Khổng Tử (551-479 TCN), ai cũng biết, là một nhà tư tưởng mà hệ thống triết học xã hội của ông còn gọi Khổng giáo hay Nho giáo đã có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư tưởng của các nền văn hóa Á Đông, được người Trung Hoa đời sau tôn xưng là Vạn Thế Sư Biểu (Bậc thầy của muôn đời). Ngoài ra còn có một danh hiệu khác gọi là Chí Thánh Tiên Sư (thụy hiệu có từ năm Gia Tĩnh thứ 9, nhà Minh, tức năm 1530).
Các tư tưởng của Khổng Tử nhấn mạnh trước hết trên sự tu dưỡng cá nhân (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), rồi lấy đó làm cơ sở nền tảng để cai trị quốc gia theo trình tự “tu, tề, trị, bình” (tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ), nhằm đạt tới một xã hội trật tự hài hòa lý tưởng, “vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử), trong đó mọi người dân đều được sống phong túc, của cải phân chia công bằng (“Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân”), có học vấn, biết cách xử kỷ tiếp vật hợp tình lý, không có sự tham lam quá đáng, tri túc thiểu dục...
Các triều đại phong kiến ở Trung Quốc và vài nước láng giềng khác trong đó có Việt Nam đã liên tiếp nhau áp dụng tư tưởng Khổng Tử như một học thuyết xã hội hay đường lối căn bản xây dựng quốc gia theo những thể thức và mô hình được coi như lý tưởng nhưng đồng thời cũng có phần lạm dụng nó để đè ép dân chúng vào một trật tự có lợi cho các tầng lớp thống trị bên trên. Đó là một trong những lý do quan trọng nhất khiến học thuyết Khổng Tử có nhiều lúc bị đem ra phê phán, thậm chí đả phá toàn diện một cách quá khích.
Tuy nhiên, sau những thời kỳ cực đoan như thế, thường thiên về lý do chính trị, cũng có lúc người ta bình tĩnh suy nghĩ lại (gọi là “phản tư”) để nhìn nhận vấn đề một cách sáng suốt, khách quan và toàn diện hơn. Ngày nay ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, ý nghĩa-vai trò của Nho giáo đã được khẳng định tương đối căn bản, biểu hiện qua việc xuất bản rất nhiều sách kinh điển và những công trình liên quan, trên tinh thần chung vừa khẳng định những giá trị tích cực của Nho giáo, vừa chỉ ra những nhân tố còn hạn chế đương nhiên của nó do bối cảnh lịch sử và thời đại quy định.
Chính phủ Trung Quốc hiện nay đã cho thành lập hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới, nhưng thật ra đây chỉ là tên gọi, chỉ những học viện công phi lợi nhuận nhắm vào nỗ lực truyền bá ngôn ngữ, văn hóa Trung Hoa, để mở rộng “quyền lực mềm” trong đường lối chính trị của Trung Quốc, chứ không phải những trung tâm chuyên nghiên cứu học thuyết Khổng Tử.
Xét cách chung thì Khổng Tử là một nhà hoạt động “hữu vi”, luôn cố vận động vua chúa cho việc thực hiện một xã hội dựa trên quân quyền mà lý tưởng. Ông thường bị phái Đạo gia (đặc biệt Liệt Tử và Trang Tử) công kích, cười chê, cho là một ông già lẩn thẩn chuyên lo những chuyện tào lao vô ích mà không tự biết sức mình. Không chỉ vậy, cuộc đời Khổng Tử thực tế cũng khá lao đao lận đận. Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, ông dẫn học trò đi khắp các nước chư hầu trong vùng để truyền bá và tìm người có quyền thế sử dụng các tư tưởng-chủ trương chính trị của mình. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng lắm lúc bị coi thường.
Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (phụ trách hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông phải từ chức và lại ra đi một lần nữa. Cuộc đời thăng trầm của ông được mô tả khá chi tiết qua Sử ký (“Khổng Tử thế gia”) của Tư Mã Thiên và nhất là ở bộ Luận ngữ, một tập hợp những "mẩu đối thoại ngắn", biên soạn nhiều năm sau khi Khổng Tử qua đời và do các học trò của ông ghi chép lại. Về phần này, nói về cuộc đời Khổng Tử, nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã có công kết hợp các tài liệu mô tả khá tỉ mỉ trong quyển Khổng Tử (NXB Văn Hóa Thông Tin, 2006), nên ở đây xin không chép lại e rườm.
Điểm đáng chú ý nhất là khoảng thời gian gần cuối đời, khi đó có lẽ Khổng Tử đã biết mình thất bại, nên than “Đạo chi bất minh dã, ngã tri chi hĩ” (Đạo ta không sáng ra được, ta biết điều đó rồi). Rồi ông cũng có những nỗi buồn đời thường khác, giống như mọi con người.
Năm 484, khi đã 69 tuổi, Khổng Tử không được các quý nhân thời đó (như Lỗ Ai Công, Quý Khang Tử…) trọng dụng mời tham chính, mà chỉ thỉnh thoảng hỏi thăm ý kiến về chính sự khi cần. Khoảng thời gian này, con ông là Bá Ngư (tức Khổng Lý) và đứa học trò ruột Nhan Hồi lần lượt lìa bỏ cuộc đời. Khi hay tin Nhan Hồi chết, ông rất tiếc thương, khóc lóc thảm thiết. Bốn năm sau (480 TCN), một đệ tử khác, Tử Lộ, chết bất đắc kỳ tử ở nước Vệ trong một cuộc nổi loạn, chỉ vì thói kiêu dũng. Chung quanh ông chỉ còn lại Tử Cống là học trò thân tín. Từ đó ông thường xuyên đau bệnh, sức khỏe ngày càng suy kém.
Năm sau nữa (năm 479), một hôm Tử Cống tới thăm, thấy ông chống gậy trước cửa. Ông hỏi sao tới trễ vậy, rồi rớt nước mắt nói lời cuối cùng với Tử Cống: “Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây”. Bảy ngày sau, ông mất ở Lỗ, thọ 71 tuổi.
Cuộc đời Khổng Tử có nhiều đợt thăng trầm, nhưng được nhắc tới nhiều nhất có lẽ là khoảng thời gian ông gần như bị bỏ rơi…Trong quá trình luân lạc, tìm cách du thuyết cứu đời, giai đoạn cô đơn thê thảm nhất của Khổng Tử có lẽ là cảnh con chó mất chủ (Táng gia chi cẩu/ Táng gia chi khuyển). Chữ “táng” cũng đọc “tang” nên có người dịch thành “tang gia chi chủ” (chó nhà có tang, hay chó nhà táng), nghĩa nào cũng buồn như nhau. Mô tả sinh động đoạn này, Sử ký (Khổng Tử thế gia) chép rõ:
“Khổng Tử đến nước Trịnh, thầy trò lạc nhau. Khổng Tử đứng một mình ở phía đông cửa thành. Có người nước Trịnh bảo Tử Cống: ‘Ở cửa Đông có một người trán giống Nghiêu, cổ có vẻ Cao Dao, vai ông ta giống Tử Sản, nhưng từ lưng trở xuống thì kém vua Vũ ba tấc, có vẻ băn khoăn lo lắng như con chó ở nhà có tang’. Tử Cống nói thực với Khổng Tử. Khổng Tử cười mừng rỡ mà rằng (lẽ ra phải nói “Khổng Tử cảm khái vô hạn cười mà rằng…”-TVC): ‘Hình dáng bên ngoài là việc vụn vặt, nhưng nói giống như con chó của nhà có tang thì đúng làm sao! Đúng làm sao!” (xem Sử ký tập I, bản dịch của Nhữ Thành, NXB Văn Học in lần thứ hai, Hà Nội, 1971, tr. 227).
(Viện Khổng Tử tại Đại học Chicago, Hoa Kỳ. Nguồn: www.baomoi.com)
Chưa chắc Tư Mã Thiên có được tư liệu gì đích xác để chép lại được đoạn văn sinh động như trên, nhưng với lương tri và sự nhạy bén của nhà Nho đồng hành lý tưởng, chắc chắn họ Tư Mã có thể cảm nhận và tưởng tượng ra được tình cảnh bi đát của Khổng Tử lúc đó.
Thành thử, dựa một phần vào những ý ghi trên của Sử ký, trong khi ở Trung Quốc gần đây có phong trào đề cao Khổng Tử, gọi là cơn sốt (đề cao) Khổng Tử (“Khổng Tử nhiệt”, “Nho giáo nhiệt”…), như một cách đề cao tinh thần dân tộc vì lý do chính trị này khác, thì có một số bậc thức giả-học giả Trung Quốc muốn nhận dạng lại chân dung nhân vật Khổng Tử một cách khách quan hơn, coi ông chỉ như một người trí thức tích cực với đời, muốn đem hoài bão tư tưởng của mình để hoán cải xã hội nhằm tạo lập một thế giới đại đồng, nhưng thất bại, chứ không có tính cách gì là thần thánh.
Được biết thêm, sau đó Khổng Tử đi qua Trần, không làm gì được, rồi buồn bỏ Trần, quay trở lại đất Bồ, sau nữa qua Vệ, qua Thái, rất long đong cơ khổ, luẩn quẩn ở Trần và Thái, có lúc bùi ngùi nói với Tử Lộ “Nếu thiên hạ thịnh trị thì Khâu này cần gì phải sửa đổi nữa?” (Luận ngữ, “Vi Tử”). Người Thái thấy sự có mặt của ông bất lợi, bàn nhau đem quân lại vây thầy trò lúc đó đương ở giữa một cánh đồng, không chạy kịp, bị vây và tuyệt lương, nhiều môn sinh lâm bệnh, liệt giường… Trong suốt mấy mươi năm, trên đường du thuyết, Khổng Tử và đoàn tùy tùng chừng một, hai chục môn đồ cật ruột có lúc phải nhịn đói, mặt xanh như tàu lá!
Hoàn cảnh của ông đã được mô tả một cách cảm khái qua hai câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu:
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần lúc Khuông…
Hoặc nói như nhà thơ Phan Duy Nhân, mà tôi nhớ mang máng:
Xe tứ mã gập ghềnh sang nước Vệ,
Ngó lại mình lạc mất hết Thi, Thư…
Như thế có thể là vì nhóm Khổng Tử quá tích cực nhưng ngây thơ, không thấu tỏ tâm lý của kẻ thống trị. Tâm lý này, Hàn Phi Tử (mất khoảng năm 233 TCN), đại diện phái Pháp gia, người đi sau Khổng Tử chừng hơn 2 thế kỷ, có lẽ rành hơn, đã phát biểu trong bài “Thuế nan” (Du thuyết khó), nhờ rút được nhiều kinh nghiệm của người đi trước, và không “quá cảm tính” như nhóm Khổng Tử: “Du thuyết khó, nhưng không khó ở chỗ trí thức của ta đủ thuyết phục được vua chúa hay không, cũng không khó ở chỗ khẩu tài của ta phát biểu được rõ ý của ta hay không, mà khó ở chỗ hiểu được tâm lý đối phương để cho lời của ta hợp với tình ý của họ. Như đối phương nghĩ tới danh dự thanh cao mà ta đem tài lợi ra thuyết thì tất họ cho ta là bỉ lậu, tư cách đê hèn mà không dùng ta. Nếu đối phương nghĩ tới tài lợi mà ta đem danh dự thanh cao ra thuyết thì họ cho ta là không biết mưu tính, không hiểu sát sự tình, tất không thu dụng ta. Đối phương trong lòng thích tài lợi mà ngoài mặt làm bộ thích danh dự thanh cao, nếu ta đem danh dự thanh cao ra thuyết thì bề ngoài họ thu dùng ta mà thực tâm xa lánh ta; nếu ta đem tài lợi ra thuyết thì bề trong họ dùng lời ta mà bề ngoài họ xa bỏ ta. Những điều đó không thể không xét được” (Nguyễn Hiến Lê dịch, trong Cổ văn Trung Quốc, tr. 63).
Ý tứ sâu sắc quá. Bọn cầm quyền thời đó thật ra chỉ ham tài lợi, và quyền lực để chiếm hữu, bảo vệ tài lợi, Khổng Tử đem những điều danh dự thanh cao ra thuyết, mà không thất bại mới là chuyện lạ! Xét ý kiến của Hàn Phi Tử, rõ ràng Khổng Tử là một ông nhà Nho lẩm cẩm ở giữa chợ đời! Mạnh Tử (372-289 TCN), người có chủ trương-lý tưởng gần giống như ông, có lẽ vì quá lo cho đời mà cũng vấp phải tình hình bị đối xử tượng tự, nhưng ít bi đát hơn. Họ đều không nghĩ tới cái lý Hàn Phi Tử đã phân tích “Nếu đối phương nghĩ tới tài lợi mà ta đem danh dự thanh cao ra thuyết thì họ cho ta là không biết mưu tính, không hiểu sát sự tình, tất không thu dụng ta”.
Thời gian mấy năm gần đây, trong cơn sốt đề cao Khổng Tử (Khổng Tử nhiệt) ở Trung Quốc, đã nảy ra cuộc tranh luận giữa một số học giả, tạm chia làm hai phái, mà một phái tiêu biểu là giáo sư Lý Linh, tác giả sách Chó nhà tang: Tôi đọc Luận ngữ (Táng gia cẩu: Ngã độc Luận ngữ, NXB Nhân Dân Sơn Tây, 2007), bị nhiều người sùng bái Khổng Tử chỉ trích, nhưng được Lưu Hiểu Ba (người nhận giải Nobel Hòa bình năm 2010) ủng hộ.
Họ Lưu viết bài “Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa: Bàn về cơn sốt Khổng Tử hiện nay” (xem bản dịch tiếng Việt của Phan Trinh: www.procontra.asia), không phải để chỉ trích Khổng Tử chống lại những người sùng bái, mà với ý muốn tìm lại sự thật cho Khổng Tử: một trí thức nhiệt tâm khi thì bị ruồng rẫy, lúc thì được phong thánh, được gán cho nhiều điều vốn dĩ không có.
Đại khái họ Lưu cho rằng, “Khi ông (GS Lý Linh) gọi Khổng Tử là chó nhà tang (táng gia cẩu), ông nhắc ta nhớ rằng Trung Quốc thời Xuân Thu (770-476 TCN) tầng lớp trí thức đã phải sống trong bất an, cả trong sợ hãi, tài năng của họ thường không được trọng dụng, và trong hoàn cảnh đó, một ‘kẻ có lý tưởng nhưng không tìm được quê hương tinh thần của mình’ thì không khác gì con chó nhà tang mất chủ ngơ ngáo. Nhưng theo tôi, giáo sư Lý nói rằng Khổng Tử thiếu ‘quê hương tinh thần’ là đã cho ông hơi nhiều điểm. Sự thật là ông đi khắp đó đây không phải để tìm quê hương tinh thần của mình, mà là tìm một chỗ để làm quan. Mục tiêu lớn của ông là trở thành quân sư, nhưng ông đã thất bại. Ông là con chó nhà tang không chủ, nhưng nếu được kẻ cầm quyền nào tin dùng, thì chú chó không chủ kia đã trở thành chó gác cửa (khán môn cẩu)”.
Họ Lưu nói thẳng quá chăng? Sau bài viết này vào tháng 9.2007, ông đã làm mích lòng một số người đang tái đề cao Khổng Tử một cách cuồng nhiệt thái quá, và đã nhận một làn sóng công kích dữ dội từ phía những tân tín đồ Khổng Tử trong nước. Nhưng công bằng mà nói, Khổng Tử quả đã đi bôn ba khắp các nước chư hầu là để tìm người tri kỷ thực hiện chính sách do mình đề nghị. Ông không xu phụ cường quyền, không nói nịnh kẻ phú quý, vì làm việc đó chắc cũng cảm thấy e ngại, mắc cỡ, không xứng danh bậc quân tử. Nhưng phải thành thật nhận rằng, cái khuynh hướng chung của phần tử trí thức xưa nay vẫn là muốn được giới cầm quyền để mắt biết tới mình mà trọng dụng, gọi là “duyên tri ngộ”, để nhằm thực hiện hoài bão, vì thế Khổng Tử đương nhiên cũng hi vọng các thế lực cầm quyền lúc đó giúp ông hành đạo, thực hiện chủ trương chính trị lý tưởng. Đây cũng chính là con dao hai lưỡi mà người trí thức thường khó tránh, nếu không khéo, vì nhận được sự đãi ngộ của quân vương (ban cho chức tước, vàng bạc, xe tứ mã…), họ rất dễ bị tha hóa trở thành loại trí thức nô dịch, chuyên làm chỗ dựa để biện minh cho những chính sách sai lầm, đè ép quần chúng của các nhà cầm quyền. Đó là ý nghĩa của câu dẫn trên, “…là con chó nhà tang không chủ, nhưng nếu được kẻ cầm quyền nào tin dùng, thì chú chó không chủ kia đã trở thành chó gác cửa”. Vì thế, người trí thức chân chính đứng về phía nhân dân phải luôn biết đề cao cảnh giác khi nhận chức tước, ân sủng của các nhà cầm quyền, coi chừng bị biến thành con chó gác cửa hồi nào không hay. Tốt nhất, họ nên giữ vai trò tương đối độc lập đối với chính quyền.
Đó cũng là lý do tại sao nhóm thiểu số Lưu Hiểu Ba cực lực phản đối thái độ đề cao, sùng bái quá đáng Khổng Tử của một số tác giả hiện nay ở Trung Quốc, chứ không phải phản đối bản thân học thuyết Khổng Tử mà bất cứ một người có lương tri nào cũng có thể tìm thấy trong đó nhiều điểm tích cực có thể đem ra tham khảo, áp dụng một phần cho thời hiện đại.
Về chính trị, Khổng Tử đưa ra nhiều quan điểm tích cực, như phải làm cho dân giàu, dạy dân cho tốt (“phú chi, giáo chi”…). Về phương diện cá nhân, nếu ai cũng biết tu thân và hành xử theo đạo trung dung (không thái quá, không bất cập) như Khổng Tử, cũng có một số mặt tốt…
Thật ra, có lẽ chẳng cần viện dẫn Nho giáo, giả định nhà cầm quyền nào hiện nay cũng có trách nhiệm làm cho nhân dân được ấm no hạnh phúc, thế giới hòa bình, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, dân chúng được giáo dục đầy đủ…thì không theo Khổng giáo coi như cũng đã theo rồi, chẳng qua khác đường nhưng về chung một chỗ vậy thôi (“thiên hạ đồng quy nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự”…). Cái khác chỉ là ở Danh với Thực, cách mô tả vấn đề, và thực chất của vấn đề. Nếu đã nghĩ được vậy thì thực tế không cần sùng bái hay hạ bệ Khổng Tử, trừ lý do chính trị đặc biệt này khác, mà cần nhất tìm hiểu-nghiên cứu tư tưởng của ông một cách sâu sắc để tùy nghi tham khảo ứng dụng hoặc không, giống như người ta nghiên cứu Phật học, hay chủ nghĩa Mác vậy thôi.
Không có gì phải hạ bệ, cũng không có gì phải sùng bái, đề cao quá đáng, biến một học thuyết thành giáo điều, vì như thế luôn có hại, trừ khi người nào đó là tín đồ thuần thành của một tôn giáo nào đó, thì họ có quyền tự do sùng bái, tín ngưỡng. Mà Khổng giáo vốn không hẳn là một tôn giáo, có thể nó chỉ là nhân sinh quan-vũ trụ quan và triết lý xã hội, trong khi thật ra cũng không có ai, trong thời đại bây giờ, là tín đồ hoàn toàn của Khổng giáo, muốn áp dụng triệt để Khổng giáo vào đời sống cá nhân hay công tác xã hội.
Về việc lập thêm các miếu thờ Khổng Tử, theo tôi làm cũng được, không làm cũng được, nhưng chớ để tốn phí quá, vả lại, ở đâu có quá nhiều hình thức thì ở đó hẳn sẽ rất ít nội dung.
Tóm lại, nếu không có sự áp đặt, hay mưu toan phục hồi gì gì đó chế độ phong kiến (điều không thể làm được), người ta cũng không cần băn khoăn, thắc mắc việc phế bỏ hay “quét sạch tàn dư” Khổng giáo chi cả. Cũng không bắt buộc đề cao nó một cách cuồng nhiệt. Trái lại việc nghiên cứu sâu thêm về Khổng Tử và học thuyết Nho giáo, thậm chí đưa vào chương trình sách giáo khoa triết học bậc đại học với tư cách nó là một học thuyết lớn như nhiều hệ thống tư tưởng khác của nhân loại, cũng là một việc đáng xét đáng làm.
Nguồn: tác giả, 12.1.2013