I. Biển trong phong tục tập quán của Nhật Bản
Có thể nói, hình ảnh của biển xuất hiện thường xuyên trong các phong tục của người Nhật, đặc biệt là người dân sống ở tỉnh ven biển, như tục ném gáo xuống nước cho những oan hồn của người chết đuối ở biển để họ không làm hại thuyền của mình khi đi biển, rồi các truyền thuyết về quỷ biển, về “ hải kỳ vật” ( là một loại yêu quái ở biển, người nào nhìn thấy nó, nó sẽ biến thành người giống hệt người đó)... Biển gắn bó thân thiết với người Nhật đến mức trong các dịp lễ đặc biệt trong năm, có riêng một ngày gọi là “ ngày của biển” ( Umi no hi), đó là ngày thứ Hai thứ 3 của tháng 7. Vào ngày này, những người dân sống ven biển sẽ lên thuyền đi ngắm cảnh biển vào lúc sáng sớm, đồng thời “ làm sạch” cho biển, người bạn thân thiết của họ bằng cách vớt rác, hay xác những sinh vật phù du đang bập bềnh trong nước biển ở ven bờ... Trong tiếng Nhật gọi là “ Kaihin seiso”. Lúc ấy, hoa HAMAHIRUGAO bắt đầu nở bên bờ biển, mọi người cho thuyền kề vào thưởng thức, tạo nên một cảnh quan thật đẹp, con người và thiên nhiên giao hòa...
Một điều đặc sắc nữa, có lẽ không phải chỉ có ở Nhật Bản, song thường xuyên xuất hiện và được nâng lên thành một nghệ thuật, thì chỉ ở Nhật Bản mới có, đó là các thành phần từ biển trong món ăn Nhật. Chất đạm và chất khoáng cần thiết được lấy chủ yếu từ cá và rong biển. Từ những nguyên liệu cơ bản này, người Nhật Bản đã sáng tạo ra các món ăn dân tộc bằng óc thẩm mỹ, sự khéo tay và khẩu vị tinh tế. Từ các món ăn truyền thống (như Sashimi- cá sống cắt lát mỏng ăn với nước chấm phù hợp, Sushi- cơm cuộn rong biển hoặc nắm với các loại hải sản sống) đến những hương vị hiện đại (như tương chấm, bột), người Nhật có rất nhiều món ăn chế biến từ cá. Chính điều này khiến cho ẩm thực của đất nước mặt trời mọc thêm ấn tượng và một mang sắc thái rất riêng.
Người Nhật thích ăn các loại cá và ưa chuộng nhất vẫn là cá biển, trong đó phải kể đến cá ngừ, cá hồi, cá đuôi vàng, sò điệp... Cá có mặt thường xuyên trong từng bữa cơm gia đình cũng như tại các nhà hàng sang trọng, tiệc cưới. Hầu hết người Nhật đều biết một thứ có thể gọi là “thời gian biểu” ăn cá, đó là những lưu ý cụ thể, đơn giản như: khi nào thì ăn cá sống, khi nào thì ăn cá đã qua chế biến chín, thời điểm nào ăn cá hồi sông, khi nào thì ăn cá hồi biển, lúc nào nên thưởng thức cá ngừ đại dương...
Cách thức chế biến phổ biến và truyền thống nhất của người Nhật là nướng cá với một ít muối rắc phía trên. Nhưng tùy từng loại cá, mức độ to bé của thân cá, cá tươi hay cá ướp mà họ chế biến thành các món khác nhau. Đối với cá tươi, có thể cắt chúng thành những lát Sashimi, hoặc với những loại cá nhỏ, nhiều mỡ thì có thể tẩm bột rán, nướng, luộc... Những cách thức chế biến khác nhau khi đi kèm với nhiều nguyên liệu đều tạo cho món ăn sự cầu kỳ và hương vị thơm ngon, lạ miệng. Ngoài ra, con người nơi xứ sở mặt trời mọc còn chế biến cá thành thực phẩm dự trữ có giá trị dinh dưỡng cao như bột, nước tương chấm.
Sashimi là món ăn truyền thống, món ăn đầu tiên trong mỗi bữa ăn của người Nhật. Sashimi có thể dịch ra tiếng Việt là "xẻo thân", tức là món ăn được làm từ những lát cá thái mỏng rất đẹp mắt. Món này thường được dùng với cơm và một chén súp Miso, ăn với xì dầu (soy - sauce) và cây cải ngựa băm nhỏ (wasabi).
Cá sống cũng thường được ăn theo kiểu Sushi - món ăn kèm với cơm, rau và một vài gia vị khác. Tuy nhiên, Sushi cũng có thể chế biến từ thịt cá đã làm chín. Có nhiều loại Sushi như Sushi nắm, Sushi cuộn, Sushi gói, Sushi lên men, Sushi rán… Mỗi địa phương ở Nhật lại có những nét riêng trong cách chế biến Sushi khác nhau.
Ngoài những món ăn truyền thống có trong mâm cơm thường ngày như Sashimi hay Sushi, người Nhật còn có những món nổi tiếng khác cũng được chế biến từ cá như: Tempura (một món gồm các loại hải sản, rau, củ tẩm bột mì rán ngập trong dầu); món Teriyaki (chế biến cá bằng cách ướp thịt cá đã lóc xương bằng nước xì dầu, vừa phết mỡ vừa nướng/luộc); Bento (hộp cơm truyền thống gồm cơm, cá hoặc thịt cùng một hoặc nhiều món rau ăn kèm được đặt vào một hộp gỗ hoặc giấy); Shake (món cá hồi muối) hay món ăn có tên Namasu (gồm các loại cá biển tuơi sống cắt lát và rau củ)…
Các món ăn từ cá đã tạo nên nét riêng độc đáo của ẩm thực Nhật Bản. Nếu như trong văn hóa ẩm thực Nhật phụ thuộc nhiều vào đặc sản theo từng mùa thì món từ cá là điển hình của điều đó. Từ cách chế biến các loại cá, gia vị đi kèm... đều phải phụ thuộc vào mùa, theo vùng (nói cụ thể là tùy theo thời tiết). Hơn nữa, khi chế biến thức ăn, người Nhật rất coi trọng màu sắc, sự đẹp mắt của món ăn. Điều đó được thể hiện ở sự tỉ mỉ, tinh tế khi chế biến và bày biện món ăn rất cầu kỳ, bắt mắt.
Không chỉ với món ăn truyền thống mà rất nhiều các món ăn làm từ cá ở Nhật Bản khi thưởng thức người ta đều cảm nhận được một hương vị đặc biệt, vừa lạ miệng vừa thơm ngon quen thuộc. Có lẽ vì thế, cá đã trở thành nguyên liệu có một vị trí số 1 khi người ta nhắc tới văn hóa cũng như danh sách ẩm thực của đất nước mặt trời mọc này.
II. Biển trong văn học Nhật Bản
Nhật Bản được tạo nên bởi bốn hòn đảo chính, nên hình ảnh của biển trong các tác phẩm văn học là điều dễ nhận thấy. Người Nhật thời xưa còn tưởng tượng dưới biển có một cuộc sống như trên mặt đất, thể hiện qua truyện cổ tích về chàng Urashima Taro.
Truyện cổ tích kể rằng có một chàng ngư phủ nghèo tên là Urashima Taro đã cứu được một chú rùa nhỏ từ tay bọn trẻ ác độc, và thả chú về biển khơi. Ở Nhật Bản, người ta quan niệm rằng rùa là con vật sống lâu nhất và là quân hầu của Long Vương, vua của Thủy cung, hay còn gọi là vua Thủy tề. Do đã cứu được chú rùa của Long Vương, nên chàng được Long Vương mời xuống Thủy cung khoản đãi yến tiệc linh đình và gả công chúa cho. Tuy sống bên người vợ trẻ đẹp trong cung điện nguy nga dưới Thủy cung, nhưng Taro vẫn không nguôi nhớ về quê hương và cha mẹ của mình. Song khi chàng trở lại quê nhà, thì mới hay đã bốn trăm năm qua đi, mọi người thân đều đã qua đời, không ai còn nhận ra chàng...Một năm sống dưới Thủy cung bằng một trăm năm trên mặt đất...Nội dung truyện Taro gần giống với truyện Từ Thức gặp tiên ở nước ta, có lẽ do sự tương đồng về văn hóa giữa hai nước. Qua đó, ta thấy được sự tưởng tượng phong phú về cuộc sống dưới biển của người Nhật thời xưa. Tuy mô típ về Thủy cung và Long Vương cũng xuất hiện trong truyện cổ Trung Quốc và Việt Nam, song những người có thể xuống được Thủy cung ở những chuyện này, đều là những nhân vật siêu nhiên hay anh hùng, như Tôn Ngộ Không trong Tây du kí của Trung Quốc, hay Thạch Sanh ở Việt Nam. Còn ở Nhật Bản, Taro chỉ là một chàng ngư phủ nghèo, cũng có thể xuống Thủy cung và kết duyên cùng công chúa Thủy tề, cho thấy sự thân thiết của biển cả và người dân Nhật.
Như chúng ta đã biết, Nhật Bản được tạo nên từ rất nhiêu hòn đảo, yếu tố đảo đóng vai trò quan trọng tạo nên nền văn hóa riêng biệt cho đất nước này. Hình ảnh các hòn đảo cũng thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm văn học, thậm chí ngay trong truyện cổ tích, ví dụ như truyện về chàng Momotaro đi diệt trừ ác quỷ sống trên một hòn đảo. Momotaro vốn là cậu bé sinh ra từ quả đào lớn ( trong tiếng Nhật, Momotaro nghĩa là “ Đào Thái Lang”) mà một đôi vợ chồng già không con cái nhặt được dưới suối. Được cha mẹ nuôi chăm sóc cẩn thận, Momotaro lón nhanh như thổi, trở thành cậu bé khỏe nhất làng. Nghe nói về bọn quỷ sống trên đảo luôn quấy nhiễu dân trong vùng, cậu quyết định từ biệt cha mẹ lên đường diệt trừ bọn quỷ. Nhờ vào thức ăn ngon mà mẹ cậu chuẩn bị, Momotaro thu phục được ba con vật: chó, chim trĩ và khỉ, và nhờ sự giúp sức của chúng, cậu đã chiến thắng bọn quỷ, buộc chúng trả lại của cải đã cướp đoạt của dân chúng. Truyện Momotaro phản ánh khát vọng chiến thắng mọi thế lực siêu nhiên đe dọa cuộc sống bình yên của người dân Nhật Bản. Chi tiết lũ quỷ sống trên đảo cho ta thấy rõ nhất ảnh hưởng của biển trong văn hóa Nhật, bởi nếu là một nước châu Âu lục địa nào đó, có lẽ lũ quỷ sẽ sống trong một tòa thành kiên cố, còn ở Trung Quốc, thì quỷ ( hay yêu quái) sẽ sống trong hang động ( tiêu biểu là truyện Tây du kí)
Gần đây, “Kanikosen” (Thuyền đóng hộp cua - A Crab-Canning Boat) - một tác phẩm dòng văn học Mácxít, sáng tác năm 1929 đã vượt lên đứng đầu danh sách các cuốn sách bán chạy nhất Nhật Bản, phản ánh tâm thế âu lo của xã hội Nhật về nạn thất nghiệp và khoảng cách thu nhập tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này. “Kanikosen” là câu chuyện về một nhóm thủy thủ làm việc trên một chiếc tàu bắt cua, phải hứng chịu sự ngược đãi của tên thuyền trưởng độc ác. Tác giả của tiểu thuyết trên là nhà văn Takiji Kobayashi, một đảng viên Đảng Cộng sản Nhật Bản đã bị cảnh sát chế độ quân phiệt tra tấn đến chết hồi năm 1933. Năm đó nhà văn này mới 29 tuổi. Qua tác phẩm này, chúng ta thấy được ảnh hưởng của biển trong đời sống người dân, chắc chắn hình ảnh các đoàn thuyền đánh bắt hải sản ở Nhật rất quen thuộc, nên câu chuyện về tàu đóng hộp cua mới dễ hiểu và được đón nhận như vậy, ngoài nguyên nhân chính khiến tác phẩm được yêu thích là nội dung có giá trị hiện thực sâu sắc.
III. Biển trong nghệ thuật Nhật Bản
Nói đến nghệ thuật Nhật Bản, chúng ta không thể không nhắc đến nghệ thuật tạo hình vườn cảnh. Nhật Bản có rất nhiều vườn cảnh nổi tiếng nhưng tất cả đều được xây dựng trong sân của các Thiền viện, trà thất và nhà ở. Đó là những nét khác lạ của vườn Nhật so với các vườn kiểu khác trên thế giới. Nhưng giá trị quan trọng nhất của vườn cảnh Nhật không phải là vị trí mà là thẩm mỹ Thiền nằm sâu trong nó. Chính giá trị thẩm mỹ Thiền ẩn dấu trong từng chi tiết đã khoác lên vườn cảnh một vẻ đẹp đơn sơ mà cuốn hút khiến cả thế giới đang ra sức học hỏi vẻ đẹp đó. Nhật Bản có lịch sử tạo vườn hơn 1300 năm. Theo ghi chép của Nihon Shoki, ngay dưới triều Thiên hoàng Suiko (592 - 626) ngôi vườn đầu tiên của Nhật đã được hình thành. Đó là vườn của Tể tướng Sagano Umako được thiết kế có "một hồ nước nhỏ đào ở sân trong, ở giữa có hòn đảo nhỏ". Cuốn sách nổi tiếng bàn về việc thiết kế vườn cảnh do Tachibanano Toshitsumi viết vào nửa sau thế kỷ XI cho chúng ta thấy người Nhật đã phát triển được một phong cách thiết kế vườn riêng biệt. Họ bố trí ao hồ, những hòn đảo tí hon và các mô đất để tượng trưng cho biển, đảo và núi. Các hòn đảo trong một cái ao phải được đặt lệch nhau với những đường nét uốn éo trông giống như những mảng sương mù. Người Nhật tạo ranh giới giữa đất và nước bằng những hòn cuội nhỏ, tượng trưng cho một bãi biển bằng cát. Bờ biển phải luôn có vẻ hoàn chỉnh và ngay cả khi mặt nước chỉ lên xuống chút xíu. Vào thời Kamakura, mối giao lưu quan hệ văn hoá Nhật Bản và Trung Quốc được khôi phục. Các nhà làm vườn rất say mê ứng dụng những khuynh hướng mới nhất của Trung Quốc, trong đó có tranh Suibokuga (tranh thuỷ mạc). Dựa vào phong cách vẽ tranh, các nhà làm vườn đã cố lựa chọn các hòn đá, khối đá có hình thù đặc biệt tượng trưng cho núi non mọc lên trên một bãi cát trắng tượng trưng cho biển cả. Đó là kiểu vườn Karesansui (sản thuỷ khô). Thời Muromachi, vườn "cảnh khô" sử dụng đá và cát trắng tạo thành rất được thịnh hành tuy vẫn sử dụng kỹ thuật Sakuteiki thời Fujiwara với thực vật, nước và đá là chủ yếu.
Vườn Karesansui, mà đại diện nhất là khu vườn nằm trong chùa Ryoanji, người làm vườn dùng đá, sỏi, cát trắng để diễn tả về biển, núi và gợi lên vẻ đẹp đơn giản của Thiền. Những vườn có phong cách giống vườn chùa Ryoan thường nhấn mạnh vẻ đẹp qua sự đơn giản nhưng thực chất không phải như vậy. Một lớp sỏi hoặc cát trắng được trải rộng ra toàn bộ khu vườn để diễn tả biển. Những đường lăn tăn, gợn sóng gợi lên hình ảnh những con sóng ngoài khơi. Những đường cong nhỏ, mảnh, sít lại gần nhau diễn tả mặt biển êm, ít sóng; những đường cong lớn, rộng lại gợi lên mặt biển dữ dội, đầy sóng to gió lớn. Trên một mặt phẳng nhỏ bé như vậy, người làm vườn tạo rất nhiều kiểu sóng khác nhau để tạo ra, gây cảm giác về biển cả rộng lớn. Nhật Bản lđược bao bọc tứ phía là biển vì vậy hình ảnh biển đối với việc thiết kế vườn có ý nghĩa rất lớn. Và chắc chắn do chịu ảnh hưởng bởi những suy nghĩ cảm giác về vị thế của nước mình là một hòn đảo nổi giữa biển mà việc bài trí các hòn đá để gợi lên hình ảnh các hòn đảo đá trở thành phổ biến. Những hòn đá có hình dáng sù sì, gồ ghề được sắp xếp một cách hài hoà với các độ cao thấp khác nhau nên vẻ đẹp tự nhiên của những hòn đá mọc lên một cách độc lập giữa biển. Những hòn đá này được xếp thành những nhóm ba, năm, bảy hoặc chín. Đó là những con số mà theo triết lý Phật giáo được cho là những con số may mắn. Vườn chùa Ryoanji nổi tiếng vì cách sắp xếp đá rất khéo léo tạo nên một bố cục không gian kỳ diệu của nó. Ngoài ra trên mặt biển cát trắng xoá thường nổi lên những hòn đảo Kameshima (đảo rùa) và Tsurushima (đảo hạc). Rùa và hạc là biểu tượng cho sự trường thọ, lâu dài theo triết lý Phật giáo. Loại vườn này không có cây, hoa, cỏ, nước hay bất kỳ yếu tố nào khác ngoài cát và đá nhưng nó vẫn gợi lên được hình ảnh những ốc đảo nhỏ trên mặt biển mênh mông.
Một lĩnh vực nghệ thuật chịu ảnh hưởng của biển mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó là hội họa. Những người không chuyên sâu nghiên cứu về Nhật Bản, cũng có thể biết đến bức tranh nổi tiếng : “ Sóng lừng ở Kanagawa” của danh họa Katsushika Hokusai. Đó là một trong 36 bức vẽ cảnh núi Phú Sĩ của ông, và là bức nổi tiếng nhất. Ngoài ra còn có hai bức tranh cũng vẽ cảnh núi Phú Sĩ nhìn từ biển, đó là bức “ Núi Phú Sĩ nhìn từ vịnh Noboto” và bức “ Núi Phú Sĩ nhìn từ bãi biển Shichiri ở Sagami”. Tại sao bức tranh nổi tiếng nhất trong bộ tranh 36 cảnh núi Phú Sĩ của Hokusai lại là bức vẽ núi Phú Sĩ nhìn từ trên biển ở Kanagawa? Có lẽ vì sóng biển đã quá quen thuộc và là đặc trưng của Nhật Bản. Chúng ta đều biết Nhật Bản có tới ¾ diện tích là núi non, nhưng xung quanh đều là biển. Một bức tranh vẽ ngọn núi nổi tiếng, nhưng nhìn từ trên biển dậy sóng, thực sự rất tiêu biểu cho Nhật Bản. Qua đó, chúng ta cũng thấy được ảnh hưởng sâu đậm của biển trong nghệ thuật Nhật Bản.
Như vậy, qua những dẫn chứng lý thú trên, chúng ta nhận thấy biển không chỉ là nguồn lợi kinh tế dồi dào của Nhật Bản mà còn là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến văn hoá- đời sống của người dân Nhật Bản, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của đất nước này. Người viết bài này mong muốn sẽ được tìm hiểu sâu sắc và kỹ càng hơn về ảnh hưởng của biển trong văn hoá Nhật Bản, giúp người đọc có thêm những thông tin thú vị và hữu ích.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Minh Thuỷ-Ngô Tự Lập, (2001), Nhật Bản-đất nước, con người, văn học, Nhà xuất bản Văn hoá-Thông tin, hà Nội.
2. Nhật Chiêu, (1997), Câu chuyên Văn chương Phương Đông, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
3. Tiến sĩ Hồ Hoàng Hoa, (2001), Văn hoá Nhật – Những chặng đường phát triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Bách khoa toàn thư Nhật Bản.
5. Nhật Chiêu, (1997), Nhật Bản, Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Mai Liên, Xuôi dòng văn học Nhật Bản, Đại học Sư phạm Hà Nội I.
7. George Sansom, (1994), Lược sử văn hóa Nhật bản, (2 tập), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. . George Sansom, (1994), Lịch sử Nhật bản, (3 tập), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Nhật Bản, (2002), (Bộ sách “Đối thoại với các nền văn học”, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
10. Lối lên miền Oku, (1999), dịch giả Vĩnh Sinh, NXB Thế giới, Hà Nội.
11. Sasaki Hachiro, Sozawa Tayoshi, Taniyama Shigeru, Kawasue Kuninori, (1994), Nhật bản văn học sử, Nhà xuất bản Kyoto Shoho, Nhật Bản.
12. Yondemitai Genji Monogatari, (2006), Kikuchi Nyryoshi biên tập, Nhà xuất bản Seito, Nhật Bản.
13. Các trang Web tham khảo:
1.http://www.nhatban.net/ttnb/a0109.html
2.http://www.thongtinnhatban.net/fr/t3145.html
3. http://www.raovat.com/thongtin/index.php?rv=detail&;id=4364&i dsub=29&idcate=151
4. http://leh.hcmuaf.edu.vn/contents.php?ids=1620&;ur=leh
5. http://www.japanest.com/forum/
6.http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=29919&;ChannelI D=8
8.ttp://www.nhatban.net/tdbk/category.php?categoryID=1&start=60
Nguồn: inas.gov.vn