn. Mặc dù có hàng ngàn người đã bị bắt giữ, nhưng phạm vi của những gì đang diễn ra lại bé hơn nhiều, và những so sánh quá hời hợt tiềm ẩn nguy cơ khiến mức độ tàn khốc của Cách mạng Văn hóa không được nhận thức một cách trọn vẹn. Ngoài ra, còn có những khác biệt về mặt chiến thuật như: thay vì sử dụng quần chúng nhân dân để tấn công các đối thủ trong nội bộ Đảng như Mao Trạch Đông đã từng kêu gọi “pháo đả tư lệnh bộ” (oanh tạc các tổng hành dinh – NBT), Tập Cận Bình sử dụng chiến lược thắt chặt sự kiểm soát nhằm củng cố nội bộ Đảng và quyền lực của ông ta. Ông ta đã tái cơ cấu lại bộ máy lãnh đạo để đảm bảo quyền lực cao nhất nằm trong tay mình, bóp chết tự do tư tưởng và truyền thông, rồi, lần đầu tiên, đã truy lùng những kẻ phê phán chính phủ kể cả khi họ đang sống ngoài Trung Hoa đại lục. Vài tháng gần đây, các cơ quan an ninh đã bắt giữ các đối tượng này tại Thái Lan, Myanmar và Hong Kong.
Dù vậy vẫn có những điểm tương đồng sâu sắc hơn giữa giai đoạn hiện nay với giai đoạn Tập mới trưởng thành thành một thanh niên thời Cách mạng Văn hóa. Những tương đồng này cho thấy một số đặc điểm của hệ thống Lê-nin-nít dười thời Mao Trạch Đông đã tồn tại dai dẳng đến mức nào. Tập, với những động thái liên tiếp nhằm truy lùng và tiêu trừ các kẻ thù của mình, đã gợi lại câu hỏi mà Lênin coi là quan trọng nhất: “Kto, Kovo?” -“Ai, Ai?” Nói cách khác, trong mọi sự tương tác, vấn đề mấu chốt là phe nào thắng còn phe nào bại. Mao Trạch Đông và thế hệ dưới thời của ông – những người lớn lên trong thời kì kham khổ, không thể nào chấp nhận việc chia sẻ quyền lực hay chủ nghĩa đa nguyên; ông ta kêu gọi “vạch ra chiến tuyến rõ ràng giữa chúng ta và kẻ thù”. “Ai là bạn? Ai là thù?”. Điều này, theo lời Mao Trạch Đông là “câu hỏi quan trọng đầu tiên cần đặt ra với bất kì cuộc cách mạng nào.” Trên nhiều phương diện, Trung Hoa ngày này khác rất nhiều so với thời Mao Trạch Đông, nhưng riêng đối với câu hỏi trên, Tập Cận Bình đã có rất nhiều điều giống với người tiền nhiệm của mình.
Quan niệm một mất một còn đó đang ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia khác, bao gồm Mỹ. Ta dễ dàng bật cười khi đọc tin rằng tháng trước để kỉ niệm “Ngày Giáo dục An ninh Quốc phòng”, chính phủ Trung Quốc đã cho phát hành các tấm áp phích cảnh báo các nữ nhân viên làm việc trong cơ quan hành chính nhà nước về rủi ro khi hẹn hò với người nước ngoài với lí do là những người nước ngoài đó có thể là gián điệp. Tấm áp phích hoạt hình có tên gọi “Tình yêu nguy hiểm” vẽ lên câu chuyện về một tình yêu không có hậu giữa cô Tiểu Lí – một công chức đem lòng yêu anh David – một học giả nước ngoài có mái tóc đỏ để rồi kết cục là đưa cho anh ta các tài liệu mật nội bộ.
Ngoài ra còn các tin đáng quan ngại khác như: hồi tháng Tư, sau nhiều năm các lãnh đạo cấp cao đưa ra lời cảnh báo rằng các tổ chức phi chính phủ có khả năng đang tìm cách đầu độc xã hội Trung Hoa bằng các luận điểm phản động của Tây phương, Trung Quốc đã thông qua một đạo luật cho phép siết chặt quản lý các hoạt động của họ. Đạo luật này trao thêm nhiều quyền hạn cho cảnh sát nước này nhằm giám sát các quỹ, hội từ thiện, các tổ chức vận động chính sách dù nhiều trong số đó đã hoạt động tại quốc gia này nhiều thập niên qua. Nhiều tổ chức phi chính phủ đã cảnh báo rằng nếu đạo luật này được thông qua sẽ khiến họ không thể hoạt động và họ hiện đang xem xét liệu có nên duy trì sự hiện diện dưới các quy định mới này hay không.
Năm mươi năm sau Cách mạng Văn hóa, khi Trung Quốc một lần nữa bị thôi thúc phải tự cách ly khỏi các ảnh hưởng ngoại bang, ta hoàn toàn có thể cho rằng các hậu quả có thể nghiêm trọng hơn thực tế. Vào mùa thu năm nay, Nhà xuất bản Đại học Harvard sẽ xuất bản một cuốn sách lịch sử mới có nhan đề Unlikely Partners: Chinese Reformers, Western Economists, and the Making of Global China [Các đối tác bất thường: Các nhà Cải cách Trung Quốc, các nhà Kinh tế phương Tây và việc tạo dựng một Trung Quốc toàn cầu hóa] viết bởi Julian Gewirtz, một nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Oxford. Cuốn sách ghi lại câu chuyện ít người biết đến về việc các trí thức và lãnh đạo Trung Quốc, khi nhận thấy nguy cơ suy sụp của nền kinh tế nước nhà vào cuối thời kì Cách mạng Văn hóa, đã tìm đến sự trợ giúp từ các nhà kinh tế học nước ngoài nhằm tái thiết đất nước.
Giai đoạn từ 1976 đến 1993 diễn ra một loạt các cuộc trao đổi, hội nghị và hợp tác, khi mà các trí thức phương Tây không phải tìm cách thay đổi Trung Quốc mà thay vào đó là giúp đỡ họ để quốc gia này tự thay đổi. Và họ có những đóng góp không thể thiếu để giúp Trung Quốc vươn lên thành một cường quốc kinh tế toàn cầu như ngày hôm nay. Gewirtz nói với tôi rằng:“Các nhà cầm quyền Trung Quốc đã phụ trách quá trình này – họ đã tìm kiếm nguồn ý tưởng phương Tây nhưng không áp dụng chúng một cách bừa bãi. Tuy vậy họ đã cởi mở đón nhận luồng ảnh hưởng từ phương Tây để rồi thực sự đã bị ảnh hưởng sâu sắc”.“Câu chuyện lịch sử này không nên bị quên lãng. Và vào thời điểm mà cả nền kinh tế lẫn xã hội Trung Quốc có khả năng rơi vào trạng thái bấp bênh, thay vì cô lập tri thức và nghi ngờ thế giới như những gì có vẻ đang diễn ra, việc quay lại thái độ cởi mở và xây dựng quan hệ đối tác với phương Tây là cách tốt nhất để tránh bị rơi vào một thảm họa tồi tệ khác.”
2. Cách mạng Văn hóa và món nợ sự thật lịch sử
Liu Xiaobo
Biên dịch: Ninh Thị Thanh Hà
Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Nghiencuuquocte.org: Liu Xiaobo (Lưu Hiểu Ba) là nhà phê bình văn học và chính trị, đồng thời là Chủ tịch của Trung tâm Văn bút quốc tế Trung Quốc (PEN).
Liu Xiaobo, “The Cultural Revolution at 40”, Project Syndicate, 26/05/2006.
Hình: Một vụ xét xử thời Cách mạng văn hóa. Nguồn: Li Zhensheng và BBC.
Cuộc Đại Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng đến tháng này (5/2006) là tròn 40 năm, nhưng dù cho đã qua 20 năm tự do hóa kinh tế, vết thương của nó vẫn còn là chủ đề cấm kị. Nhà cầm quyền ngày nay vẫn chưa dám đối mặt với quá khứ cũng như trách nhiệm đạo đức của mình. Do đó, ba mươi năm sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc, cuộc tự đánh giá cần thiết ở cấp độ quốc gia về sự kiện này vẫn chưa bắt đầu.
Tất nhiên, Đảng Cộng sản đã coi cuộc Cách mạng Văn hóa là một “thảm họa”, một đánh giá được ủng hộ bởi quan điểm chính thống. Nhưng chính quyền Trung Quốc chỉ cho phép thảo luận về cuộc Cách mạng Văn hóa trong khuôn khổ chính thống này, đàn áp mọi sự phê phán không chính thức khác. Các nhận định chính thức nói chung, và việc sử dụng Lâm Bưu (từng là Phó Chủ tịch và là người được chọn kế vị Mao Trạch Đông, nhưng sau này đã nổi dậy chống lại ông) và “Tứ nhân bang” như kẻ chịu trách nhiệm chính, đang che lấp đi lỗi lầm của Mao và Đảng, cũng như các khiếm khuyết cố hữu của hệ thống.
Nhân vật chính của Cách mạng Văn hóa, những người đã thực hiện quá nhiều hành động bạo lực một cách thiếu suy xét, vì thế đã giữ im lặng hoặc đưa ra những lời bào chữa không trung thực. Hầu hết các nạn nhân cũng sử dụng các lý do khác nhau để kìm nén kí ức của họ. Cả những người đi bức hại và bị bức hại đều chỉ sẵn sàng nói về việc họ đều là những nạn nhân.
Ví như Phong trào Hồng vệ binh cuồng tín đã nuốt chửng hầu hết thanh thiếu niên ở độ tuổi tốt đẹp nhất của đời họ. Mặc dù vậy, một vài cựu Hồng vệ binh vẫn giữ im lặng, cho rằng, “việc này không đáng để nhớ đến”. Trong những ngày đầu của Cách mạng Văn hóa, Phong trào Liên minh (Allied Movement) tại Bắc Kinh, được hình thành bởi con của các cán bộ cao cấp trong Đảng, đã thực hiện các hành vi bạo lực khủng bố, hoạt động với khẩu hiệu, “Nếu cha là anh hùng con sẽ là hảo hán, nếu cha là phản động con sẽ là trứng thối.”
Nhưng các hồi ký của đội quân tiên phong nổi loạn về những năm tháng đó chỉ nêu rõ sự đam mê và chủ nghĩa lý tưởng thuần khiết của tuổi trẻ, hay đau khổ của bản thân và của cha mẹ họ. Họ không hề đề cập đến các cuộc tấn công dã man, phá hoại và cướp bóc hoặc những phiên tòa xét xử không luật lệ của mình. Những người từng tham gia cuộc cách mạng từ chối thảo luận về sự kiêu ngạo kiểu “Đỏ bẩm sinh” của họ hoặc đề cập đến việc họ đã nổi loạn vì muốn có quyền lực. Tồi tệ hơn, họ không thể hiện sự hối hận gì đối với những nạn nhân của mình.
Cách mạng Văn hóa đã càn quét khắp Trung Quốc. Có quá nhiều người phải chịu đựng đến nỗi khó mà thống kê được chính xác con số nạn nhân. Điều này càng đúng hơn đối với những kẻ tham gia bức hại. Tuy nhiên cũng có một số ít người sám hối và xin lỗi. Sự khủng bố của Hồng vệ binh, những cuộc đấu tranh vũ trang giữa các bên nổi loạn, các đội hình được thiết lập để “thanh lọc” các giai cấp xã hội, và tất cả các vụ thảm sát đẫm máu đơn giản đã bị để cho lãng quên trong ký ức của người Trung Quốc. Đúng là lệnh cấm chính thức đang ngăn chặn việc nhìn nhận lại sự kiện này, nhưng chính sự yếu đuối của con người và lợi ích ích kỷ của những kẻ tham vọng sự nghiệp trong số những người tham gia Cách mạng Văn hóa đã làm bệ đỡ cho những lệnh cấm đó.
Hãy xem trường hợp của Diệp Hướng Chân (Ye Xiangzhen), con gái Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người từng thảo luận các trải nghiệm thời Cách mạng Văn hóa của gia đình mình trên truyền hình. Trong giai đoạn đầu của Cách mạng Văn hóa, bà đóng vai trò kép: con gái của một nguyên soái Trung Quốc và thủ lĩnh phong trào nổi loạn tại Trường Đại học Nghệ thuật ở thủ đô. Bà phàn nàn rằng bà đã “quá nổi tiếng”, “quá tích cực”, và “quá căng thẳng” vào thời điểm đó, và bà kể lại những chi tiết cụ thể về cách mà vợ của Mao là Giang Thanh đã bức hại gia đình ông Diệp và những đứa con họ Diệp đã phải vào tù như thế nào. Tuy nhiên bà chỉ có 58 từ nói về vai trò thủ lĩnh Hồng vệ binh của mình – không có chi tiết hay lời giải thích về việc bà gia nhập như thế nào, các hoạt động mà bà tham gia, hay bà có liên quan đến các “tra tấn thể xác” hay bức hại những người khác hay không.
Việc kêu gọi những người sử dụng bạo lực và bức hại người khác xem xét bản thân và ăn năn không phải nhằm mục đích thực thi nghĩa vụ pháp lý và phán xét đạo đức. Nhưng ít nhất nó sẽ khôi phục sự thật về Đại Cách mạng Văn hóa, tổng kết các bài học kinh nghiệm để tránh lặp lại sai lầm. Tích cực hơn, việc phục hồi sự thật sẽ chống lại bản năng truyền thống của Trung Quốc là đổ nguyên nhân thảm họa cho các thế lực bên ngoài, và có thể dẫn tới sự khai sáng tinh thần cho một dân tộc đang đấu tranh tìm kiếm giá trị trong một đất nước Trung Quốc mới đang nổi lên.
Tất nhiên, người có trách nhiệm lớn nhất trong thảm họa Cách mạng Văn hóa là Mao, nhưng ông vẫn là “vị cứu tinh” của Trung Quốc. Những đứa con của các cán bộ cao cấp dưới thời Mao, những người hưởng ánh hào quang lớn nhất trong Cách mạng Văn hóa, giờ đây lại là những người hưởng lợi nhiều nhất từ cải cách kinh tế ngày nay.
Nhưng sự im lặng kéo dài của những người từng phạm phải sai trái này chỉ mang đến thiệt hại cho toàn thể xã hội, với việc cuộc sống của người Trung Quốc bị bóp méo bởi sức nặng của những dối trá và sự lảng tránh. Vì các thế hệ nối tiếp nhau sống mà phủ nhận thực tế, những lời nói dối sẽ làm lệch lạc tất cả những gì họ chạm vào. Người Trung Quốc sẽ không biết đến sự trung thực cá nhân hay sự thật lịch sử, và họ sẽ lại liên tục lạm dụng, bỏ qua hoặc từ bỏ các cơ hội lịch sử
Một khi cuộc Cách mạng Văn hóa vẫn chưa được giải thích rõ ràng, nó sẽ không bao giờ kết thúc. Nếu sự thật lịch sử không được khôi phục, người ta sẽ không thu được bài học nào cả. Không của cải vật chất nào có thể khiến Trung Quốc trở thành một xã hội lành mạnh nếu thiếu đi sự phán xét cần thiết này đối với quá khứ.
3. Trung Quốc, Cách mạng Văn hóa và Chiến tranh Việt Nam
Chen Jian
Nhân ngày 50 năm Mao Trạch Đông phát động Cách mạng Văn hóa 16/05/1966, BBC Tiếng Việt giới thiệu lại tư liệu lịch sử với đánh giá của một tác giả Trung Quốc về quan hệ Việt – Trung giai đoạn này.
Tựa đề bài viết do nghiencuuquocte.org đặt lại để sát hơn với bài nghiên cứu gốc của tác giả Chen Jian "China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69" đã đăng trên The China Quarterly, No. 142 (Jun., 1995, Cambridge University Press).
Hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh tại Bắc Kinh tháng 6/1955
Bài ‘China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69’ (Sự can dự của Trung Quốc vào Chiến tranh Việt Nam, 1964-69) giải thích vì sao quan hệ Bắc Kinh và Hà Nội lộ ra dấu hiệu rạn nứt khi Trung Quốc biến động nội bộ và cuộc chiến của Hà Nội tại phía Nam tăng độ nóng.
Theo tác giả Chen Jian, quan hệ Trung – Việt khi đó chịu tác động của ba vấn đề: chủ trương chiến tranh ở miền Nam của Đảng Lao động Việt Nam; chính sách ‘xuất khẩu cách mạng’ của Mao, và đổ vỡ ý thức hệ Trung – Xô.
Nhưng quan hệ cá nhân của các lãnh tụ Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai không chỉ khiến Trung Quốc thay đổi quan điểm từ chỗ không mặn mà với cuộc chiến mà Hà Nội muốn tiến hành ở miền Nam năm 1958, đến chỗ ủng hộ hết mức về quân sự, kinh tế đầu thập niên 1960.
Các quan hệ này cũng làm chậm lại quá trình rạn nứt Trung – Việt mà như tác giả nhận định, có nguyên nhân sâu xa từ tâm lý nước lớn và cách nghĩ ‘bề trên’ truyền thống kiểu đế chế đối với Việt Nam của ban lãnh đạo Trung Quốc, đứng đầu là Mao, trong khi các biểu hiện cách mạng và ý thức hệ chỉ là vỏ bọc.
Nhập Việt ồ ạt
“ Trong cuộc gặp của Hồ Chí Minh với Mao Trạch Đông ở Trường Sa, Hồ Nam ngày 16/05/1965, ông Hồ xin Mao viện trợ xây 12 con đường ở Bắc Việt và được Mao đồng ý. Sau khi có lệnh của Mao, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc nhanh chóng lên kế hoạch đưa 100 nghìn công binh sang xây đường cho Bắc Việt…
Ngay tháng 6/1965, đã có bảy sư đoàn công binh Trung Quốc bắt đầu lần lượt vào Việt Nam.
Sư đoàn CPVEF (quân tình nguyện) đầu tiên gồm 6 trung đoàn công binh và 10 tiểu đoàn phòng không…Quân số của sư đoàn này lên đến đỉnh cao là 32700 quân, ở Việt Nam từ 23/06/1965 đến cuối 1969…
Sư đoàn thứ 2 gồm ba trung đoàn công binh, một thủy lợi, một vận tải biển, một vận tải…để xây dựng tuyến phòng thủ ven biển, các trạm thông tin liên lạc trên 15 đảo ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ và 8 cứ điểm ven bờ…
Sư đoàn thứ 3 gồm toàn bộ ba trung đoàn công binh cho không quân, chủ yếu để xây sân bay Yên Bái…
Sư đoàn thứ 4, 5 và 6 chuyên xây cầu và các tuyến xa lộ nối Quảng Châu với Cao Bằng, Thái Nguyên và Hà Nội. Họ cũng xây đường nối Côn Minh với Yên Bái và các tuyến đường dọc biên giới Việt Trung. Tổng cộng cho đến tháng 10/1968, họ đã xây 1206 km đường, 395 cầu…
Sư đoàn thứ 7 vào thay sư đoàn 2, đến Việt Nam tháng 12/1966, gồm các trung đoàn công binh và bảy tiểu đoàn phòng không.
“Tháng 7/1965, Trung – Việt đạt thỏa thuận tăng cường quân Trung Quốc nhập Việt để lo công tác phòng không.
Ngày 9 tháng 8/1965, cao xạ Trung Quốc thuộc sư đoàn 61, đến đóng tại Yên Bái mới 4 ngày trước, đã bắn hạ máy bay Mỹ đầu tiên, một chiếc F-4, theo các tài liệu của phía Trung Quốc.
Ngày 23/08, sư đoàn 63 bảo vệ Kép lại bắn hạ một phi cơ Mỹ và làm hư hại một chiếc khác.
Nhìn chung, từ tháng 8/1965 đến tháng 3/1969, có tổng số 16 sư đoàn, gồm 63 trung đoàn quân Trung Quốc thuộc binh chủng phòng không (150 nghìn quân) tham chiến tại Việt Nam.
Phía TQ nói họ bắn rơi 1707 phi cơ của Không lực Hoa Kỳ trên bầu trời Bắc Việt Nam
Áp dụng chiến thuật từ Cuộc chiến Triều Tiên, bộ tư lệnh Trung Quốc cho luân chuyển quân tại Việt Nam, mỗi đơn vị thường ở 6 tháng rồi được thay.
Phía Trung Quốc nêu ra các con số nói họ đã tham chiến 2154 trận và bắn rơi 1707 phi cơ Mỹ, làm hư hại 1608 chiếc.”
Ưu tiên khác nhau
Nhưng quan hệ Trung – Việt bắt đầu ngả sang hướng khác, từ Cách mạng Văn hóa.
Tác giả Chen Jian cho rằng lý do chính là Hà Nội và Bắc Kinh “có những tiêu chí khác nhau thúc đẩy chính sách của họ”.
“Chiến lược của phía Việt Nam là làm sao thống nhất đất nước bằng cách thắng cuộc chiến, còn định hướng của Trung Quốc là ý tưởng của Mao muốn dùng cuộc chiến tại Việt Nam để thúc đẩy ‘cách mạng liên tục’ ra thế giới.
Quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow xấu đi cùng cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Quốc vốn cũng làm nổ ra căng thẳng và xung đột giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
Từ giữa thập niên 1960, Bắc Kinh cứ ngỡ rằng Đảng Lao động Việt Nam ở cùng phe họ chống lại “chủ nghĩa xét lại Xô Viết”. Nhưng quan hệ Hà Nội và Moscow lại thêm phần thắt chặt cùng tiến bộ cuộc chiến [ở Nam Việt Nam]. Sau khi Khrushchev bị các đồng chí của ông ta loại ra thì Moscow tăng đáng kể viện trợ cho Bắc Việt, đồng thời kêu gọi các nước xã hội chủ nghĩa chọn quan điểm thống nhất ủng hộ Bắc Việt Nam.”
“Ngày 11/02/1965, Thủ tướng A.N. Kosygin thăm Hà Nội và có dừng lại ở Bắc Kinh trên đường đi. Ông hội kiến cả Mao và Chu Ân Lai để gợi ý rằng Liên Xô cùng Trung Quốc nên ngưng cuộc khẩu chiến để có thể có các bước đi cụ thể giúp cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Mao bác bỏ ý tưởng của Kosygin ngay và còn nói tranh luận của ông với người Liên Xô có thể kéo dài thêm 900 năm nữa. Hà Nội thì từ khi ấy đã tỏ thái độ im lặng không công kích chủ nghĩa xét lại.”
‘Tổ quốc thứ hai’
Ông Lê Duẩn (bìa phải) đã gọi Liên Xô là "Tổ quốc thứ hai"
“Tháng 3/1966, Lê Duẩn dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam dự Đại hội 23 Đảng Cộng sản Liên Xô ở Moscow. Ông tuyên bố Liên Xô “là tổ quốc thứ hai”, khiến lãnh đạo Bắc Kinh bị choáng và hết sức tức giận (nguyên văn: ‘angrily shocked’).
Tháng 7/1966, một sư đoàn công binh Trung Quốc rút về nước dù phía Việt Nam yêu cầu họ ở lại.”
Đầu 1966 cũng đã có sự kiện cho thấy thái độ bực bội của Trung Quốc với Hà Nội. Chiếc tàu Hồng Kỳ của Trung Quốc chở viện trợ cho Việt Nam bị chặn lại gần Hải Phòng để cho một tàu Liên Xô, cũng chở viện trợ nhưng đến sau, được vào cảng trước. Vì lý do phải chờ, tàu Hồng Kỳ bị trúng bom Mỹ và bị hư hại.
Vào tháng 4/1966, khi gặp Chu Ân Lai, Lê Duẩn mới biết đó là câu hỏi đầu tiên Chu nêu ra. Chu kiên quyết đòi Lê Duẩn giải thích vì sao tàu Liên Xô được ưu tiên còn tàu Trung Quốc bị đối xử không công bằng. Theo nguồn Trung Quốc, ông Duẩn phải xấu hổ hứa rằng chuyện như thế sẽ không bao giờ xảy ra nữa.”
Với Liên Xô và Mỹ
“Tuy thế, đến năm 1968, Bắc Kinh cảm thấy chuyện Hà Nội ngả về Moscow đã quá rõ. Tháng 4/1968, khi một đơn vị Trung Quốc đóng ở Điện Biên Phủ có xung khắc với một nhóm sỹ quan Liên Xô tại đó, các quân nhân Trung Quốc đã tạm giữ người Liên Xô, và dùng cách thức đấu tố kiểu Cách mạng Văn hóa để tổ chức một cuộc lên án họ là “bọn xét lại Liên Xô”. Phía Việt Nam ngay lập tức đã phản đối và cho rằng phía Trung Quốc đã ‘xâm phạm chủ quyền Việt Nam’.
Từ 1967, câu hỏi chủ chốt trong quan hệ Bắc Kinh – Hà Nội xoay quanh việc có hội đàm với Hoa Kỳ hay không:
“Kể từ khi Hà Nội bày tỏ sự quan tâmđến cuộc đàm phán với Hoa Kỳ, Bắc Kinh đã nêu ra phản đối mạnh mẽ. Trong những lần trao đổi với lãnh đạo Hà Nội vào cuối năm 1967 và đầu năm 1968, các lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc đều tư vấn để Hà Nội duy trì đường lối quân sự. Khi Phạm Văn Đồng thăm Bắc Kinh vào tháng 4/1968, Mao và lãnh đạo Trung Quốc nhấn mạnh với ông ta nhiều lần rằng ‘điều không đạt được ở chiến trường thì cũng sẽ không đạt được ở bàn đàm phán’.
Nhưng Bắc Kinh cũng hiểu rằng ảnh hưởng của họ lên các chính sách của Hà Nội nay đã quá hạn hẹp và Hà Nội sẽ đi con đường riêng. Chu Ân Lai cũng nói với Xuân Thủy, trưởng phái đoàn đàm phán của Việt Nam vào tháng 5 rằng ‘hội đàm với Hoa Kỳ là quá sớm, quá vội vàng’. Trung Quốc giữ vẻ im lặng để che dấu bực bội về các tiếp xúc Hà Nội với Washington đầu năm 1968. Cùng lúc, các đơn vị công binh và cao xạ Trung Quốc rút dần về nước.”
Thái độ nước lớn
Trung Quốc biến động mạnh thời Cách mạng Văn hóa
Nguyên nhân chính cho cuộc rạn nứt Việt – Trung, theo Chen Jian, đến từ hai yếu tố, thái độ của Mao và nền văn hóa ‘Hoa trung’ của Bắc Kinh:
“Chính sách đối ngoại của Mao luôn là một phần của học thuyết và hành động vì ‘cuộc cách mạng liên tục’ của ông ta, nhằm thúc đẩy Trung Quốc chuyển đổi bằng hình thức cách mạng, từ một nhà nước cũ kỹ sang nước ‘Tân Trung Hoa’ mà Mao cho là sẽ đóng vai trò trọng tâm chứ không nhất thiết là thống trị thế giới (central but not dominant).”
Điều này cộng với yếu tố bên trong là Cách mạng Văn hóa làm xã hội Trung Quốc bị đẩy đến bờ vực tan rã và đấu tranh giữa các phái trong nội bộ Trung Quốc khiến Mao không thể nào còn có thể tác động mạnh đến Việt Nam.
“Sự ủng hộ của Bắc Kinh cho Hà Nội có quan hệ chặt chẽ với mong muốn của Mao dùng sự căng thẳng từ cuộc khủng hoảng ở Việt Nam để vận động quần chúng vốn là trọng tâm của việc tạo nên Cách mạng Văn hóa và còn góp phần thổi lên vai trò và uy tín của Trung Quốc ở Đông Nam Á cùng các phần còn lại của thế giới.”
…”Còn nhìn từ góc độ văn hóa và lịch sử, chính sách có vẻ như mang tính cách mạng và lý tưởng của Bắc Kinh đối với Việt Nam, trớ trêu thay, lại thấm nhuần chủ nghĩa Đại Hán (nguyên văn: Chinese ethnocentrism) và tính phổ quát. Khi lãnh đạo Trung Quốc, nhất là Mao, luôn nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại là phải đối xử với người Việt Nam ‘bình đẳng’, thì chính điều đó làm lộ ra cảm giác ‘bề trên’ của những nhà cách mạng Trung Quốc và còn hàm ý phía Trung Quốc đứng ở vị trí ‘chiếu trên’ để rao rảng, áp đặt các giá trị và hệ quy chiếu ứng xử như đã xảy ra trong quan hệ với các láng giềng….”
Cách mạng Văn hóa bắt đầu năm 1966
“Trung Quốc không tìm cách kiểm soát Việt Nam về chính trị và kinh tế vì cho Việt Nam là mục tiêu thấp kém (inferior aim) để đáng làm chuyện đó, và đã cung cấp viện trợ rất lớn về quân sự và kinh tế mà không đòi điều kiện kèm theo gì, nhưng Bắc Kinh cũng cùng lúc đòi một thứ còn lớn hơn, đó là Việt Nam phải chấp nhận vị trí đạo đức cao hơn của Trung Quốc. Nói ngắn gọn thì Trung Quốc muốn thực hiện một lần nữa mô hình quan hệ giữa Đế chế Trung Hoa và các quốc gia thần phục xung quanh.”
Tác giả Chen Jian kết luận bằng nhận định lý giải cho giai đoạn từ rạn nứt đến đổ vỡ và hoàn toàn thù định trong quan hệ Trung – Việt sau nay:
“Khi Bắc Kinh giảm sự trợ giúp vì các lý do nội bộ và bên ngoài thì mối nghi ngại có sẵn của Việt Nam chuyển thành xa lánh. Sau khi Việt Nam thống nhất và có đủ sức cho chế độ ở Hà Nội đối đầu trước ảnh hưởng của Trung Quốc thì sự xa lánh đó biến thành thù địch. Trung Quốc lại coi việc trừng phạt ‘cựu đồng chí’ là cần thiết để bảo vệ cho cảm giác ‘bề trên’ bị tổn thương. Hậu quả là mối quan hệ ‘vừa là đồng chí vừa là anh em’ hoàn toàn sụp đổ.”./.