Cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục của học giả Việt Nam Trương Đăng Quế dài 2400 chữ là một tài liệu tả thực hiếm thấy trong số các tác phẩm liên quan đến các sự kiện phiêu bạt trên biển ở Á Đông, là một minh chứng sống động của mối quan hệ lịch sử Việt Nam – Nhật Bản, có giá trị to lớn đối với cả hai nước. Tác giả Việt Nam Ngô Thế Long sớm chú ý đến tác phẩm này, đã chuyển ngữ sang tiếng Việt và đăng trên Tạp chí Hán Nôm kì 1 năm 1990. Tuy nhiên, tác giả này lấy tên bài viết là “Một tài liệu cổ do người Việt Nam viết về Nhật Bản – cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục”, ngoài việc đăng bài chuyển ngữ và nguyên văn ra, chưa đi sâu tìm hiểu nghiên cứu sâu hơn về tác phẩm, kể cả “Đại Quan Thành” – nơi các nạn dân Việt Nam đặt chân đến là nơi nào ở Nhật Bản tác giả cũng không tra cứu. Bài viết này nhằm tái nghiên cứu nội dung miêu thuật trong Nhật Bản Kiến Văn Lục nhằm giúp nhiều độc giả (trong đó có người Nhật Bản) hiểu rõ hơn giá trị đích thực của tác phẩm.
Dẫn nhập
Từ xưa đến nay ở khu vực Đông Á có rất nhiều trường hợp nhân dân Nhật Bản, Okinawa, Triều Tiên, Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Luzon v.v. mỗi khi gặp nạn bất ngờ phiêu bạt trên biển và được cứu tế ở một vùng đất (quốc gia) khác thường ghi chép lại các ký lục có giá trị. Do khoảng cách xa, từ Hàn Quốc đến Việt Nam hoặc từ Việt Nam đến Nhật Bản thường ít gặp, dù vậy không phải là không có. Theo chúng tôi được biết, trường hợp thứ nhất tiêu biểu có sự kiện người Jeju trôi dạt đến Việt Nam vào năm 1687([1]); trường hợp thứ hai là sự kiện phiêu bạt được ghi lại trong cuốn bút ký bằng chữ Hán khá hiếm thấy ở Việt Nam – cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục, thời gian vào khoảng 1815, từ Việt Nam trôi dạt đến Nhật Bản.
Bản thân tôi đã tham gia nghiên cứu Việt Nam học hơn 20 năm qua, đã xuất bản nhiều chuyên tác có liên quan đến Việt Nam, trong đó có cuốn “Thái Đình Lan và cuốn Hải Nam Tạp Trứ([2]), liên quan trực tiếp đến tú tài Thái Đình Lan người Bành Hồ phiêu bạt đến Việt Nam; ngoài ra tôi còn quan tâm các vấn đề “người Kim Môn ở Việt Nam” và “người Việt Nam lấy chồng ở Kim Môn, đã từng viết bài “Giữa Kim Môn và Việt Nam”([3]). Giờ đây lật lại ký ức về sự kiện phiêu bạt giữa Việt Nam và Nhật Bản, tôi tiến hành khảo sát tỉ mỉ nội dung ghi chép vô cùng quý báu của tác giả Việt Nam trong cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục về Nhật Bản, bổ sung thêm kết quả nghiên cứu cho bài viết “Một tài liệu cổ do người Việt Nam viết về Nhật Bản – cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục” của tác giả Ngô Thế Long.
2. Nội dung tả thực trong cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục
Theo ghi chép của Nhật Bản Kiến Văn Lục viết bằng chữ Hán ra đời đầu thế kỷ XIX, thời ấy có 5 người Việt Nam đi thuyền từ Gia Định ra Huế bằng đường biển, không ngờ giữa đường gặp bão nên đã trôi dạt đến Nhật Bản, các nhân vật đã ghi chép lại những điều tai nghe mắt thấy về phong cảnh, con người, sản vật, phong tục Nhật Bản v.v.. trong tác phẩm của mình. Tác phẩm này do tác giả Việt Nam Trương Đăng Quế ghi chép, là một tập bút ký tả thực hiếm thấy trong số các sự kiện phiêu bạt cùng loại ở Đông Á, có thể được xem là một minh chứng sống động cho mối quan hệ lịch sử Việt Nam – Nhật Bản, là một tài liệu quý giá cho cả Việt Nam và Nhật Bản.
Theo ghi chép của Nhật Bản Kiến Văn Lục, vào một ngày tháng tư năm Gia Long thứ mười bốn triều Nguyễn (Dương lịch 1815, năm 12 Văn hóa Nhật Bản) 5 nhân vật trong đó có Đặng Hữu Hoàn([4]), Nguyễn Duy Thực v.v. từ thành Gia Định đã đi thuyền mộc bản về kinh đô Huế giữa đường gặp phải giông bão đã phiêu bạt ngoài biển. Ngày 7 tháng 5 họ lạc đến một bãi cát có giếng nước ngọt uống được ngoài biển khơi, ngày hôm sau được một người Trung Quốc (đời Thanh) phát hiện, nhưng ngôn ngữ bất đồng người ấy chỉ gởi lại một ít lương thực rồi bỏ đi. Những nạn dân người Việt Nam này ăn hết lương thực đành bắt chim mò ốc ăn tiếp, họ thiết nghĩ rằng đó cũng không phải là phương cách tốt để tồn tại, do vậy ngày 15 tháng 6 họ đã tạo một chiếc thuyền nan con rồi phiêu lưu trên biển, đói thì bắt cá hai bên mạn thuyền ăn, khát thì uống nước sương rơi, khổ không thể tả. Hai tháng sau vào ngày 15 tháng 8, họ trôi dạt đến một hòn đảo thì được cứu, người trên đảo viết chữ báo cho họ biết “đây là đất Nhật Bản”. Năm người Việt Nam đã ở trên hòn đảo đó 3 ngày, sau đó được đưa đến hòn đảo gọi là Trung Quân điếm hay Thất Ma trấn. Họ đã ở lại hòn đảo Thất Ma Trấn hai mươi mấy ngày, lại tiếp tục thêm mười mấy ngày nữa, rồi cuối cùng được đưa đến một tòa thành to lớn mà nhân dân gọi là Đại Quan Thành. Lúc ấy là đã hơn 5 tháng kể từ ngày họ gặp nạn. Rốt cục 5 người bị nạn đã ở Nhật Bản bao lâu? Cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục không nhắc tới điều này mà chỉ bàn đến những mối quan hệ giữa người Nhật Bản và thương nhân người Thanh. Người Nhật Bản đem giấy tờ tùy thân của các nạn dân đi hỏi thương nhân Trung Quốc mới biết lai lịch của họ, đồng thời nhờ những thương nhân này giúp đưa họ về Việt Nam. Họ đã mất bao lâu mới về được Việt Nam? Điều này không ai rõ, chỉ biết rằng cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục của Trương Đăng Quế xuất hiện vào năm Minh Mạng thứ 9 (1828), tức sau sự kiện phiêu bạt đến 13 năm. Nếu như chúng ta căn cứ vào các chi tiết về văn hóa và xã hội Nhật Bản được ghi chép trong cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục, chẳng hạn chi tiết giữa tháng 9, tháng 10 thường có mưa tuyết, tháng 5, tháng 6 là mùa hạ không quá oi bức, đồng thời khảo sát âm dịch tiếng Nhật Bản của các bài toán số và ngôn ngữ đời sống Nhật Bản trong phần Phụ lục, ta có thể ước đoán rằng 5 người Việt Nam đã ở lại Đại Quan Thành Nhật Bản từ một năm trở lên.
Cuốn Nhật Bản Kiến Văn Tạp Lục của Trương Đăng Quế dài 2400 chữ, phần phụ lục có thêm 10 bài toán số Nhật Bản và 47 dịch âm chữ Hán của tiếng Nhật Bản thông dụng, hiện thư viện của Viện Nghiên Cứu Hán Nôm Hà Nội đang lưu giữ một bản sao([5]), tác giả Việt Nam có biết đến tác phẩm này, đồng thời còn dịch sang tiếng Việt và đăng trên Tạp Chí Hán Nôm[6]. Chỉ có điều ngoài phần chuyển ngữ tiếng Việt và đăng lại toàn bộ nguyên văn, bài viết không đi sâu nghiên cứu nội dung cũng như không khảo sát Đại Quan Thành là địa phương nào ở Nhật Bản.
3. Đại Quan Thành trong cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục
Cho đến nay qua so sánh đối chiếu với văn bản tiếng Nhật có liên quan, chúng tôi có thể công bố rằng Đại Quan thành chính là Nagasaki.
Kiểm tra quyển thứ 6 của bộ Tăng Bổ Trường Kỳ Lược Sử (niên đại Văn hóa Nhật bản năm 12, tức năm Ất Hợi 1815) có viết: “tháng 8 có đoàn người An Nam thuyền nát đã trôi dạt đến đảo Yakushima ở Gushu”([7]).
Ta lại tiếp tục tra cuốn Trường Ký Chí Tục Biên có cuốn thứ 9 có phần ghi chép “Người nước ngoài phiêu bạt đến Nhật Bản” chuyên ký lục các chi tiết người nước ngoài nhập cảng, thì quả nhiên có chi tiết “người Việt Nam từ Tát Châu đưa tới”([8]), có ghi chép tỉ mỉ rằng ngày 13 tháng 8 năm Văn hóa Nhật Bản thứ 12 (Ất Hợi 1815) có 5 người ngoại quốc trôi dạt đến đảo Yakushima của quận Gushu (Ngung Châu), người trên đảo trình báo và đến ngày 18 tháng 11 đã cử thuyền đưa họ đến Nagasaki. Dù rằng chính quyền Nagasaki tiến hành chất vấn nhưng ngôn ngữ bất đồng, vì vậy đã nhờ đến người Đường giúp phiên dịch nhưng ngôn ngữ vẫn bất đồng, có điều trong 5 người có một người biết viết chữ bèn yêu cầu họ viết họ tên, năm sinh; sau đó đã đưa 5 người đến cư trú tại Hội quán thương nhân Trung Quốc. Tên tuổi 5 người Việt Nam gồm
- Đội trưởng Bái 44 tuổi
- Đội trưởng Kính 43 tuổi
- Ngũ trưởng Lương 44 tuổi
- Ngũ trưởng Thực 46 tuổi
- Ngũ trưởng Bình 33 tuổi
Họ được cung cấp đồ ngủ, đồ dùng và được bảo trợ. Ngày sau đó chính quyền địa phương cử quan kiểm tra đến điều tra và mời thông dịch viên đến chuyển ngữ, tuy nhiên dù nổ lực đến mấy cũng không hiểu nhau. Cuối cùng có một người Trung Quốc đang ở Đường quán tên là Thái Kiến Sử mấy năm trước đã từng vượt biển sang Việt Nam nên mời ông này đến đối thoại, vất vả lắm cuối cùng mới hiểu nhau. Họ vốn là nông dân phủ Hội An Việt Nam trong lần xuất hải đến phủ Gia Định tìm gỗ về xây kinh thành, đội thuyền có quan lớn và binh lính 43 người, họ phụ trách phu dịch, cả 7 người đi trên chiếc thuyền nhỏ, ngày 17 tháng 3 năm ấy cả thuyền nhỏ và thuyền to đều xuất bến từ trấn Sơn Nam, nhưng trong đêm đó gặp phải cơn bão, chiếc thuyền nhỏ đã lạc khỏi chiếc thuyền lớn và trôi dạt trên biển nhiều ngày đêm, lương thực cạn dần họ tự câu cá mà ăn. Hai người trong số ấy đã tử nạn lúc câu cá ngoài biển chỉ còn 5 người sống sót. Trước ngày 13 tháng 8 họ lênh đênh trên biển, ngày 13 tháng 8 thuyền vỡ may mà họ được cứu tế. Thường ngày họ tôn thờ quan âm và quan đế, không phải là tín đồ của Jesu. Tháng 2 năm sau đó (năm 1816) 5 người xin phép về nước, được chính phủ Edo ra lệnh cho “thương thuyền Trung Quốc đưa họ về bản quốc”, tuy nhiên do thương nhân Trung Quốc xin phép kéo dài thời gian lưu trú nên họ tiếp tục ở lại. Sau đó, vị thương nhân Trung Quốc sắp xếp thỏa thuận với triều Nguyễn, đến năm 1817 lại tiếp tục được chính quyền Nhật Bản ra lệnh về nước, đồng thời được cấp “10 phần lương thực, 25 bộ tơ lụa”, họ rời Nhật Bản trên 2 chiếc thuyền mang ký hiệu Tử Bát Phiên và Tử Thập Phiên vào ngày 28 tháng 4 năm 1817. Đối chiếu phần ghi chép của hai văn bản Trường Kỳ Chí Tục Biên của Nhật Bản và Nhật Bản Kiến Văn Lục của Việt Nam tuy ngày tháng và nhân danh co chút sai dị nhưng cả hai đều ghi chép cùng một sự kiện. Về lai lịch của sự kiện này người Nhật Bản ghi chép tỉ mỉ hơn, nhờ vậy chúng ta có thể xác định rằng 5 người nạn dân Việt Nam đã lưu lại Nhật Bản hơn 1 năm 9 tháng, khiến tổng thể thời gian phiêu bạt hơn 2 năm.
4. Những quan sát về thành phố Nagasaki trong Nhật Bản Kiến Văn Lục
Do nhóm 5 người đã sinh sống ở thành phố Nagasaki hơn nửa năm nên dù đã trải qua mười mấy năm sau danh thần Việt Nam Trương Đăng Quế vẫn có thể ghi chép tỉ mỉ những gì tai nghe mắt thấy của họ ở Nhật Bản qua lời kể. Cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục mở đầu lược thuật quá trình phiêu bạt của nhóm 5 người, 5/6 phần nội dung còn lại chuyên để ghi chép những quan sát về xã hội của Nagasaki ở Nhật Bản, nội dung chủ yếu bao gồm kiểu tóc, trang phục, ngôn ngữ, quân đội, vũ khí, giao thông, binh chế, kiến trúc, đào hát, nhà tù, y tế, tang lễ, lễ tết, tiền tệ, giao dịch, thời tiết, đồ dùng dụng cụ, súc mục, sản vật, động vật, thức ăn, hoa cỏ, đền miếu, tín ngưỡng,…có lúc tỉ mỉ có lúc sơ lược song đều là những tư liệu quý giá về xã hội Nagasaki Nhật Bản đầu thế kỷ 19 mà họ đã lĩnh hội được. Căn cứ vào ba điểm văn tự có liên quan đến nước ngoài có thể thuyết minh như sau
(1) Trong sách có đề cập đến “ngôi nhà ngói trong thành phố nơi thương nhân người Thanh cư trú”, bên ngoài có binh lính phòng vệ, tuy cho phép kỹ nữ Nhật Bản với sắc phục hoa lệ tới lui nhưng “cấm lén lút đưa hàng hóa cho người Trung Quốc, cũng như cấm người Trung Quốc tự ý nhận quà cáp”, mọi giao dịch đều phải đăng ký nhằm đề phòng hiện tượng gái điếm.
(2) Trong sách có nói đến việc giao dịch của thương thuyền các nước tại địa phương, tất cả đều phải “trước tiên đưa hàng lên bờ, tiến hành định giá, người mua điền đơn hàng rồi giao cho thủ kho xử lý”, đến lúc thuyền rời bến người ta kết toán theo ghi chép trong đơn hàng, tiến hành kiểm tra khoang thuyền, nghiêm cấm mang tiền tệ Nhật Bản xuất ngoại. Lúc đó “có nhiều người Thanh đến giao dịch, thường có 8, 9 thuyền neo đậu ngoài bến Đại Quan thành”. Điều này có thể thấy người Nhật Bản ở Nagasaki quản lý giao dịch quốc tế rất nghiêm ngặt, đồng thời cũng cho thấy trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản rất hưng thịnh.
(3) Ngoài ra trong sách còn đề cập đến một phong tục rất độc đáo, do nhóm Nguyễn Hữu Hoàn phát hiện trong lúc quan sát thành Nagasaki, họ nhìn thấy dưới sân công đường có một khối đồng hình vuông, trên lưng có “khắc hình người”, người Nhật Bản nói: “phàm là người nước ngoài mới đến đều phải dùng chân đạp qua khối vuông này, hình vuông thể hiện người chính trực vô tội, đủ tư cách để bái kiến đại quan”. Thế nhưng nhóm 5 người họ hoàn toàn không biết đó là cái gì? Tác giả Trương Đăng Quế trong cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục có dẫn thuật giải thích của hoàng đế Minh Mạng Việt Nam như sau:
“Nước Nhật trước kia có người Tây Dương tới truyền đạo, đã xui dục, dụ dỗ dân chúng làm loạn. Nước ấy dò biết được âm mưu của bọn kia, bèn làm ám hiệu với dân chúng, hẹn rằng hễ là người trung thành với quốc gia thì dùng khăn vải hoa trắng quên trên đầu. Kẻ nào không quấn là bọn phản nghịch sẽ bị giết. Chỉ trong một đêm họ diệt sạch đảng gian. Vì thế người Nhật rất ghét người Tây Dương. Thường ở những nơi cầu quán đường sá họ khắc hình dáng các giáo chủ Tây Dương, để cho người trong nước dẫm lên. Từ đấy, người Tây Dương biến mất, không dám trở lại”([9])
[Dịch giả tham khảo Ngô Thế Long 1990: “Một tài liệu cổ do người Việt Nam viết về Nhật Bản: cuốn Nhật Bản kiến văn lục", TC Hán Nôm số 1].
Hoàng đế Minh Mạng của Việt Nam hiểu biết rất rộng, cách giải thích của ông ấy chính xác, nhóm Nguyễn Hữu Hoàn lúc ở Nhật Bản được yêu cầu đạp lên khối đồng hình người (hình người trên khối đồng được cho là hình của giáo chủ người Tây Dương) để minh chứng cho bản thân mình. Đó là nghi thức “đạp hội” hình thành từ sau chính sách “tà tông đồ đại khu trục (đại vận động xua đuổi tà đạo) của Nhật Bản” năm 1626. Nghi thức đạp hội yêu cầu mọi người đạp lên hình tượng Giêsu hoặc hình tượng 12 môn đồ hoặc các hình ảnh được vẽ trong kinh thánh, lúc đầu cũng chỉ là để bắt bớ người cải đạo (tức những người bỏ Phật giáo chuyển sang Kito giáo), về sau dần dà trở thành một dạng định lệ([10]), không ngờ nhóm nạn dân Việt Nam năm ấy cũng quan sát được và ghi chép lại.
5. Kết luận
Theo ghi chép của Nhật Bản Kiến Văn Lục chúng ta quay về với năm 1815 với sự kiện phiêu bạt của nhóm nạn dân Việt Nam đến Nagasaki Nhật Bản, biết được rằng đây là sự kiện hiếm thấy ở Đông Á bởi khoảng cách phiêu bạt là quá xa (phải vượt qua quần đảo Okinawa và Đài Loan, giữa Đông Nam Á và Đông Bắc Á), thời gian phiêu bạt rất dài (tính từ lúc ra biển gặp nạn cho đến lúc về nước là từ 1 đến 2 năm) trên đường phiêu bạt gặp nhiều tai ương đến đất khách quê người ngôn ngữ bất đồng, tâm trạng hoảng loạn bất an, không bút viết nào có thể diễn tả hết. Rất may nhóm nạn dân Việt Nam năm ấy được quan lại và nhân dân Nagasaki giúp đỡ, đồng thời được sự hỗ trợ của thương nhân Trung Quốc đang buôn bán tại đây cưu mang về nước, là thể hiện của sự hữu hảo và thân thiện của nhân dân các nước Á Đông, nhờ vậy họ đã thoát hiểm mà an toàn về nước, có thể nói là trong họa có phúc.
Trong sự kiện phiêu lưu trên biển giữa Việt Nam và Nhật Bản chúng tôi còn phát hiện rằng phía sau của những thiên tai là những nhân tố do hành vi con người gây nên – trong sự kiện này rõ ràng là có liên quan đến việc xây cung điện của vua chúa nên dân thường ra biển gặp nạn, tuy nhiên điều đáng quý là nhóm binh sĩ Gia Định (rất có thể là các nông dân Hội An): Đặng Hữu Hoàn, Nguyễn Duy Thực,… có một tính cách kiên nghị tuyệt vời và có sức quan sát nhạy cảm, dù đã trải qua chừng ấy nguy hiểm mà vẫn có thể tiếp tục sinh sống tốt nơi đất khách quê người, tỉ mỉ quan sát văn hóa của cư dân địa phương, về sau qua ngòi bút của Trương Đăng Quế đã thể hiện rất sống động những điều tai nghe mắt thấy của mình tại Nagasaki Nhật Bản trong cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục, đóng góp không nhỏ cho quá trình giao lưu văn hóa Đông Á truyền thống.
Cuốn Nhật Bản Kiến Văn Lục cho đến thế kỷ 21 này vẫn còn tồn tại, nếu chúng ta có thể tăng cường so sánh đối chiếu giữa nó với các tài liệu lịch sử có liên quan tôi tin rằng chúng có thể tiếp tục phát huy những giá trị to lớn trong việc thúc đẩy giao lưu văn hóa Á Đông.
([9]) Dẫn bản sao Nhật Bản Kiến Văn Lục lưu trong thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong nguyên bản là “Bất khắc”, chúng tôi sửa lại cho chính xác là “Mộc khắc (khắc gỗ)”.