1. Hướng tiếp cận Văn hóa so sánh với sự vận dụng Cấu trúc luận và Quá trình luận
Văn hóa so sánh (Comparative Culture) là một chuyên ngành thuộc Văn hóa học, hình thành từ thế kỷ XIX, ngày càng có vai trò quan trọng từ thế kỷ XX, đặc biệt là thế kỷ XXI. Phân biệt với so sánh như một thao tác tư duy, một phương pháp nghiên cứu, văn hóa so sánh như một chuyên ngành có đặc tính khoa việt, bao hàm việc nghiên cứu so sánh các nền văn hóa khác nhau (Cross-Cultural Comparision). Văn hóa so sánh nghiên cứu không phải những nền văn hóa độc lập mà quan hệ giữa chúng để làm sáng tỏ những quy luật chung cũng như những đặc thù, những bản sắc văn hóa riêng.
Nhiều công trình nghiên cứu hệ giá trị văn hóa Hàn Quốc thường sử dụng hướng tiếp cận văn hóa so sánh, đặc biệt là so sánh Hàn Quốc với Hoa Kỳ. Sở dĩ như vậy là vì Hoa Kỳ là nước quan trọng hàng đầu trong quan hệ chính trị - kinh tế - văn hóa giữa Hàn Quốc với phương Tây, Hoa Kỳ đến nay vẫn là đồng minh thân thiết của Hàn Quốc, liên quan đến những hợp tác sâu rộng về nhiều mặt giữa hai bên. So sánh Hàn-Mỹ được các học giả cả hai phía quan tâm, và đặt tiêu cự chủ yếu trên hệ giá trị văn hóa dân tộc gắn với hệ giá trị văn hóa doanh nghiệp.
Nổi bật nhất là L. Robert Kohls với Học để tư duy kiểu Hàn (Learning to Think Korean - 2001). Nhấn mạnh những biến đổi rất căn bản của hệ giá trị Hàn Quốc trong hơn 50 năm qua, nhất là hơn một thập kỷ gần đây, Kohls đã khái quát thành ba giai đoạn chính: (1) Những giá trị Hàn Quốc truyền thống từ khởi thủy đến những năm 1960; (2) Những biến đổi giá trị Hàn Quốc từ sau năm 1965; và (3) Giá trị Hàn Quốc đầu thế kỷ XXI. Ở cả ba giai đoạn, Kohls làm nổi bật hệ giá trị Hàn Quốc qua so sánh với hệ giá trị Hoa Kỳ mà ông đã tổng kết trong công trình nghiên cứu của mình thực hiện trước đó gần 30 năm [L. Robert Kohls 1984].
Những giá trị truyền thống Hàn Quốc, trước năm 1960, có thể nói, tương phản sâu sắc với những giá trị Hoa Kỳ (xem bảng 1).
Bảng 1. So sánh hệ giá trị Hàn Quốc truyền thống và hệ giá trị Hoa Kỳ [L. Robert Kohls 2001: 50]
Hệ giá trị Hàn Quốc truyền thống |
Hệ giá trị Hoa Kỳ trong nền văn hóa chủ lưu của người Mỹ da trắng |
Chấp nhận định mệnh |
Chế ngự môi trường |
Vững bền, Liên tục, Truyền thống |
Biến đổi và Tiến bộ, “Phát triển” |
Ưu tiên: Quan hệ con người, Hòa điệu |
Ưu tiên: Thời gian và vận hành thời gian (Priority: Time and Its Control) |
Cấp bậc, Địa vị, Tôn ti trật tự |
Bình đẳng, công bằng |
Xu hướng nhóm |
Chủ nghĩa cá nhân, Độc lập, Riêng tư (Individualism, Independence, Privacy) |
Di sản dòng dõi |
Tự lực, Cải thiện |
Hợp tác |
Cạnh tranh |
Hướng về quá khứ |
Hướng tới tương lai |
Xu hướng “bản thể” |
Xu hướng “hành động”, Thành tựu |
Chính thống, Quy cách, Nghi thức |
Phi chính thống, Cách tân |
Gián tiếp và giữ gìn Thể diện |
Trực tiếp và Thẳng thắn, công khai |
Suy xét triết lý |
Ứng dụng thực tế |
Tính tâm linh |
Chủ nghĩa vật chất |
Bảng 2 trình bày hệ giá trị Hàn Quốc sau 1965 (được thể hiện bằng những chữ in đậm trong những ô nền xám) cho thấy sự xuất hiện của một số giá trị hiện đại ở cột bên phải (tương đồng với những giá trị Hoa Kỳ) đồng thời với sự duy trì một số giá trị truyền thống ở cột bên trái [L. Robert Kohls 2001: 60-65].
Bảng 2. Hệ giá trị Hàn Quốc với sự duy trì những giá trị truyền thống và hình thành những giá trị hiện đại [L. Robert Kohls 2001: 62]
Những giá trị Hàn Quốc truyền thống được bảo tồn |
Những giá trị hiện đại mới thâm nhập vào HGT Hàn Quốc |
Chấp nhận định mệnh |
Chế ngự môi trường |
Vững bền, Liên tục, Truyền thống |
Biến đổi và Tiến bộ, “Phát triển” |
Ưu tiên: Quan hệ con người, Hòa điệu |
Ưu tiên: Thời gian và vận hành thời gian (Priority: Time and Its Control) |
Cấp bậc, Địa vị, Tôn ti trật tự |
Bình đẳng, công bằng |
Xu hướng nhóm (Group Orientation) |
Chủ nghĩa cá nhân, Độc lập, Riêng tư (Individualism, Independence, Privacy) |
Di sản dòng dõi |
Tự lực, Phấn đấu, cải thiện |
Hợp tác |
Cạnh tranh |
Hướng về quá khứ |
Hướng tới tương lai |
Xu hướng “bản thể” |
Xu hướng “hành động”, Thành tựu |
Chính thống, Quy cách, Nghi thức |
Phi chính thống, Cách tân |
Gián tiếp và giữ gìn Thể diện |
Trực tiếp và Thẳng thắn, công khai (Directness and Openness) |
Suy xét triết lý |
Ứng dụng thực tế |
Tính tâm linh |
Chủ nghĩa vật chất |
Những chữ in nhạt ở cột bên trái là những giá trị truyền thống không còn giữ vai trò chủ lưu mà đang phai nhạt dần; những chữ in nhạt ở cột bên phải hiện nay chưa xuất hiện hoặc nếu có thì còn nhạt nhòa nhưng rất có thể sẽ trở nên đậm hơn trong tương lai.
Tính theo số lượng, số giá trị Hàn Quốc hiện đại mới xuất hiện (in đậm ở cột bên phải: 9) nhiều hơn số những giá trị Hàn Quốc truyền thống còn được lưu giữ (in đậm ở cột bên trái: 5). Ở một số tiêu chí ta thấy có sự đồng hành của cả những giá trị truyền thống lẫn những giá trị hiện đại (Ưu tiên cả quan hệ con người lẫn vận hành thời gian; Coi trọng cả di sản dòng dõi lẫn sự tự lực, phấn đấu cải thiện). Thêm nữa, theo L. Robert Kohls, những giá trị hiện đại chủ yếu thể hiện ở trên bề mặt (surface), như lớp véc-ni hoặc lớp gỗ dán, giấy bồi (veneer), trong khi những giá trị truyền thống nằm sâu ở phần cốt lõi bên trong (lie deep within, at the core). Có thể thấy Hàn Quốc là một xã hội đang chuyển động mạnh mẽ.
Về những giá trị Hàn Quốc đầu thế kỷ XXI, L. Robert Kohls nhấn mạnh đặc điểm Hàn Quốc như “một trong những đất nước năng động nhất ở Châu Á” và đặc biệt lưu ý đây là đất nước công nghệ và nhất là có công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, ở một số phương diện còn hơn cả Nhật Bản và Hoa Kỳ. Theo L. Robert Kohls, khó có thể tiên đoán về sự biến đổi những giá trị Hàn Quốc. Tuy nhiên có thể chắc chắn về việc khoảng cách thế hệ đối với hệ giá trị sẽ ngày càng lớn, thêm nữa, xã hội Hàn Quốc sẽ hiện đại hóa nhanh, mạnh đồng thời vẫn rất truyền thống.
L. Robert Kohls cho rằng, hệ giá trị Hàn Quốc trong so sánh với Hoa Kỳ cũng cần thiết bao hàm cả những giá trị về kiểu thức tư duy (pattern of thinking) [L. Robert Kohls 2001: 73-79].
Bảng 3. So sánh kiểu thức tư duy của Hàn Quốc và Hoa Kỳ
(Phan Thị Thu Hiền lập bảng dựa theo nội dung của L. Robert Kohls)
Kiểu thức tư duy Hàn Quốc |
Kiểu thức tư duy Hoa Kỳ |
Tư duy cụ thể |
Tư duy đề án |
Tư duy tích hợp |
Tư duy nhân quả |
Logic diễn dịch |
Logic quy nạp |
Xu hướng để ngỏ kết luận |
Xu hướng kết luận |
Cùng hướng tiếp cận văn hóa so sánh như L. Robert Kohls, Boyé Lafayette De Mente là một trong những học giả tiêu biểu với nhiều công trình: “Kiểu thức văn hóa kinh doanh Hàn Quốc. Những giá trị và hành xử văn hóa tạo nên nhân cách doanh nhân Hàn Quốc” (Korean Business Etiquette. The Cultural Values and Attitudes That Make Up the Korean Business Personality); “Những giá trị hệ trọng Hàn Quốc” (Survival Korean); “Kiểu thức Hàn Quốc trong kinh doanh” (The Korean Way in Business)… Boyé Lafayette De Mente cũng thực hiện các nghiên cứu so sánh hệ giá trị văn hóa Mỹ và Trung Quốc, như “Hướng dẫn cách thức ứng xử Trung Hoa” (Etiquette Guide to China), “Khái lược bản tính Trung Hoa” (Instant Chinese), nghiên cứu so sánh hệ giá trị Mỹ và Nhật Bản như “Kiểu thức và đạo đức kinh doanh Nhật Bản” (Japanese Etiquette & Ethics in Business), “Nhật Bản hiệp sĩ” (Bachelor’s Japan), nghiên cứu so sánh hệ giá trị Mỹ và châu Á nói chung, như “Thể diện Châu Á” (Asian Face)…
Đối với trường hợp Hàn Quốc, Boyé Lafayette De Mente phân tích “Những điểm căn bản trong cách thức và đạo đức Hàn Quốc” (The Basics of Korean Etiquette & Ethics), nhấn mạnh “Tính cách Hàn Quốc có tính bền vững” (The Enduring Korean Character), làm nổi bật những giá trị Hàn Quốc truyền thống. Sau đó, ông đề cập đến tâm thức Hàn Quốc (Korean Mind) trong văn hóa đương đại, đặc biệt chú ý đến văn hóa doanh nghiệp (Korean Business Culture Today). Boyé Lafayette De Mente chia sẻ khá nhiều tương đồng với L. Robert Kohls, có điều là trong khi Kohls thực hiện nghiên cứu theo lối hệ thống - cấu trúc thì những giá trị mà Boyé Lafayette De Mente nêu lên có vẻ liệt kê, ngẫu nhiên hơn, và đôi khi khuất lấp trong những miêu tả hiện thực văn hóa. Boyé Lafayette De Mente thường ưa thích hình thức từ điển, ông làm “Từ vựng về cách thức Hàn Quốc” (Vocabulary of the Korean Way), “Những đề tài văn hóa quan trọng” (Guide to Key Cultural Themes), trong đó, những thuật ngữ căn bản về giá trị Hàn Quốc được sắp xếp cùng các hiện tượng / sản phẩm / hoạt động văn hóa đặc thù Hàn Quốc.
Nếu L. Robert Kohls và Boyé Lafayette De Mente tiếp cận theo lối định tính thì Geert Hofstede sử dụng phương pháp định lượng. Những công trình nghiên cứu của Geert Hofstede suốt từ những năm 1970 đến nay luôn luôn thu hút sự chú ý của giới học giả. Theo ông, “Văn hóa là sự lập trình tư duy có tính tập thể, phân biệt những thành viên của nhóm / cộng đồng này với những thành viên của nhóm / cộng đồng khác” ("Culture is the collective programming of the mind that distinguishes the members of one group or category of people from others") [Geert Hofstede 2011: 3]. Với nghiên cứu đầu tiên, dựa trên kết quả điều tra xã hội học khảo sát ý kiến khoảng 116.000 nhân viên của công ty IBM trên 50 nước thuộc 3 khu vực khác nhau trên thế giới, G. Hofstede đã xác định bốn chiều kích giá trị có liên quan và ảnh hưởng đến văn hóa doanh nghiệp, đó là:
(1) Khoảng cách quyền lực (Power Distance);
(2) Chủ nghĩa cá nhân trong sự tương phản với Chủ nghĩa tập thể (Individualism vs. Collectivism);
(3) Nam tính trong sự tương phản với Nữ tính (Masculinity vs. Femininity);
(4) Tránh sự bất định (Uncertainty Avoidance).
Vào những năm 1980, G. Hofstede mở rộng quy mô khảo sát và bổ sung thêm chiều kích thứ năm là “(5) Định hướng dài hạn trong sự tương phản với Định hướng ngắn hạn” (Long Term vs. Short Term Orientation). Theo G. Hofstede, định hướng dài hạn liên quan với xu hướng Chủ nghĩa thực tiễn / Chủ nghĩa thực tế (Pragmatism) thể hiện cách thức mà một nền văn hóa duy trì những gắn kết với quá khứ của nó trong khi đương đầu với những thách thức hiện tại và tương lai.
Vào những năm 2000, G. Hofstede tiếp tục mở rộng quy mô khảo sát và bổ sung chiều kích thứ sáu là “(6) Thoải mái / Hưởng thụ trong sự tương phản với Kiềm chế / Khắc kỷ” (Indulgence vs. Restraint) [Geert Hofstede 2011: 8; x. thêm: Hofstede - Vietnam].
Đóng góp của G. Hofstede không chỉ là kiến tạo khung lý thuyết bao gồm những chiều kích cơ bản quan trọng giúp nhận diện những giá trị văn hóa doanh nghiệp, văn hóa dân tộc mà còn qua khảo sát xã hội học thực hiện liên tục nhiều năm với quy mô, số lượng lớn trên mẫu có tính đại diện, tính điển hình cao, đưa ra được những chỉ số về các chiều kích ấy trong nhiều nền văn hóa khác nhau. Kết quả nghiên cứu cập nhật nhất hiện nay của G. Hofstede là kho dữ liệu về 101 nước, cung cấp một nguồn tư liệu tham khảo phong phú cho nghiên cứu so sánh các nước, các khu vực trên thế giới.
Liên quan đến Hàn Quốc và Hoa Kỳ, nghiên cứu của G. Hofstede cho thấy văn hóa của hai quốc gia tương phản nhau một cách sắc nét về 5 chiều kích giá trị: (1), (2), (3), (5), (6). Chiều kích giá trị duy nhất tương đồng giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc là (4) – Tránh sự bất định – có thể liên quan đến tinh thần coi trọng luật pháp, quy tắc, việc cụ thể, minh xác trong các thiết chế / thể chế rất điển hình cho xã hội hiện đại, văn minh, phát triển cao.
Hình 1. Biểu đồ so sánh Hàn Quốc và Hoa Kỳ về các chiều kích văn hóa [Hofstede - South Korea]
Dựa trên nội dung của G. Hofstede, ta có thể lập thành bảng so sánh sau (xem bảng 4).
Bảng 4. So sánh những giá trị Hàn Quốc và Hoa Kỳ
theo 6 chiều kích văn hóa của Hofstede
(Phan Thị Thu Hiền lập bảng theo nội dung của G.Hofstede)
|
Hàn Quốc |
Hoa Kỳ |
1 |
Khoảng cách quyền lực cao |
Khoảng cách quyền lực thấp |
2 |
Chủ nghĩa tập thể (Collectivism) |
Chủ nghĩa cá nhân (Individualism) |
3 |
Nữ tính (Femininity) |
Nam tính (Masculinity) |
4 |
Tránh sự bất định rất cao |
Tránh sự bất định cao |
5 |
Chủ nghĩa thực tiễn (Pragmatism) |
Nguyên tắc (Normative) |
6 |
Kiềm chế / Khắc kỷ (Restraint) |
Thoải mái / Hưởng thụ (Indulgence) |
Trên đây, chúng ta đã điểm qua những nghiên cứu cơ bản về hệ giá trị Hàn Quốc trong so sánh với Hoa Kỳ của các học giả nước ngoài. Các học giả Hàn Quốc theo hướng này có những đóng góp riêng. Choong Soon Kim, trong chuyên khảo “Kimchi và IT” (Kimchi and IT), nhấn mạnh một nhà nhân học Mỹ gốc Hàn như ông có điều kiện để kết hợp cái nhìn của người bên ngoài (outsider) và người bên trong (insider) để phân tích những giá trị, tính cách/ kiểu thức đặc trưng, thể hiện bản sắc Hàn Quốc (mà ông cho rằng có thể được bao hàm trong nhiều khái niệm gần nghĩa nhau như “national character”, “identity”, “patterns”, “ethos”, “tick”, “Koreaness”…) một cách thấu đáo và tinh tế. Theo Choong Soon Kim, những giá trị Hàn Quốc (“Korean ethos”) có thể được loại hình hóa theo ba nhóm [Choong Soon Kim 2007: 259-279]:
(1) Những kiểu thức tương phản (Contradictory patterns);
(2) Những kiểu thức truyền thống đang mờ nhạt đi (Diminishing traditional patterns);
(3) Những kiểu thức vẫn được kiên trì theo đuổi một cách trung thành (Faithfully persisting patterns) (x. bảng 5).
Qua các công trình nói trên, có thể thấy hướng tiếp cận văn hóa so sánh được vận dụng khá hiệu quả khi nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc trong so sánh với hệ giá trị Hoa Kỳ.
Bảng 5. Hệ giá trị Hàn Quốc qua ba nhóm loại hình (Phan Thị Thu Hiền lập bảng dựa theo nội dung của Choong Soon Kim)
Những kiểu thức tương phản |
Những kiểu thức truyền thống đang mờ nhạt đi |
Những kiểu thức vẫn được kiên trì theo đuổi một cách trung thành |
1. Đề cao sự bình tĩnh, thung dung nhưng cũng nỗ lực phấn đấu đạt kết quả nhanh chóng (Values Unhurried Calmness, Yet Craves Fast Results) 2. Thế giới quan dung hợp thế giới (toàn cầu) đồng thời duy trì bản sắc (dân tộc) đặc thù độc đáo (An Inclusive Worldview with Exclusive “One-ness”) 3. Kiên trì, nhẫn nại đồng thời nôn nóng, vội vã (Remarkable Endurance, Explosive Impatience)
|
1. Từ phong thái lịch sự, khiêm tốn đến khí chất tự tin “có thể làm” (From Politeness and Humility to the “Can-do-Spirit” of Self-Confidence) 2. Từ thế giới quan hướng nội đến nỗ lực hướng ngoại (From Inward Worldview to Outward Effort) 3. Từ kiểu thức hướng về những quy tắc cấm đoán đến kiểu thức hướng về những quy tắc được phép (From Prohibitive Norm-Oriented Patterns to Permissive Norm-Oriented Ones) |
1. Coi trọng học hành (Emphasis on Education) 2. Khát khao giải “Hận” cháy bỏng (A Burning Desire to Release “Han”) 3. Xử sự theo tình cảm / trạng thái tinh thần (Gibun) 4. “Làm quá” (làm hơn người khác một bước). Thí dụ, khi tiếp thu ảnh hưởng Nho giáo, Hàn thậm chí trở nên “Nho” hơn cả Trung Hoa (“bảo hoàng hơn vua”) (“Out-doing” One-Another (One-upmanship))
|
Các học giả theo hướng tiếp cận này thường vận dụng Chủ nghĩa cấu trúc (Structuralism), vượt qua sự tìm hiểu hiện thực văn hóa trên bề mặt, nỗ lực thâm nhập cấu trúc bề sâu với tư cách là nguyên lý tổ chức cơ bản nằm dưới trật tự của một xã hội / một nền văn hóa nhất định. Cấu trúc sâu này mang tính khái niệm, có hình thức của những cặp phạm trù đối lập, phản ánh sự lựa chọn những giá trị nhất định của một xã hội / một nền văn hóa và chính cách nghĩ ấy quyết định cách sống, cách hành xử của nó. Hệ giá trị truyền thống của Hàn Quốc thường được thấy như sự tương phản sâu sắc với hệ giá trị Hoa Kỳ, đại diện cho sự tương phản giữa hệ giá trị truyền thống Phương Đông và hệ giá trị Phương Tây.
Mặt khác, các học giả theo hướng tiếp cận này cũng thường vận dụng Quá trình luận (Processualism), đặt tiêu cự trên những tình thế hiện đại, đương đại, xem xét hệ giá trị trong quy luật vận động, nhấn mạnh “những kiểu thức xã hội là kết quả tích lũy của chuỗi những lựa chọn và quyết định của con người qua quá trình tương tác hoạt động” [Fredrik Barth 1966]. Hệ giá trị Hàn Quốc có những biến đổi quan trọng trong quá trình tiếp thu ảnh hưởng phương Tây, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, đặc biệt từ năm 1965, khi Hàn Quốc bắt đầu cất cánh, tạo nên “kỳ tích sông Hán” trong phát triển kinh tế và nhất là bước sang thế kỷ XXI, khi Hàn Quốc ngày càng trở thành một trong những cường quốc châu Á, đất nước hàng đầu thế giới về công nghệ thông tin. Trong bối cảnh của những biến đổi như vậy, không ít những giá trị mới thay thế những giá trị truyền thống, tuy nhiên, Hàn Quốc ngày càng hiện đại vẫn rất truyền thống trong những giá trị cốt lõi.
2. Hướng tiếp cận Văn hóa đại chúng với sự vận dụng Hậu hiện đại luận, Chức năng luận và Chủ nghĩa vật chất văn hóa
Khái niệm Văn hóa đại chúng (Popular Culture), theo nhà nghiên cứu Raymond Williams (1921-1988), về cơ bản, có 4 nghĩa, tương ứng với 4 nghĩa của từ “popular” [John Storey 2006: 4-11]:
(1) Văn hóa đại chúng bao gồm những hiện tượng, sản phẩm / dịch vụ văn hóa được nhiều người ưa thích (Popular: well-liked by many people).
(2) Văn hóa đại chúng là hình thức văn hóa thấp hơn của đa số quần chúng phân biệt với văn hóa cao hơn của một thiểu số tinh hoa (Popular: inferior kinds of works).
(3) Văn hóa đại chúng bao gồm những sản phẩm / dịch vụ văn hóa người ta chủ ý tạo ra (thường gắn với công nghiệp văn hóa, sản xuất hàng loạt) nhằm thỏa mãn thị hiếu của số đông (đại trà) (Popular: work deliberately setting out to win favor with the people).
(4) Văn hóa đại chúng bao gồm những sản phẩm / dịch vụ văn hóa mà những nhóm xã hội (nhất là những nhóm thiểu số / bên lề) tự tạo nên để đáp ứng cho những nhu cầu đặc thù của riêng họ (vốn không được văn hóa thống lĩnh thừa nhận và quan tâm) (Popular: actually made by the people for themselves).
Văn hóa đại chúng là một trong những tồn tại văn hóa cơ bản, bên cạnh văn hóa tinh hoa (Elite Culture) và Văn hóa Dân gian (Folk Culture). Với tư cách hiện thực văn hóa của đời sống thường nhật (Daily Life), văn hóa đại chúng chiếm lĩnh đời sống con người, thậm chí, phổ biến hơn nhiều so với văn hóa tinh hoa và văn hóa dân gian, và có vai trò cũng quan trọng hơn trong tạo hình cách sống và cách nghĩ của họ. Những trào lưu văn hóa đại chúng có thể vượt qua các biên giới quốc gia, ảnh hưởng sâu rộng tới khắp cả thế giới (như văn hóa đại chúng Hoa Kỳ) hay một khu vực (như văn hóa đại chúng Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc…).
Nghiên cứu hệ giá trị, nhất là những giá trị mới, đương đại, những giá trị đang hình thành và được đông đảo công chúng chấp nhận, ảnh hưởng đến đông đảo công chúng, vì vậy, không thể bỏ qua hướng tiếp cận văn hóa đại chúng.
Liên quan đến giá trị trong quan hệ với hiện thực văn hóa, nhiều nhà nghiên cứu thường trình bày sơ đồ cấu trúc củ hành mà những giá trị ở trong cùng, cốt lõi, được thể hiện qua những nghi thức, những anh hùng và những biểu tượng (x. hình 2).
Hình 2. Sơ đồ “củ hành”:
Những thể hiện văn hóa ở các lớp chiều sâu khác nhau [Hofstede - Software]
Riêng với văn hóa đại chúng, sơ đồ cấu trúc ngôi nhà của John G. Jachbar có ảnh hưởng khá sâu rộng. Theo đó, văn hóa đại chúng được hình dung như ngôi nhà có một tầng nền móng và hai tầng lầu (x. hình 3).
Tầng nền móng là Tâm thức văn hóa (Cultural Mindset) bao gồm hai lớp: lớp đáy, gồm những niềm tin (huyền thoại) và giá trị nền tảng có ý nghĩa quan trọng, bền vững, trường tồn; lớp trên, gồm những niềm tin và giá trị bề mặt, thường cạn cợt, hay thay đổi hơn. Những niềm tin, giá trị nền tảng và những niềm tin, giá trị bề mặt luôn tương tác lẫn nhau.
Tầng lầu 1 là tầng của những sản phẩm văn hóa (Artifacts), bao gồm những con người (People) và những vật thể (Objects). Tầng này gồm hai căn phòng: (1) Những con người và vật thể được hư cấu, tưởng tượng, sáng tạo nên (Imaginary / Created); (2) Những con người và vật thể tồn tại thật trong thực tế (Real). Ta sẽ có những anh hùng (Heroes) thực và những anh hùng huyền thoại, những vật biểu tượng (Icons) thực và những vật biểu tượng được sáng tạo. Những nhân vật nổi tiếng trong thế giới giải trí (Celebreties) vừa là những con người thực vừa là những nhân cách được văn hóa đại chúng tạo dựng. Những khuôn mẫu (Stereotypes) người ta thường dán nhãn (Label) cho một nhóm / cộng đồng nào đó cũng vừa là do những con người tồn tại thật trong thực tế vừa là do những nhân vật hư cấu, tưởng tượng tạo nên.
Hình 3. Sơ đồ cấu trúc ngôi nhà văn hóa đại chúng
[John G. Jachbar, Kevin Lausé 1992: 21]
Tầng lầu 2 là tầng của những Sự kiện (Event) bao gồm những hình thức / thể loại (Arts) cùng những nghi thức (Rituals) của văn hóa đại chúng với những quy tắc / công thức (Formulas) tổ chức sự kiện văn hóa đại chúng theo trình tự bắt đầu – kế tiếp – kết thúc (Beginning – Midle – End). Như vậy, qua các sự kiện, các sản phẩm văn hóa đại chúng hiển thị (visible) ở tầng lầu 2 và 1, nhà nghiên cứu có thể khám phá những niềm tin và giá trị không hiển thị (invisible) nằm sâu dưới tầng nền móng. Thêm nữa, khi những trào lưu văn hóa đại chúng lớn tràn qua các biên giới quốc gia ảnh hưởng đến toàn thế giới hoặc một khu vực rộng lớn, chúng có thể mang những hệ giá trị văn hóa của một dân tộc đến quốc tế, tạo nên tương tác giữa những hệ giá trị, tương tác giữa Chủ nghĩa quốc tế (Internationalism) và Chủ nghĩa dân tộc (Nationalism) trong bối cảnh toàn cầu hóa (Globalization) đồng thời với địa phương hóa (Localization).
Nghiên cứu văn hóa đại chúng đã hình thành và phát triển ở phương Tây, đặc biệt là ở Mỹ từ những năm 1960. Trong đó cũng ngày càng hình thành và phát triển hướng tiếp cận hệ giá trị từ văn hóa đại chúng. Chẳng hạn tuyển tập công trình “Tấm gương soi xã hội Hoa Kỳ. Những tiểu luận và những hình ảnh từ Văn hóa đại chúng” (Mirror on America. Essays and Images from Popular Culture) do Joan T.Mims và Elizabeth M. Nollen biên soạn, bao gồm nhiều nghiên cứu liên quan đến hệ giá trị, chẳng hạn chương 2 bàn về “Giải kiến tạo truyền thông: Phân tích một hình tượng” (Deconstructing Media: Analyzing an Image); chương 3 nói đến “Nhận diện tính cách Mỹ: Những suy tư về bản sắc văn hóa” (Define “American”: Reflections on Cultural Identity); chương 4 có tiêu đề “Trông tôi thế nào?”: Cách mà văn hóa kiến tạo hình tượng tự ngã” (“How do I Look?”: How Culture Shape Self-Image); chương 6 bàn về “Sáng tạo, hư cấu để bán: Tiếp thị văn hóa Mỹ” (Fantasies for Sale: Marketing American Culture); chương 7 có tiêu đề “Ngắm nhìn bức tranh đại tự sự: Sự phản ánh văn hóa qua phim ảnh” (Seeing the Big Picture: Reflecting Culture in Film); Chương 8: “Những thần tượng Mỹ: Những sự thể hiện của văn hóa Mỹ” (American Idols: Representations of American Culture).
Nghiên cứu văn hóa đại chúng ở Hàn Quốc hình thành muộn hơn rất nhiều so với Hoa Kỳ. Euny Hong, tác giả của công trình nghiên cứu “Sự hình thành sức hấp dẫn Hàn Quốc. Cách thức mà một dân tộc chinh phục thế giới qua văn hóa đại chúng” (The Birth of Korean Cool. How One Nation is Conquering the World through Pop Culture), viết trong phần Dẫn nhập: “Hàn Quốc năm 1985 vẫn chưa có gì cuốn hút (thế giới)” (Korea was not cool in 1985). Vì trào lưu / làn sóng văn hóa đại chúng Hàn Quốc (Hallyu – Hàn lưu – Korean Wave) mãi đến những năm 1990 mới hình thành. Hàn lưu phát triển ảnh hưởng ở châu Á, đạt đến giai đoạn đỉnh cao khoảng từ 2000 đến 2005, ban đầu chủ yếu do phim truyền hình và phim điện ảnh (K’drama, K’movie) dẫn dắt, sau đó chủ yếu do âm nhạc (K’pop) dẫn dắt, tiếp tục mở rộng sang các sản phẩm văn hóa mang nội dung (content - based products) khác (như Manhwa – truyện tranh, trò chơi điện tử, K’sport – Taekwondo…)… và luôn luôn kéo theo việc tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ “made-in-Korea” đa dạng (K’food, K’fashion, đồ điện tử, du lịch…). Hàn lưu đem đến cho Hàn Quốc những thành công đa bội (multiple) cả về văn hóa lẫn kinh tế, chính trị, ngoại giao. Hàn lưu góp phần xây dựng hình tượng dân tộc (National Image) dẫn đến nâng cao thương hiệu quốc gia (National Brand) cho Hàn Quốc.
Riêng về nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc liên quan đến văn hóa đại chúng, có thể nhận diện một số kiểu thức cơ bản.
Kiểu thức thứ nhất là những công trình nghiên cứu qua phân tích các hình thức / thể loại (Arts), công thức / quy tắc (Formulas) của các sự kiện / hiện tượng (Events) văn hóa đại chúng; qua phân tích các anh hùng (Heroes) , vật biểu tượng (Icons) - cả thực lẫn hư cấu, tưởng tượng; phân tích các nhân vật “thần tượng” (Celebrities) của show bis, các khuôn mẫu (Stereotypes) dán nhãn để làm nổi bật những giá trị nền móng và những giá trị bề mặt của một nền văn hóa. Euny Hong trong cuốn sách kể trên, qua phân tích thể loại phim tình cảm với Winter Sonata, K’pop của các ban nhạc nam nữ, ngôi sao Psy với “Gangnam Style”, Cựu Tổng thống Kim Dae-jung, Tổng thống Park Geun-hye, Kim chi và bắp cải, tập đoàn Samsung, thành ngữ “Trai Nam gái Bắc”…, đã làm nổi bật những giá trị Hàn Quốc, cả truyền thống lẫn hiện đại, như cảm thức “Hận” có tính cách “định mệnh”; phức cảm về sự tùy thuộc; chất Hài hước, Trào phúng; phẩm chất năng động, nỗ lực và tận hiến hết mình…
Kiểu thức thứ hai, nghiên cứu sự đóng góp của những giá trị Hàn Quốc cho sức hấp dẫn của Hàn lưu. Qua tìm hiểu ảnh hưởng của Hàn lưu ở Nhật [T. Hanaki et all 2007: 281-294], Đài Loan [S. Sung 2010: 25-45]; so sánh làn sóng văn hóa của Hàn Quốc với các làn sóng văn hóa của Đài Loan và Trung Quốc [J. Yang 2012: 103-147]; tìm hiểu những điểm chung khiến Hàn lưu được yêu mến ở cả Đông Bắc Á, Đông Nam Á lẫn Trung Đông [M. Ravina 2009: 2-9]; tìm hiểu quá trình đi đến toàn cầu của K’pop [E. Kim và J. Ryoo, 2007; 117-152], khá đông học giả nhất trí rằng những giá trị và văn hóa Hàn Quốc (sự tôn xưng đạo đức, những tình cảm gia đình, những quan hệ nhân sinh nồng ấm…) tương đồng ở các nước châu Á chịu ảnh hưởng Nho giáo và cũng gần gũi, dễ dàng được đồng cảm ở hầu khắp châu Á.
Từ đó đi đến hệ quả đối với phương hướng duy trì và phát triển Hàn lưu, trong khi một số học giả cho rằng cần nhấn mạnh “bản sắc độc đáo Hàn Quốc” thì một số khác lại cho rằng cần vượt qua quan điểm dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi để bao hàm “những giá trị châu Á” hay vươn tới những giá trị chung nhân loại. Dooboo Shim là học giả đầu tiên (2006) đưa ra khái niệm “Lai tạp” (Hybridity) [D. Shim 2006: 25-44] được nhiều học giả khác [Jung 2009: 69-80; Leung 2012] sử dụng. Theo các nhà nghiên cứu này, điều khiến Hàn lưu có thể cạnh tranh với Mỹ lưu, Nhật lưu chính là do tính “lai tạp” của nó, kết hợp những giá trị phương Đông và phương Tây, kết hợp màu sắc xứ lạ và cái quen thuộc.
Kiểu thức thứ ba, nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc trong quan hệ với kiến tạo và tiếp nhận văn bản Hàn lưu. Những văn bản văn hóa đại chúng của một đất nước đối với chính công chúng nước đó giống như một tấm gương soi (Mirror) giúp người bên trong (Insider) nhận diện những giá trị của dân tộc mình (Ngã tính); còn đối với công chúng ngoại quốc, lại như một cửa sổ giúp người bên ngoài (Outsider) nhìn vào nền văn hóa của người khác, thức nhận những giá trị của dân tộc khác (Tha tính). Liên quan đến điều này, Tamar Liebes và Elihu Katz trong công trình xuất bản năm 1994 “Xuất khẩu nghĩa: Những cách đọc Dallas qua các nền văn hóa” (The Export of Meaning: Cross-Cultural Readings of Dallas) nghiên cứu sự tiếp nhận, phản ứng của công chúng nhiều nước trên thế giới đối với một chương trình truyền hình nổi tiếng của Mỹ đã nêu một luận điểm quan trọng: Những hình ảnh văn hóa đại chúng ảnh hưởng đến cách thức người ta hiểu những nhóm văn hóa khác hơn là cách thức hiểu chính nhóm của họ [Tamar Liebes & Elihu Katz 1994].
Từ phương diện sáng tạo, những lực lượng tạo nên Hàn lưu đã nghiên cứu để đáp ứng thị hiếu các đối tượng đại chúng, nạp những giá trị tích cực về Hàn Quốc vào các sản phẩm văn hóa đại chúng.
Từ phương diện tiếp nhận, trong những lực lượng tiêu thụ Hàn lưu có sự phân biệt giữa công chúng người Hàn và công chúng ngoại quốc. Trong khi công chúng người Hàn thường hiển nhiên mặc định về sự cách biệt giữa hình tượng của văn hóa đại chúng và thực tại thì công chúng ngoại quốc lại thường có xu hướng mặc định về tính phản ánh chân xác thực tại của hình tượng văn hóa đại chúng. Vì vậy, một trong những nguyên nhân cho sự sa sút của Hàn lưu ở Đông Nam Á chính là việc người Đông Nam Á ngày càng nhận thấy có khoảng cách khá xa giữa những giá trị Hàn Quốc qua các sản phẩm Hàn lưu và hình ảnh của Hàn Quốc qua một số người Hàn mà họ trực tiếp tiếp xúc trong đời thực hàng ngày. Theo Pavin Chachavalpongpun, “tình cảm không thích người Hàn Quốc đang dần tăng trong một bộ phận cư dân Đông Nam Á” [Pavin Chachavalpongpun 2008]. Điều này do thực tế rằng “không ít những khách du lịch, những người truyền giáo, những doanh nhân Hàn Quốc làm hỏng, làm xấu hình tượng Hàn Quốc khi họ tương tác với cư dân Đông Nam Á”. “Một số khách du lịch được đề cập như “những người Hàn xấu” do thái độ hành xử thô bạo”. Một số những người Hàn truyền đạo Tin Lành một cách gây hấn cũng làm mờ nhạt phẩm chất hòa ái của Hàn lưu. Một số doanh nhân Hàn Quốc là “những ông chủ dữ dằn nhất trong số các nhà đầu tư nước ngoài với “văn hóa quân sự” cứng rắn trong thực hành quản lý”. Pavin Chachavalpongpun nêu nhiều thí dụ điển hình từ Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Campuchia…
Hệ quả là, để mở rộng Hàn lưu và phát triển những nội lực tiềm năng của nó, cấp thiết phải rút ngắn khoảng cách giữa những giá trị tích cực gắn với hình tượng Hàn Quốc qua văn hóa đại chúng và những điểm tiêu cực, phi giá trị, phản giá trị trong thực tại, nói cách khác, phải sửa chữa những khía cạnh tiêu cực có thể có trong những quan hệ liên cá nhân trong thực tế giữa người Hàn Quốc và cư dân các nước.
Nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc từ hướng tiếp cận văn hóa đại chúng, như vậy, trước hết, thường đi cùng sự vận dụng Chủ nghĩa duy vật văn hóa (Cultural Materialism), xem xét văn hóa trong quan hệ chặt chẽ với kinh tế-chính trị. Nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc từ hướng tiếp cận văn hóa đại chúng cũng gắn bó chặt chẽ với lý thuyết Chức năng (Functionalism), quan tâm đến vai trò và ý nghĩa nhiều mặt của văn hóa đại chúng, không chỉ phản ánh mà còn góp phần kiến tạo những giá trị văn hóa. Cuối cùng, nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc từ hướng tiếp cận văn hóa đại chúng còn nhấn mạnh quan điểm Hậu hiện đại luận (Post-Modernism) về chủ nghĩa tương đối trong nhận thức (Epistemological Relativism), rằng chân lý mang tính tương đối và chủ quan, phụ thuộc vị thế và phối cảnh của chủ thể hiểu biết.
Kết luận
Hàn Quốc từ xa xưa cho đến tận ngày nay trong thời đại hội nhập toàn cầu luôn là một dân tộc có ý thức sâu sắc giữ gìn bản sắc riêng, hệ giá trị độc đáo của mình. Nghiên cứu hệ giá trị Hàn Quốc, vì thế cũng là đề tài quan trọng mà nhiều thế hệ học giả trong nước quan tâm, đặc biệt gần đây khi vị thế Hàn Quốc ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế, đề tài này ngày càng thu hút sự chú ý của cả những học giả ngoại quốc. Trong các hướng tiếp cận hiện đại, hướng tiếp cận văn hóa so sánh và hướng tiếp cận văn hóa đại chúng tỏ ra khá hiệu quả và có thể có những gợi ý trong nghiên cứu hệ giá trị văn hóa Việt Nam.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1.Boyé Lafayette De Mente 2004: Korean Business Etiquette. The Cultural Values and Attitudes That Make Up the Korean Business Personality. - Tuttle Publishing, Boston - Rutland, Vermont - Tokyo.
2.Boyé Lafayette De Mente 2012: The Korean Mind. Understanding Contemporary Korean Culture. - Tuttle Publishing, Boston - Rutland, Vermont - Singapore.
3.Boyé Lafayette De Mente 2014: The Korean Way in Business. - Tuttle Publishing, Boston - Rutland, Vermont - Singapore.
4.Choong Soon Kim 2007: Kimchi and IT. - Ilchohak.
5.D. Shim 2006: Hybridity and the rise of Korean popular culture in Asia. – “Media, Culture & Society”, 28: 1.
6.E. Jung 2009: Transnational Korea. A critical assessment of the Korean wave in Asia and the United States. – “Southeast Review of Asian Studies”, 31.
7.E. Kim & J. Ryoo 2007: South Korean culture goes global. K-pop and the Korean wave. – “Korean Social Science Journal”, 34: 1.
8.Elaine H. Kim, Chungmoo Choi 1998: Dangerous Women. Gender & Korean Nationalism. - Routledge: New York and London.
9.Euny Hong 2014: The Birth of Korean Cool. How One Nation is Conquering the World through Pop Culture. - Picador, New York.
10.Fredrik Barth 1966: Social Patterns as Patterns of Choice.
11.Geert Hofstede 2011: Dimensionalizing Cultures: The Hofstede Model in Context. International Association of Cross-Cultural Psychology; http://dx.doi.org/10.9707/2307-0919.1014
12.Gi Wook Shin 2006: Ethnic Nationalism in Korea. - Studies of the Walter H. Shorenstein, Asia Pacific Research Center.
13.Hofstede - Software: Cultures and Organizations – Software of the Mind. https://www.novsu.ru/file/1092483
14.Hofstede - South Korea: http://geert-hofstede.com/south-korea.html
15.Hofstede - Vietnam: http://geert-hofstede.com/vietnam.html
16.J. Yang 2012: The Korean wave (hallyu) in East Asia. A comparison of Chinese, Japanese and Taiwanese audiences who watch Korean TV dramas. – “Development and Society”, 41: 1.
17.Joan T. Mims, Elizabeth M. Nollen 2009: Mirror on America. Essays and Images from Popular Culture. - Bedford/St. Martins.
18.John G. Jachbar, Kevin Lausé 1992: Popular Culture. An Introductory Text. Popular Press.
19.John Storey 2006: Cultural Theory and Popular Culture. An Introduction. Pearson Education Limited, USA.
20.L. Robert Kohls 1984: The Values Americans Live By. - Washington, D.C: Meridian House International
21.L. Robert Kohls 2001: Learning to Think Korean. - Intercultural Press.
22.M. Ravina 2009: Introduction. Conceptualizing the Korean wave. – “Southeast Review of Asian Studies”, 31.
23.Pavin Chachavalpongpun 2008: In Thailand with the PAD: New Politics or New communists? – Opinom Asia (29 September). http://opinionasia.com/ InThailandwiththePAD
24.S. Leung 2012: Cathching the K-pop wave. Globality in the production, distribution and consumption of South Korean popular music. - Master's thesis. http://digitalwindow.vassar.edu/senior
25.S. Sung 2010: Constructing a new image. Hallyu in Taiwan. – “European Journal of East Asian Studies”, 9: 1.
26.T. Hanaki et all 2007: T. Hanaki, A. Singhal, K. Han, K. Kim, & K. Chitnis: Hanryu sweeps East Asia. How Winter Sonata is gripping Japan. – “International Communication Gazette”, 69: 3.
27.Tamar Liebes & Elihu Katz 1994: The Export of Meaning: Cross-Cultural Readings of Dallas. - Wiley.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”