Dấu ấn tính nữ trong văn hóa không chỉ có ở riêng Nhật Bản mà là hằng số chung của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia châu Á. Thế nhưng, có lẽ không ở đâu dấu ấn tính nữ trong văn hóa, văn học lại đậm nét như ở xứ sở Phù Tang. Có thể nói, vẻ đẹp tính nữ chính là một kỳ quan trong văn hóa, văn học Nhật Bản.
Huyền thoại xưa kể lại rằng, thủy tổ của người Nhật là nữ thần Mặt trời Amaterasu. Người Nhật tôn thờ nữ thần Mặt trời và coi nữ thần là người mẹ đầu tiên của dân tộc. Chế độ mẫu hệ đã tồn tại ở Nhật Bản trong một thời gian khá dài (suốt 13 thế kỷ), vai trò của người phụ nữ trong xã hội được đề cao và chỉ dần phai nhạt khi chế độ Mạc phủ ra đời.
Dấu ấn tính nữ đã phóng chiếu vào văn học đậm nét, độc đáo. Văn học Nhật Bản được cấu thành từ hai bộ phận chính: võ sĩ đạo mà biểu trưng là ánh thép sắc lạnh của thanh bảo kiếm và nữ lưu gắn với vẻ đẹp mong manh của hoa anh đào. Hai yếu tố này mang tính đối lập, tương phản giữa sự cứng rắn, mạnh mẽ và sự mềm mại, dịu dàng. Văn học nam nhi thượng võ kéo dài gần 700 năm trong thời đại phong kiến (từ TK XIII đến TK XIX); còn văn học nữ lưu (Heian) chỉ tồn tại khoảng 400 năm (từ TK VIII đến TK XII). Nhưng đến nay, nhiều người cho rằng đặc trưng của văn học Nhật Bản vẫn là tính nữ chứ không phải là nam nhi thượng võ. Kawabata là đại biểu của quan niệm này.
Tính nữ có lẽ bắt nguồn từ dòng văn học nữ lưu thời đại Heian. Do những đặc điểm rất riêng biệt trong thể chế cung đình, người phụ nữ thời kỳ này được đề cao. Những phụ nữ quý tộc trong cung đình Heian tự do sáng tác văn chương về tình yêu và cuộc sống. Dòng văn học nữ lưu của Nhật Bản là hiện tượng độc nhất vô nhị trong văn học nhân loại với những cây bút tài hoa, đa tình đã để lại những kiệt tác văn chương bất hủ: Murasaki Sikibu với Truyện Genji; Sei Sonagon với Sách gối đầu giường (Nhật ký bằng thơ) và nữ sĩ Komachi tài năng trác tuyệt với những vần tanka bất tử.
Văn chương nữ lưu thời Heian ghi dấu ấn và ảnh hưởng sâu sắc trong việc định hướng cảm hứng chủ đạo cho nền văn học Nhật Bản: văn học sắc tình và nữ tính. Mặc dù đến sau TK XII, vai trò của người phụ nữ trong xã hội mất dần, chế độ phong kiến chuộng võ lên ngôi với sự thống trị của tướng quân Sogun, tầng lớp võ sĩ được đề cao, văn học chuyển dần sang tính chất võ sĩ đạo nhưng dấu ấn tính nữ của văn chương nữ lưu thời Heian vẫn được lưu giữ và ảnh hưởng sâu đậm.
Tính nữ không chỉ có trong nền thơ ca cổ điển rất phát triển ở Nhật Bản mà còn để lại dấu ấn trong cả văn xuôi. Tiêu biểu nhất là trong tiểu thuyết Genji monogatari. Môtip về hình ảnh “người mẹ trong người tình” qua những tác phẩm của các thế hệ nhà văn hiện đại Nhật Bản, đặc biệt là trong sáng tác của Kawabata cũng là biểu hiện độc đáo của dấu ấn tính nữ trong văn hóa, văn học và trong tính cách dân tộc.
Tính nữ trong văn học Nhật được thể hiện tập trung, đẹp đẽ và diễm tình nhất trong những vần thơ tanka - thể loại được sáng tác nhiều nhất trong thời Heian. Từ Vạn diệp tập đến Cổ kim tập, tanka là kết tinh vẻ đẹp tính nữ của văn chương Heian - kỷ nguyên vàng trong lịch sử văn học Nhật Bản. Tanka là thể thơ mẫu mực đã trở thành cổ điển của nền văn học Phù Tang.
Tanka (waka: đoản ca, hòa ca) vốn có nguồn gốc là một thể thơ truyền thống của Nhật Bản, được ghi chép vào thời Nara. Đây là thể thơ đầu tiên, ra đời sớm nhất tại Nhật Bản. Cổ ký sự, bộ sử rất quan trọng của người Nhật, ghi lại một huyền thoại kể rằng thần bão tố Susanoo chính là người đã sáng tạo ra bài thơ đầu tiên gồm ba mươi mốt âm tiết, đó là khởi nguyên của tanka (1). Tập thơ đánh dấu thời kỳ đầu của tanka là Vạn diệp tập - công trình độc nhất vô nhị, ngọn hải đăng của thơ ca Nhật Bản. Vạn diệp tập hay còn gọi là Tập thơ của mười ngàn chiếc lá gồm 20 quyển thơ với 4500 bài. Tác giả của nó là những người có tên (400 người) và không tên.
Hình thức của tanka là thể loại thơ ngắn, gồm 5 dòng thơ và 31 âm tiết (theo cách cấu tạo của chữ Nhật). Nó được chia một cách bắt buộc: 5 7 5 7 7. Với 31 âm tiết, bài tanka không quá 12 từ. Và đó là thể thơ ngắn thứ hai chỉ sau haiku.
Tiến trình phát triển của thơ ca Nhật Bản được thể hiện qua 5 tập thơ: Vạn diệp tập, Cổ kim tập, Tân cổ kim tập, Ngọc diệp tập, Phong nhã tập. Thơ ca Nhật Bản hoàn thiện dần qua các thể thơ: choka (trường ca): biến thể của tanka; tarenga: là một bài tanka 5 dòng và 31 âm tiết, do 2 tác giả sáng tác; renga (liên ca): là sự tập hợp của nhiều tanka; haikai: là tiền thân của thơ Haiku, gồm 3 dòng và 17 âm tiết; và cuối cùng là haiku: đỉnh cao của thơ ca Nhật Bản.
Đội ngũ sáng tác của tanka khá đa dạng nhưng chủ yếu là tầng lớp quý tộc cung đình Heian, không phân biệt nam hay nữ, trong đó có những vị vương công, công chúa, công nương, hoàng thân, thiên hoàng, cựu hoàng, phu nhân..., thậm chí cả các nhà sư, hòa thượng. Tanka được đánh giá “là thể loại thơ cao cấp và được trau chuốt, phần lớn ca ngợi cái đẹp và những tình cảm nghiêm túc”(2).
“Tao nhã và dịu dàng, đó là cái đẹp của tanka”(3). Có thể ví những vần thơ tanka như hình ảnh của các nàng geisha thấp thoáng dưới bóng hoa anh đào: đẹp diễm tình và buồn man mác. Bước vào thế giới “tao nhã và dịu dàng” ấy, người đọc sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở Phù Tang và cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nhật Bản, đặc biệt là tâm hồn người phụ nữ.
1. Nội dung lớn nhất của Tanka là tiếng nói tình yêu nam nữ
Tanka được coi là thể thơ tình của người Nhật. Khi muốn thổ lộ tình cảm luyến ái, trai gái Nhật làm thơ tanka. “Dù ở nhiều xứ khác, thơ ca cũng có vai trò “mối lái” trong tình yêu nam nữ nhưng đặc biệt ở Nhật, nhất là vào thời Heian, việc nam nữ tâm tình với nhau bằng các bài thơ là vô cùng phổ biến...”(4).
Tanka diễn tả mọi cung bậc của tình yêu - yếu tố bản thể, thuộc tính thiêng liêng nhất của con người. Từ những cảm xúc nhẹ nhàng, man mác của tình yêu chớm nở chảy tràn trong tim, bộc lộ ra sắc diện đến tình yêu mãnh liệt, tha thiết như sóng triều dâng:
Như trong phong ba
Sóng đập vào bờ đá
Em đừng sợ
Tâm hồn tôi cũng thế
Dâng trào thiết tha (Shigeyuki)
Chân thực và tinh tế, tanka diễn tả nỗi khắc khoải trong tình yêu vì phải chia xa:
Em đâu biết được
Lòng anh thế nào
Sáng chia tay nhau
Tóc đêm còn rối
Hồn thì nao nao (Công nương Horikawa)
Cảm nhận hạnh phúc vẫn còn lưu giữ trong tâm hồn của một cô gái sau khi chàng trai đã rời xa được chắt lọc tinh tế chỉ trong năm dòng thơ và ba mươi mốt âm tiết. Bài thơ là một ví dụ điển hình của chất dư tình lắng đọng trong cảm xúc thơ tanka.
Đặc trưng lớn nhất của những bản tình ca ấy vẫn là vẻ đẹp, buồn, đầy hoài niệm. Tâm hồn người Nhật hiện lên thật trọn vẹn và chân thực:
Tôi đi đây
Nhưng nếu em đợi
Như cây thông gầy
Đứng trên đỉnh núi
Tôi lại về ngay (Yukihira)
Cũng là nói về sự thủy chung đấy mà sao chất chứa bao niềm tin tưởng và yêu thương trong lời nhắn gửi. Trái tim của chàng trai đa tình như tin chắc một điều rằng người mình yêu giống như “cây thông gầy” trên đỉnh núi cao - biểu tượng của sự đợi chờ, chung thủy sắt son. Trong tình yêu, những niềm tin như vậy thật cần thiết vì đó chính là ngọn lửa sưởi ấm cho nhau dù trong cách trở:
Dòng nước đang trôi
Rẽ theo ghềnh đá
Rồi lại chung đời
Thành dòng thác đổ
Em về bên tôi (Cựu hoàng Sutuko)
Những muộn phiền và khổ đau trong tình yêu cũng thật nhẹ nhàng, bao dung:
Dù người bỏ rơi
Tôi không hận
Nhưng lời thề xưa
Nếu như linh hiển
Sợ lắm người ơi! (Công nương Ukon)
Đặc biệt, tanka còn dành những vần thơ đẹp đến nao lòng để khóc thương cho cái chết trong tình yêu:
Nàng có là hoa không
Khi tro tàn hài cốt
Tôi đem rắc trên đồng
Tàn tro bay nhè nhẹ
Như hoa vào hư không
Bài bi ca của một tác giả vô danh thật nhẹ nhàng nhưng có sức ám thị rất lớn. Hình ảnh chàng trai đang rắc tro tàn hài cốt của người yêu gây cho người đọc nỗi xúc động sâu xa.
Người Nhật tôn thờ tình yêu nhưng cũng cảm nhận rất rõ về sự mong manh, hư ảo, vô thường của nó. Họ thường xây dựng cho mình một lý tưởng để tồn tại, nhưng khi lý tưởng ấy không còn thì cũng sẵn sàng hủy hoại bản thân. Không ít người đã chọn tình yêu là lý lẽ sống duy nhất của cuộc đời. Tình yêu dường như đã trở thành sợi dây vô hình nối từ quá khứ đến hiện tại, xuyên kết những tâm hồn vĩ đại Nhật Bản, từ các nhà văn, nhà thơ nữ thời Heian (Komachi, Izumi, Murasaki...), tới Kawabata và Murakami - nhà văn đương đại nổi tiếng nhất Nhật Bản sau này. Trong những tác phẩm của Murakami, tình yêu là ý nghĩa duy nhất đối với cuộc đời của các nhân vật, đặc biệt tình yêu gắn liền với thể xác là nơi trú ngụ của nỗi cô đơn và sự mất mát trong tâm hồn của những người trẻ tuổi.
Các nhà thơ nữ tài sắc của thời kỳ Heian như: Komachi, Izumi, Ise, Sakanoeno Iratsume... đã viết nên những bài tanka tình yêu hay nhất. Tình yêu đam mê, tận hiến và giàu hy sinh của người phụ nữ Nhật Bản chính là điểm sáng nhất của thiên tính nữ trong thơ tanka:
Nếu yêu là chết
Thì thiếp đã chết rồi
Chết đi
Chết lại
Chết trăm nghìn lần (Phu nhân Kaxa - TK VIII)
Komachi, một trong 6 ca tiên, người con gái nổi tiếng tài sắc mà cuộc đời đã trở thành huyền thoại, là chủ nhân của những bài tanka diễm tình nhất. Tình yêu của nàng luôn cháy bỏng, đam mê. Đó là một tâm hồn đa cảm, khao khát tình yêu, khao khát tri âm, tri kỷ:
Từ khi tôi nhìn thấy
Người tôi mong chờ
Trong một giấc mơ
Thì niềm tin từ đấy
Tôi đặt vào trong mơ
Komachi là niềm ước ao, ngưỡng vọng của biết bao chàng trai. Truyền thuyết của người Nhật kể lại rằng một chàng trai vì quá si mê Komachi nên đã chấp nhận đứng trước cửa nhà nàng trong trời giá lạnh suốt 100 đêm. Nhưng đến đêm thứ 99 thì chàng si tình ấy đã gục ngã chết trước nhà nàng. Đẹp như Komachi cũng là một đề tài trong văn học Nhật. Vốn kiều diễm và được nhiều người say mê là vậy, nhưng dường như Komachi vẫn là người bất hạnh trong tình yêu. Tiếng thơ của nàng chứa đầy ẩn ức và tâm sự về những mối tình thầm kín. Thơ Komachi mềm mại, dịu dàng, đẹp đẽ và đầy nữ tính. Đó là sự kết hợp của trái tim tình yêu cuồng nhiệt, nồng nàn và một bút pháp tài hoa, lãng mạn phi thường:
Có một thứ nhạt phai
Mà không ai nhìn thấy
Bởi sắc ngoài còn tươi
Đóa hoa vô định ấy
Là trái tim con người
Ca tiên Izumi - tuyệt thế giai nhân, tài hoa trác việt, là con quan tổng đốc trong triều đình. Thơ Izumi là tiếng lòng của một cuộc đời riêng không hạnh phúc. Nhật ký bằng thơ của Izumi được coi là một loại tiểu thuyết ngắn về tình yêu. Tình yêu đơn phương, bấp bênh, vô định của nàng được ghi lại trong Từ thế chi ca - bài thơ viết trước khi từ biệt cõi đời:
Kỷ niệm cuối cùng em hỏi
Khi đi khỏi thế gian này
Mà tim em khao khát
Hãy đến, anh ơi, lần nữa
Kẻo rồi em chết ngày mai
Các nhà thơ tanka đã để lại những nốt nhạc lòng về tình yêu và nhân thế giữa cõi phù sinh ngắn ngủi. Lấy tình yêu làm cứu cánh cho cuộc đời, tanka đã chạm vào những góc khuất tình cảm riêng tư, sâu kín nhất của con người. Đó là nguyên nhân lý giải vì sao những ai đã và đang sống trọn vẹn với tình yêu của mình, khi đọc thơ tình tanka đều rung cảm sâu xa trước một sức mạnh vô hình, giàu nữ tính.
2. Phương diện khác của vẻ đẹp tính nữ: hình ảnh thiên nhiên diễm tình, đầy quyến rũ
Thiên nhiên trong thơ haiku thường được nhìn dưới góc độ khách quan, thiên nhiên “như nó là” và “thiên nhiên đích thực là thiên nhiên”(5), không bị cái nhìn chủ quan của con người chi phối. Nhà thơ haikư luôn nhìn thiên nhiên như bản thân nó vốn có, và thường “chụp” lại những khoảnh khắc bất chợt bắt gặp được trong cuộc sống, trên bước đường du hành. Khác với haiku, thiên nhiên trong tanka lại là thiên nhiên đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của con người. Thiên nhiên là đối tượng để con người ký thác, giãi bày tâm sự . Vì vậy, thiên nhiên trong tanka là những bức tranh đẹp diễm tình với vẻ đượm buồn của cảnh, gửi gắm tâm sự của thi nhân về tình yêu, nỗi đau và nhân thế. Ta hãy cảm nhận một đêm trăng thu đẹp mà buồn như vậy:
Khi tôi nhìn trăng
Nghìn điều vương vấn
Sầu đau ngỡ ngàng
Dù thu đâu phải
Một mình tôi mang (Chisato)
Có thể thấy đây là lời bộc bạch của chủ thể trữ tình về tâm sự sầu đau khi nhìn trăng thu. Lời trần tình ấy được thổ lộ trực tiếp, không ngần ngại. Nỗi buồn của tâm trạng dường như thấm đẫm lên từng cảnh vật của mùa thu.
Thiên nhiên trong tanka có đủ bốn mùa với những hình ảnh rất đặc trưng của xứ sở Phù Tang như: tuyết, trăng, hoa anh đào... Tuy nhiên, thu lại là mùa xuất hiện nhiều nhất trong tanka. Có lẽ vì đây là mùa của những cảm thức tế vi của con người trước trạng thái chuyển giao của đất trời. Mùa thu là không gian tâm trạng phù hợp nhất cho tâm hồn Nhật Bản vốn nhạy cảm trước sự phập phồng của những vận tiết dù là nhỏ nhoi nhất của vũ trụ.
Thơ tanka có nhiều bài hay viết về thu:
Trong cỏ dại
Mái lều nằm sâu
Giữa niềm cô tịch
Dù không khách viếng
Mùa thu ghé vào (Pháp sư Egyô)
Bài thơ như một cơn gió dịu nhẹ thoảng qua nhưng chứa đầy thi vị, dường như đã thâu tóm được khoảnh khắc linh diệu của đất trời khi có sự hiện diện của mùa thu, lặng lẽ nhưng ẩn chứa bao sự bí ẩn, diệu kỳ...
Hình ảnh đêm thu đẹp huyền diệu trong bài thơ của Sarumaru:
Nghe tiếng nai
U trong núi thẳm
Đạp lên lá đỏ
Mà qua đêm dài
Sầu thu ghê thay
dường như bao phủ một không gian âm u, huyền hoặc và sự buồn bã, giá lạnh của cảnh, của tâm hồn con người. Tiếng nai từ trong núi thẳm nơi xa vọng về làm rợn ngợp tâm hồn cô quạnh của người lữ thứ.
Cũng có khi thiên nhiên trong tanka hiện lên là một bức tranh trong sáng, thanh khiết, đầy khoáng đạt với hình ảnh ngọn núi Fuji - biểu tượng thiêng liêng, niềm kiêu hãnh của xứ sở Phù Tang, ngàn năm đứng lặng yên, trầm mặc; hay một bức tranh sinh hoạt của con người vô tình được nhà thơ bắt gặp trong khoảnh khắc giao mùa từ xuân sang hạ:
Mùa xuân qua rồi
Và mùa hạ đến
Thấy chăng, dưới trời
Áo người đang phơi (Nữ hoàng Jito)
Nhưng những bài thơ miêu tả thiên nhiên tươi vui, giàu sức sống như vậy là không nhiều. Thiên nhiên trong tanka chủ yếu là những gam màu buồn và hình ảnh điêu linh của cái đẹp, của cây lá cỏ hoa. Một đặc điểm dễ nhận thấy nhất của thiên nhiên trong tanka là ở đó thường chất chứa nỗi lòng của những người đang yêu, thiên nhiên là người bạn thân thiết, tâm giao của con người. Tôn thờ tín ngưỡng Kami, người Nhật cho rằng trong mỗi sự vật đều có một linh hồn. Vì vậy, họ không ngần ngại thổ lộ tình yêu với người bạn thiên nhiên thủy chung và thầm lặng ấy:
Bụi trúc nhỏ nhoi
Giấu mình trong cỏ
Tình yêu của tôi
Bỗng dưng lớn dậy
Giấu sao được người (Hitosi)
Ngay cả những trách móc, dỗi hờn rất đáng yêu của người con gái khi tình duyên lỗi hẹn cũng được gửi gắm vào thiên nhiên:
Bên đầm Naniwa
Những đốt vi lau
Ngắn như cuộc hẹn hò
Thế mà đời ta chẳng
Một lần tình hẹn nhau (Công nương Ise)
Cũng có khi sức mạnh thiên nhiên được so sánh với cảm xúc mãnh liệt của một trái tim tình yêu:
Như trong phong ba
Sóng đập vào bờ đá
Em đừng sợ
Tâm hồn tôi cũng thế
Dâng trào thiết tha (Shigeyuki)
Âm ba của những con sóng kia đã tạo ra chất dư tình sâu lắng, ngân vang trong lòng người đọc mỗi khi nhớ tới bài thơ.
Thiên nhiên quyến rũ, xinh đẹp và cũng khắc nghiệt của xứ sở Phù Tang được khắc họa chân thực, sống động trong tanka. Ẩn chứa trong linh hồn thiên nhiên ấy là tâm hồn của con người với nhiều trở trăn, suy tư, hoài niệm. Thiên nhiên và con người dường như là hình và bóng của nhau, soi chiếu cho nhau trong những chỉnh thể thơ ngắn gọn và hàm súc. Thiên nhiên trong thơ tanka hầu hết là những bức tranh đẹp và buồn bởi tâm hồn con người gửi gắm vào đó đa phần là tâm sự chứa đầy niềm bi cảm về cõi đời phù thế.
3. Tanka - tâm sự của con người về cõi đời phù thế
Những từ phù du, phù thế, hư ảo, điêu linh, hư không... xuất hiện với tần số rất lớn trong thơ tanka đã nói lên quan niệm của người Nhật đối với nhân sinh, cuộc đời. Do ảnh hưởng sâu sắc bởi triết lý vô thường của đạo Phật nên người Nhật coi cuộc đời là cõi tạm, cõi phù du:
Tình yêu
Như ta gọi
Là dây vô hình
Buộc ta khó thoát
Nỗi đời điêu linh (Komachi)
Có một điều gì đó rất mong manh, tinh tế trong hình ảnh cũng như ngôn từ của bài thơ. Sợi dây vô hình của tình yêu dường như cứ ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí con người, từ lúc sinh ra cho tới khi từ giã cõi đời. Nó vô hình đấy, mong manh đấy, mềm yếu đấy nhưng lại trói buộc ta khó thoát.
Komachi, “nhà thơ của tàn phai và hư ảo”, đã để lại bài tanka nổi tiếng như một cáo chung định mệnh cho số phận mong manh, hư ảo của kiếp hồng nhan bạc mệnh:
Hoa đào ơi
Nhan sắc phai rồi
Hư ảo mà thôi
Tôi nhìn thăm thẳm
Mưa trên đời tôi
Dường như cảm thức cô đơn, lẻ loi trước cuộc đời là cảm thức dễ bắt gặp nhất và cũng được thể hiện thành công nhất trong tanka:
Ôi cố nhân
Chẳng còn ai nữa
Chỉ còn cây thông
Trên đồi vắng
Và tôi khóc thầm (Okikaze).
Con người luôn cảm thấy cô đơn, bé nhỏ, vô định... trong cõi vô thường:
Tôi giờ lẻ loi
Như cành rong dại
Không rễ giữa đời
Dòng nước nào mời gọi
Thì tôi sẽ thả trôi (Komachi).
Cuộc đời có khi cũng được nhìn qua hình ảnh một sợi chỉ rất mong manh, có thể đứt phựt bất cứ lúc nào:
Ôi sợi chỉ đời
Xâu chuỗi hồn tôi
Nếu như phải vỡ
Sức tôi đã tận
Thì vỡ đi thôi (Công chúa Shikishi).
Đặc trưng nổi bật nhất, cũng là linh hồn của mỗi bài tanka chính là chất dư tình (yoji) lắng đọng của nó. Chất dư tình trong những bài tanka được tạo ra từ những cảm thức thẩm mỹ truyền thống của người Nhật Bản như: aware, yugen, sabi, wabi..., quan trọng nhất là cảm thức aware.
Aware là “cảm thức thâm trầm trước cái đẹp não lòng của thiên nhiên và con người”(6). Nói một cách khái quát, đây là “thứ cảm xúc hay tâm trạng sâu lắng khi chạm tới sự cơ vi và mong manh của đời người”(7). Học giả Nhật TK XVIII, Motoori Norinaga, cho rằng đây là tư tưởng trung tâm của mỹ học thời Heian. Aware không chỉ là cảm thức chủ đạo mà còn là nguồn gốc của mỹ học dân tộc Nhật Bản. Aware có mặt trong hầu hết các bài tanka, chi phối, quy định cảm xúc, ngôn ngữ và hình ảnh thơ của tanka.
Trong thơ tanka còn đặc biệt nổi trội một cảm thức thẩm mỹ khác, đó là Yugen (u huyền)(8). Yugen cũng được coi là tiêu chí đánh giá vẻ đẹp và chất lượng của một bài tanka.
Như vậy, với aware, yugen, tính nữ trong thơ tanka bộc lộ rõ nhất.
Thơ tanka luôn ẩn chứa sức mạnh quyến rũ kì lạ của tính nữ. Tanka có mềm yếu đấy (đặc trưng của tính nữ) nhưng đó không hẳn là những vần thơ quá bi lụy. Mặt khác, tanka mang đặc trưng là những sản phẩm của cá nhân nên nó nặng về tính chất tình cảm, cảm tính hơn là tính chất lý trí, xã hội. Đây cũng là một đặc trưng của văn học Nhật Bản (điểm mạnh và cũng là điểm yếu của nền văn học Phù Tang).
Trải qua 13 thế kỷ, đến nay, tanka vẫn sống trong tâm thức của người Nhật như một biểu tượng của niềm hoài vọng cổ xưa, của tính nữ vĩnh cửu trong văn học. Và nó là bộ phận quan trọng trong nền thơ Nhật Bản nói riêng, thi ca nhân loại nói chung. Thơ tanka cùng với văn chương nữ lưu Heian là một di sản văn hóa có giá trị lâu bền của xứ sở Phù Tang. Mỗi bài tanka tuy chỉ có 5 dòng nhưng ý tình đều trọn vẹn, đó thường là một câu chuyện tình được cô đọng chặt chẽ và hàm súc trong số lượng ngôn từ hữu hạn, hình ảnh thơ trang nhã, mực thước, dung dị. Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ của tanka là một thứ ngôn ngữ quý tộc được trau chuốt một cách tinh tế, mượt mà nên dễ lay động lòng người. Vì vậy, tanka là tiếng nói diễm tình không chỉ của riêng giai cấp quý tộc thời ấy mà nó còn có sức sống lâu dài trong đời sống tinh thần của không ít người Nhật hôm nay.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 309, tháng 3-2010
_____________________________
1. Nhật Chiêu, Thơ ca Nhật Bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
2. Khái quát về Vạn diệp tập (Manyoshu), http://vanhoa.blogspot.com
3, 4, 6. Nhật Chiêu, Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003, các bài tanka sử dụng trong bài viết đều trích từ sách này.
5. Đoàn Thị Thu Vân, Thơ thiền Việt Nam thời Lý Trần, khảo sát từ góc độ nghệ thuật (chuyên đề cao học), Đại học Sư phạm TP.HCM.
7. Mitsuyoshi Numano, Thế giới thơ và tiểu thuyết từ Truyện Genji đến Murakami Haruki, Tài liệu Hội thảo văn học Nhật Bản, tháng 9-2009. Trung tâm Giao lưu Văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam.