1. Ấn Độ tạo lập và xây dựng đất nước bằng chủ nghĩa dân tộc
Ấn Độ là một quốc gia đa dân tộc, có hơn 500 dân tộc lớn nhỏ, trường phái tư tưởng chủ nghĩa dân tộc tương đối mạnh mẽ. Nguyên nhân do Ấn Độ chịu sự xâm lược từ nước ngoài trong một thời gian dài, đặc biệt là sự thống trị thực dân của nước Anh kéo dài 174 năm, các tập đoàn xã hội đều tham gia đấu tranh chính trị phản đối sự thống trị của thực dân, từ đó khiến Ấn Độ trở thành một quốc gia lập quốc bằng chủ nghĩa dân tộc.
Sau khi giành được độc lập năm 1947, Đảng Quốc Đại đã kết hợp chủ nghĩa dân tộc và chính trị dân chủ phương Tây để thực thi chính thể dân chủ, trong thực tế là một nền chính trị đảng phái. J. Nehru tuyên bố rằng, Ấn Độ không lập quốc bằng tôn giáo, mà lập quốc bằng chủ nghĩa dân tộc thế tục. Ông nói rằng: “Theo tôi, thứ thực tế rõ ràng chính là nhân tố kinh tế. Nếu chúng ta nhấn mạnh, đồng thời chuyển hướng chú ý của công chúng đến điểm này, tự nhiên sẽ phát hiện ra rằng, sự khác biệt về tôn giáo không hề còn quan trọng, một sợi dây chung liên hợp các tập đoàn khác nhau lại”[1]. Việc thúc đẩy chính sách chủ nghĩa xã hội dân tộc ở Ấn Độ trên nền tảng kinh tế có bối cảnh là: Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, các quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latin đã giành được độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc, trở thành các quốc gia dân tộc chủ nghĩa . Độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc ở những quốc gia này giành được thành công dưới ngọn cờ dân tộc chủ nghĩa. Từ cuối thập niên 40 đến đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, có gần 100 quốc gia đã giành được độc lập và giải phóng dân tộc. Ấn Độ chính là một trong số đó. Ấn Độ đối mặt với một vấn đề quan trọng chính là quốc gia này sẽ phát triển theo hướng nào. Trong bối cảnh thế giới phân chia thành hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, do một thời gian dài chịu sự bóc lột và áp bức của chủ nghĩa thực dân, Ấn Độ căm thù đến tận xương tủy chính sách thực dân chủ nghĩa của chủ nghĩa đế quốc; cảm thấy ngưỡng mộ đối với thành tựu to lớn mà Liên Xô và Trung Quốc giành được trên con đường xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn hoài nghi về hệ thống tư tưởng cộng sản chủ nghĩa và đảng cộng sản chấp chính. Ấn Độ tuyên bố, muốn đi theo “Con đường thứ ba”, tức con đường chủ nghĩa xã hội dân tộc. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội dân tộc, về mặt bản chất là chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa xã hội chỉ là cái mác thời thượng, đó chính là việc hấp thu một số cách làm của thể chế kinh tế kế hoạch của Liên Xô, xây dựng chủ nghĩa tư bản nhà nước, không những giữ lại đặc trưng của nền thuộc địa, mà cũng nhấn mạnh đến sự xâm lược kinh tế của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, mô phỏng các chính sách kinh tế “quốc hữu hóa”, “tập thể hóa” của Liên Xô, nhưng về bản chất là biện pháp kinh tế dân tộc chủ nghĩa cấp tiến. Trên thực tế, đây là một kiểu trường phái tư tưởng “chủ nghĩa phục hưng dân tộc”. Trường phái tư tưởng này vừa có màu sắc chủ nghĩa xã hội dân chủ của giai cấp tư sản, vừa mang màu sắc chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội chính trị dân chủ và tôn giáo. Nền tảng lý luận của nó tuyệt đối không phải là chủ nghĩa xã hội khoa học, nhưng thể chế chính trị này lại lấy việc thực hiện “chính nghĩa xã hội”, “bình đẳng cơ hội”, “xóa bỏ nghèo đói”, “đập tan bóc lột” làm mục tiêu, tuy vậy, nó mang một ý nghĩa tiến bộ nhất định. Giá trị cơ bản của chủ nghĩa dân tộc nằm ở chỗ bảo vệ sự độc lập của quốc gia dân tộc và truyền thống dân tộc, hình thành nên con đường phát triển mang đặc sắc quốc gia. Nhưng do chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế là sự tranh bá giữa Mỹ và Liên Xô, nên cương lĩnh chính sách rất khó được quán triệt triệt để. Do tính cục hạn của bản thân chính đảng dân tộc chủ nghĩa, cộng thêm nền tảng giai cấp yếu đuối, các mâu thuẫn xã hội dần nổi lên rõ rệt, nền chính trị trong nước không ổn định, hệ thống chính sách của Ấn Độ bị nghi ngờ trên các phương diện. Năm 1991, sau khi Liên Xô giải thể, Ấn Độ nhanh chóng cởi bỏ chiếc áo choàng “chủ nghĩa xã hội”, giữ lại hồn cốt chủ nghĩa dân tộc. Từ sau thập niên 90 của thế kỷ XX, trào lưu xã hội chủ nghĩa dân tộc nhanh chóng xuống dốc, khẩu hiệu “chủ nghĩa xã hội” ở một số quốc gia đã hoàn toàn im hơi lặng tiếng. Ấn Độ thời đại Nehru từng nhấn mạnh đến “chủ nghĩa xã hội”, nhưng sau khi Liên Xô giải thể thì không còn nhắc đến khẩu hiệu này nữa, mà lại đề xướng chủ nghĩa phục hưng dân tộc một cách mạnh mẽ.
Ấn Độ lập quốc bằng chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân tộc có tác dụng chỉ đạo rất lớn đối với kinh tế nước này. Thể chế kinh tế hiện nay của Ấn Độ là một kiểu thể chế hỗn hợp giữa kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường, kinh tế công và tư. Kinh tế công chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như công nghiệp cơ bản, công nghiệp nặng, ngành giao thông vận tải, công nghiệp quốc phòng, thiết chế công và tài chính, đặc điểm chung của những ngành này là đầu tư lớn và thời gian xoay vòng vốn dài, đóng vai trò thống trị và trụ cột trong đời sống kinh tế đất nước. Kinh tế tư nhân có sự phát triển tương đối lớn, đã có gần 100 tập đoàn tài chính với số vốn vượt qua 1 tỉ rupee. Trong thời gian Indira Gandhi và Rajiv Gandhi giữ chức Thủ tướng, Ấn Độ đã tiến hành điều chỉnh và cải cách nền kinh tế, chuyển sang nền kinh tế phát triển dựa vào cơ chế thị trường. Năm 1991, sau khi Indira Gandhi bị ám sát, Ấn Độ bước vào thời kỳ bất ổn, cải cách kinh tế đình trệ. Đảng Nhân dân Ấn Độ sau khi lên cầm quyền có khuynh hướng đầu tư vào công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự. Năm 1998, Ấn Độ đã tiêu tốn một lượng vốn lớn liên tục tiến hành 5 vụ thử hạt nhân. Sau khi Đảng Quốc đại quay trở lại chấp chính, kinh tế Ấn Độ mỗi năm đều tăng trưởng với tốc độ 6%. Công nghiệp dệt là ngành công nghiệp có lịch sử lâu đời và chiếm lượng lớn nhân công của Ấn Độ. Nước này đứng vị trí thứ ba về sản lượng sợi bông và là nhà xuất khẩu sợi dệt lớn nhất thế giới, ngành công nghiệp phần mềm cũng có ảnh hưởng to lớn trên thế giới, những máy tính khổng lồ của Ấn Độ cũng đã đạt đến trình độ tiên tiến trên thế giới khiến nước này trở thành cường quốc kỹ thuật thông tin, đây chính là nền tảng kinh tế của việc lập quốc bằng chủ nghĩa dân tộc.
Chủ nghĩa dân tộc là một kiểu ý thức hệ và cũng là một phong trào xã hội. Sau khi Ấn Độ giành độc lập, nước này thi hành chế độ liên bang, chính quyền nhà nước áp dụng nguyên tắc phân chia các bang theo lãnh thổ, chủng tộc và ngôn ngữ, thực hiện chính sách vỗ về đối với người Hồi giáo, cho phép người Hồi giáo giữ luật riêng của họ. Tuy các mâu thuẫn xã hội ở Ấn Độ tương đối gay gắt, nhưng tự trị địa phương vẫn có thể quy phạm đấu tranh chính trị vào trong một phạm vi nhất định để giữ được sự thống nhất quốc gia. Nền chính trị dân chủ của Ấn Độ được xây dựng trên nền tảng thực dân Anh, nhưng giai cấp tư sản Anh mang đến Ấn Độ thứ chế độ dân chủ “sẽ không mang lại tự do cho quần chúng nhân dân, và sẽ không thể cải thiện một cách cơ bản tình trạng xã hội của họ”[2]. Trong quá trình Ấn Độ đi lên xã hội hiện đại từ xã hội truyền thống, những mâu thuẫn mang tính kết cấu xã hội như tôn giáo, chủng tộc, chủng tính, dân tộc, giàu nghèo,… vẫn sẽ khiến xã hội đầy rẫy sự đấu tranh chính trị đan xen phức tạp. Nhưng chế độ bầu cử phổ thông dưới chế độ chính trị dân chủ Ấn Độ đã mở rộng sự tham gia về chính trị, tính đa nguyên, tính phân tán và tính truyền thống của xã hội Ấn Độ lại dung hòa vào trong giá trị quan chủ nghĩa dân tộc, hình thành nên ý thức chung về chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ. Đây là vì các đảng phải tranh thủ cử tri để đạt được quyền lực chính trị, ở một mức độ rất lớn, chế độ dân chủ nghị viện lại biểu hiện thành nền chính trị đầu phiếu, các chính đảng vì để có được nhiều ghế trong nghị viện và địa vị chấp chính, nên đa phần đều hiệu triệu dưới danh nghĩa chủ nghĩa dân tộc, chủ trương tăng cường văn hóa truyền thống Ấn Độ giáo, bảo vệ sự phát triển công nghiệp dân tộc, mở rộng đối ngoại, tăng dự toán quốc phòng nhằm mưu cầu kiếm tìm địa vị cường quốc thế giới. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc và nền chính trị đảng phái này chính là một nét đặc trưng lớn của nền văn minh chính trị hiện đại Ấn Độ, chủ nghĩa dân tộc trở thành nền tảng tư tưởng lập quốc của Ấn Độ.
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ và nền chính trị dân chủ phương Tây biểu hiện một cách nổi bật qua thể chế chính trị thực hiện sự cân bằng “tam quyền phân lập”. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và thống lĩnh các lực lượng vũ trang, có quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp và tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Nhưng những quyền lực này phải dựa vào kiến nghị của Hội đồng Bộ trưởng do Thủ tướng làm trung tâm mới có thể tiến hành, tổng thống, trên thực tế, là biểu trưng cho quyền lực tối cao của nhà nước. Thực quyền nằm trong tay nội các do thủ tướng đứng đầu, mọi quyền lực hiến pháp ban cho tổng thống đều được thủ tướng thực hiện thông qua nội các. Thủ tướng nội các của Ấn Độ là nhân vật trung tâm của đời sống chính trị, thủ tướng thường là thủ lĩnh của chính đảng chiếm đa số trong quốc hội. Hội đồng Bộ trưởng được hình thành từ thủ tướng và các bộ trưởng, các bộ trưởng lại phân chia thành bộ trưởng nội các và bộ trưởng liên bang, Hội đồng Bộ trưởng thực thi quyền lực của chính phủ. Quốc hội phân thành lưỡng viện, viện Liên bang gọi là Thượng viện, viện Nhân dân gọi là Hạ viện. Tòa án tối cao giám sát và khống chế toàn bộ cơ cấu tư pháp.
Nhưng sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ và nền chính trị dân chủ phương Tây lại được xây dựng trên nền tảng địa chính trị Ấn Độ. Kết cấu nhà nước theo thể chế liên bang của Ấn Độ được phân chia thành các khu vực theo các nhân tố áp lực như dân tộc, bộ tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, chủng tính… và các tập đoàn lợi ích, cơ quan hành chính lại phân thành năm cấp gồm: trung ương, bang, huyện, khu và xã, trong đó lãnh thổ liên bang và bang ngang nhau. Ấn Độ chia toàn quốc ra thành 25 bang và 7 lãnh thổ liên bang, trong đó có bang Jammu và Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan tồn tại tranh chấp vẫn được chia thành một bang; vùng đất Sikkim sáp nhập vào Ấn Độ năm 1975 được gọi là bang Sikkim; bang Arunachal Pradesh đang tồn tại tranh chấp với Trung Quốc. Về mặt thể chế chính trị, Ấn Độ lập quốc bằng chủ nghĩa dân tộc, tức kế thừa thể chế quan chức của nước Anh để xây dựng nên đội ngũ cán bộ công vụ được gọi là “rường cột”, nhằm đảm bảo ý chí quốc gia không bị suy yếu do những mâu thuẫn về mặt tôn giáo dân tộc và sự ổn định cơ bản về mặt chính trị. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước, J. Nehru đã nhấn mạnh rằng, Ấn Độ muốn xây dựng “một cường quốc hàng đầu đặc sắc sinh động”, xây dựng một “Liên bang châu Á” với “trung tâm là Ấn Độ”, “giấc mơ cường quốc” này đã kích thích sự hưng phấn của chủ nghĩa dân tộc và là động lực không mệt mỏi của Ấn Độ. Nhưng do Ấn Độ phân chia các khu vực hành chính dựa trên nguyên tắc với các nhân tố áp lực là chủng tộc, dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ… quyền lực chính trị của chính phủ dần chuyển hướng về chính phủ liên bang, yêu cầu chính trị của các tập đoàn lợi ích và đảng phái chính trị khiến chủ nghĩa dân tộc này xuất hiện không ít các trường phái khác nhau, tóm lại, chủ yếu có ba trường phái gồm: chủ nghĩa dân tộc thế tục, chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo và phong trào Hồi giáo. Họ bảo vệ sự thống nhất quốc gia trên nền tảng “giấc mơ cường quốc” Ấn Độ, nhưng con đường và phương lược trị quốc để thực hiện giấc mơ này lại tồn tại những lợi ích và chủ trương chính trị khác nhau.
2. Đặc trưng của ba trường phái chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ
Chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ với tư cách là tư tưởng lập quốc, trong quá trình phát triển đã tạo ra sự nhiễu loạn, hình thành nên chủ nghĩa dân tộc thế tục của tầng lớp thượng lưu Ấn Độ, chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo của giai cấp tư sản dân tộc và phong trào Hồi giáo của người Hồi giáo. Ba trường phái này đều mang những nét đặc trưng riêng có.
Đặc trưng mang tính chính trị của chủ nghĩa dân tộc thế tục của tầng lớp thượng lưu Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia với truyền thống tôn giáo cực kỳ phong phú, nhưng về nguyên tắc lập quốc lại thi hành chủ nghĩa thế tục. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa dân tộc là tư tưởng trị quốc cơ bản của tầng lớp thượng lưu Ấn Độ. Tuyệt đại đa số người dân Ấn Độ đều quy y các tôn giáo khác nhau, hơn nữa, họ có lòng tin rất nhiệt thành, giá trị quan văn hóa tôn giáo thâm căn cố đế chi phối lòng tin lý tưởng của xã hội Ấn Độ. Do thi hành tư tưởng lập quốc kết hợp giữa chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa dân tộc, đi cùng với đó là sự tiến triển của công nghiệp hóa và sự mở rộng của văn hóa đô thị, quan niệm văn hóa tư tưởng của chủ nghĩa thế tục đã trở thành công cụ điều hòa tín ngưỡng tôn giáo và lợi ích của các tập đoàn xã hội khác nhau, còn chủ nghĩa dân tộc lại không ngừng nâng cao tinh thần chủ nghĩa yêu nước của người dân Ấn Độ.
Trước khi độc lập, Ấn Độ rơi vào cục diện phân liệt do sự xâm lược của nước ngoài và sự tranh chấp giữa các nước trong một thời gian dài, chủ nghĩa dân tộc chủ yếu biểu hiện ở tư tưởng chủ nghĩa phi bạo lực của Gandhi với “phong trào bất hợp tác” để lật đổ sự thống trị thực dân của người Anh. Sau khi giành độc lập, tư tưởng chủ nghĩa dân tộc của tầng lớp trên Ấn Độ nhanh chóng ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân, đồng thời nâng tư tưởng đó trở thành chủ nghĩa yêu nước. Trong lịch sử, Ấn Độ chỉ là một khái niệm địa lý, chứ không phải là một thực thể chính trị[5]. Nền văn minh Ấn Độ không giống với nền văn minh Trung Quốc, văn minh Ấn Độ “luôn tồn tại dưới trạng thái phi quốc gia”, còn nền văn minh Trung Quốc tồn tại “chưa bao giờ rời khỏi trạng thái quốc gia”[6]. Chính vì điều này mà nhân dân Ấn Độ vô cùng xem trọng tính độc lập của quốc gia. Mặc dù xã hội Ấn Độ mâu thuẫn do các tập đoàn lợi ích khác nhau, từ đó khiến các sự kiện bạo lực không ngừng nổ ra, mọi người không quan tâm ai đang nắm quyền, mà chỉ quan tâm đến sự cân bằng về kết cấu xã hội. Ấn Độ có một câu ngạn ngữ rằng: “Ai quan tâm đến sự thống trị của Rama hay của Ravana”. Rama là vị thần trong thần thoại Ấn Độ, là vị anh hùng dân tộc trong con mắt người Ấn Độ giáo, còn Ravana là một ác thần trong thần thoại Ấn Độ. Điều này có nghĩa là, chỉ cần không lật đổ kết cấu xã hội thì không quan tâm việc ai là người thống trị. Nhà chính trị gia nổi tiếng Ấn Độ Prakash Narayan từng nói rằng: “Chính đảng lớn nhất Ấn Độ là chủng tính”[3]. Trong nhiều tình huống, đằng sau sự đấu tranh mâu thuẫn giữa các chủng tính, xung đột giữa các giáo phái, khoảng cách ngôn ngữ và sự đấu tranh giữa các chính đảng đều là sự tranh đoạt quyền lực kinh tế chính trị giữa các tập đoàn lợi ích. Mác từng chỉ ra rằng “chế độ chủng tính là chướng ngại cơ bản trên con đường tiến bộ và cường thịnh của Ấn Độ”. Mặc dù năm 1950, Ấn Độ ban bố pháp lệnh loại bỏ chế độ chủng tính, nhưng quan niệm tôn giáo thâm căn cố đế và ý thức chủng tính vẫn trở thành nền tảng tư tưởng của đấu tranh chính trị. Dưới sự thúc đẩy của các nhà chính trị giai cấp tư sản như Nehru, tư tưởng chủ nghĩa dân tộc của tầng lớp thượng lưu Ấn Độ muốn nhanh chóng trở thành dòng chảy chủ lưu của trường phái chủ nghĩa yêu nước trong toàn xã hội. Tư tưởng chủ lưu này không ngừng khắc phục mâu thuẫn xã hội gay gắt do các vấn đề dân tộc, tôn giáo, chủng tính, chính đảng gây nên, quy phạm và hạn chế các mâu thuẫn vào trong phạm vi nhất định, điều này không đến mức làm lật chìm con tàu “quốc gia”. Đồng thời, khuynh hướng chính trị hóa chủ nghĩa dân tộc thế tục trở thành động lực quan trọng khiến Ấn Độ trỗi dậy một cách nhanh chóng, đóng vai trò thống trị và chi phối trong đời sống kinh tế và chính trị, đặt nền móng “thành trì tâm lý”, “quan niệm độc lập”, “ý thức cường quốc” của người dân và “tâm thế anh hùng”, “ý thức trung thành” của quân đội. Hiện nay, ý thức cường quốc chủ nghĩa dân tộc của thượng tầng Ấn Độ đang dẫn dắt quốc gia này. Các quốc gia phương Tây thường cho rằng: “Ấn Độ tuy là quốc gia ở vào trạng thái vô chính phủ, nhưng lại được vận hành một cách hiệu quả”. Học giả quan hệ quốc tế người Mỹ, Karl Deutsch cho rằng, Ấn Độ là một trong những quốc gia “có nền chính trị ổn định, dân chủ và tuân thủ pháp luật”. Tuy nhìn từ phương diện thực lực chính trị và kinh tế, Ấn Độ là quốc gia đang phát triển, nhưng nước này “có phương thức đặc biệt về tổ chức xã hội, phương thức này không những ảnh hưởng đến sự nhìn nhận của Ấn Độ đối với thế giới, mà cũng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của thế giới đối với Ấn Độ”. Đây là đặc trưng điển hình của sự chính trị hóa chủ nghĩa thế tục Ấn Độ.
Đặc trưng mang tính chủ thể của chủ nghĩa dân tộc tôn giáo của giai cấp tư sản dân tộc Ấn Độ
Chủ nghĩa dân tộc của giai cấp tư sản dân tộc Ấn Độ mang màu sắc tôn giáo mạnh mẽ. Từ sau thập niên 90 của thế kỷ XX, Ấn Độ trỗi dậy trường phái tư tưởng chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo. Đảng Nhân dân Ấn Độ lợi dung trường phái tư tưởng này để đề ra ý thức hệ và chủ trương chính sách của bản thân, họ cho rằng “chính trị phải lấy giá trị làm nền tảng”, “giá trị ở đây mang màu sắc tôn giáo rất mạnh, có nghĩa chỉ có giá trị của Ấn Độ giáo mới là phương thuốc diệu kỳ trị được căn bệnh chính trị của Ấn Độ”[4]. Nhưng tôn giáo lại có tính biệt lập cực kỳ mạnh mẽ. Ngày 6/12/1992, “Cuộc tranh chấp nhà thờ Babri” giữa tín đồ Ấn Độ giáo và tín đồ Hồi giáo đã trở thành cuộc xung đột đẫm máu toàn quốc, khiến hàng ngàn người tử vong. Tín đồ Ấn Độ giáo cuồng nhiệt đã san bằng ngôi đền với ý đồn xây dựng đền thờ Rama ở vị trí cũ đã gặp phải sự chống đối kịch liệt của tín đồ Hồi giáo. Sau tám năm, ngày 6/12/2000, Thủ tướng Vajpayee lại nói rằng, “việc xây dựng đền thờ Rama là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước”, điều này một lần nữa làm bùng lên ngọn lửa xung đột tôn giáo. Điều này chứng tỏ, Đảng Nhân dân Ấn Độ tìm cách tập hợp sự đồng thuận dân tộc thông qua việc tăng cường ý thức Ấn Độ giáo, điều này thể hiện ý đồ tăng cường tinh thần chủ nghĩa yêu nước, thực hiện chấn hưng dân tộc và cường thịnh đất nước thông qua sự phục hưng văn hóa Ấn Độ giáo.
Trường phái tư tưởng chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo đã trở thành ý thức chủ lưu của xã hội Ấn Độ. Giai cấp tư sản dân tộc Ấn Độ đạt đến con số 250 triệu người, là lực lượng trung kiên thúc đẩy công cuộc hiện đại hóa. Do số lượng người tín ngưỡng Ấn giáo chiếm đa số trong nước, tính dân tộc của chủ nghĩa dân tộc này đã kích thích các giáo phái khác biểu đạt lợi ích và nguyện vọng của bản thân bằng con đường bạo lực, từ đó tạo nên tính bất ổn của xã hội. Hiện tượng này được học giả Mỹ Samuel Huntington cho là “hiển nhiên là sự phản ứng được tạo ra từ tình trạng căng thẳng và tha hóa do hiện đại hóa tạo nên”[7]. Chủ nghĩa thế tục đã điều hòa sự phản ứng này trong quá trình hiện đại hóa, văn hóa thế tục tương đối nhấn mạnh vào màu sắc lợi ích quốc gia, biến chủ nghĩa dân tộc bị tha hóa đó phát triển theo hướng chủ nghĩa dân tộc kinh tế và văn hóa khoa học kỹ thuật. Sự tồn tại chung giữa văn hóa thế tục và văn hóa tôn giáo khiến sức mạnh xung đột tạo ra từ sự biến động các mâu thuẫn bị phân tán, bảo đảm sự ổn định cơ bản về kết cấu xã hội và tính bền vững của đời sống xã hội về quan niệm giá trị văn hóa; còn chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo lại nhấn mạnh đến nhân tố Ấn Độ giáo trong chủ nghĩa dân tộc, hướng “ý thức cường quốc” của Ấn Độ đến chỗ cực đoan. Để theo đuổi “địa vị cường quốc”, chủ nghĩa này nhấn mạnh việc theo đuổi “địa vị trung tâm” ở Nam Á và Ấn Độ Dương là bước đầu tiên của chiến lược cường quốc, mưu cầu “địa vị trung tâm” ở Nam Á là bước thứ hai của chiến lược cường quốc, mưu cầu “địa vị trung tâm” thế giới là mục tiêu cuối cùng của chiến lược này. Việc giành một ghế ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là mục tiêu hiện thực của chiến lược cường quốc của nước này. Đây là ý nguyện của đại đa số tín đồ Ấn Độ giáo, nó là đặc trưng mang tính chủ thể điển hình.
Đặc trưng mang tính không hài hòa của phong trào Hồi giáo Ấn Độ
Ở Ấn Độ, đối với vấn đề xây dựng quốc gia như thế nào và xây dựng ra sao luôn tồn tại sự khác biệt giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo, chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo của người Hồi giáo mang đặc trưng không hài hòa này. Tính không hài hòa này hoàn toàn được tạo nên từ sự gây chia rẽ dưới thời thực dân Anh. Năm 1906, “Liên đoàn Hồi giáo toàn Ấn” được thành lập ở Dhaka yêu cầu thành lập một nhà nước riêng với chủ thể là người Hồi giáo; nhưng tổ chức “Hindu Mahasabha” được thành lập vào năm 1923 lại yêu cầu người Hồi giáo cải đạo và thành lập quốc gia Ấn Độ giáo. Do sự khiêu khích và xúi giục của người Anh, các nơi trong nước đã xảy ra sự kiện giết chóc lẫn nhau giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Đặc biệt, trong khoảng thời gian từ năm 1946 đến năm 1947, sự thù hằn tôn giáo đã khiến lượng lớn người bỏ mạng, chỉ riêng ở Calcutta đã có 5000 người mất mạng, 2 vạn người bị thương, 10 vạn người mất nhà. Đối mặt với tình hình phức tạp căng thẳng đó, chính phủ Anh không thể đối phó. Ngày 15/8/1947, hai nước Ấn Độ và Pakistan tuyên bố độc lập. Do “phương án Mountbatten” chỉ đơn giản phân chia Ấn Độ thuộc Anh thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakistan, vì thế, dưới khẩu hiệu “quay về với tổ quốc” đã xảy ra sự xung đột giữa các tín đồ và giáo phái sống hòa lẫn với nhau.
Chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo có tính quốc tế. Ở Ấn Độ, tín đồ Hồi giáo chỉ chiếm thiểu số, đa phần người Hồi giáo sống ở đáy xã hội, thường chịu sự bài trừ của tầng lớp chủ lưu trong xã hội và sự kỳ thị về ý thức. Tính đa nguyên, tính phân tán và tính truyền thống trong xã hội Ấn Độ lại dung hòa trong quan niệm giá trị chủ lưu của Ấn Độ giáo, từ đó hình thành nên ý thức chung về chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ. J. Nehru từng nói rằng: “Ấn Độ giáo chỉ là một tôn giáo hoặc một chế độ xã hội; nó là cốt lõi của nền văn minh Ấn Độ”[8]. Trong văn hóa chủ lưu của nước này không phải nhìn nhận văn hóa Hồi giáo bằng quan niệm văn minh bình đẳng, mà đánh giá nền văn minh Hồi giáo bằng quan điểm hiện đại hóa. Nhìn từ quan niệm văn minh, bất kỳ hình thái văn minh nào đều không có sự phân biệt, các hình thái văn minh đều được tôn trọng; nhưng nhìn nhận các nền văn minh dưới con mắt quan niệm hiện đại hóa lại có sự phân biệt tiên tiến và lạc hậu. Giai cấp tư sản Ấn Độ chịu ảnh hưởng bởi “thuyết xung đột các nền văn minh”, họ xem nền văn minh Hồi giáo là hình thái văn hóa lạc hậu, thậm chí xem chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo là nền tảng của tư tưởng chủ nghĩa khủng bố. Vì thế, người Hồi giáo rất khó hòa nhập vào xã hội chủ lưu Ấn Độ, dẫn đến sự bất mãn về chính sách bên trong và bên ngoài của Ấn Độ về mặt giá trị quan. Ví dụ: Họ đồng tình với Pakistan, phản đối chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền của Mỹ, không đồng ý việc chính phủ thân Mỹ, không tán thành quan hệ Ấn Độ - Israel… Đó đều là đặc trưng điển hình của tính không hài hòa của chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo Ấn Độ.
3. Ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ đối với toàn cầu hóa và đa cực hóa
Chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ là ý thức hệ được tinh thần hóa và tôn giáo hóa cao độ. Bất luận là chủ nghĩa dân tộc thế tục hay chủ nghĩa dân tộc tôn giáo, nền tảng triết học của nó đều thấm nhuần tinh thần tôn giáo trầm tư suy ngẫm, lại thể hiện đặc trưng thế tục tư duy biện luận và tìm kiếm mạnh mẽ. Đặc biệt là triết học Brahman của Ấn Độ xem “Brahman” trở thành vị thần thống trị vũ trụ bao la, là nền tảng khởi đầu của vạn vật, là bản thể của tinh thần tối cao, và Ấn Độ nằm ở trung tâm của thế giới. Brahman có bốn khuôn mặt nhìn về bốn hướng, có bốn cánh tay lần lượt cầm hoa sen, kinh Veda, tràng hạt và chìa khóa, đây là vị thần sáng tạo của Ấn Độ giáo. Để xây dựng nhà nước Liên bang Đại Ấn Độ, trong quốc ca Ấn Độ nổi bật tinh thần “mãi mãi không đối địch với thiên hạ”; trên quốc huy của nhà nước nổi bật biểu trưng “chỉ có chân lý là tất thắng”; màu cam trên nền cờ đại diện cho sức mạnh, màu trắng đại tượng trưng cho sự thuần khiết, màu xanh đại diện cho lòng tin; hình pháp luân tượng trưng cho bánh xe thần thánh, bánh xe chân lý và bánh xe hướng về phía trước. Những tư tưởng lập quốc và sự kết hợp của ba hình thái chủ nghĩa dân tộc không chỉ thể hiện hạt nhân tư duy của “thuyết Ấn Độ là trung tâm”, mà còn là trụ cột tinh thần và động lực của sự trỗi dậy Ấn Độ. Điều này quyết định việc chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ tất nhiên có sự ảnh hưởng phức tạp và tinh tế đối với sự toàn cầu hóa và đa cực hóa của thế giới.
Hiện nay, toàn cầu hóa về kinh tế thể hiện rõ xu thế phát triển mạnh mẽ. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế nhất thể hóa về kinh tế các nước trên thế giới trên các phương diện sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng, đặc trưng cơ bản nhất của nó là sự di chuyển và phân phối về hàng hóa, kỹ thuật, thông tin và tư bản trên phạm vi toàn cầu, hình thành nên cục diện dựa dẫm, đan xen và ức chế lẫn nhau của nền kinh tế toàn cầu. Thế lực chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ có sự ảnh hưởng hai mặt tích cực và tiêu cực đối với toàn cầu hóa về kinh tế. Về phương diện tích cực, từ thập niên 90 của thế kỷ XX, các trường phái chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ đều có ý thúc đẩy chính phủ tích cực thực hiện sự cải cách về kinh tế, biến thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI trở thành “thập niên Ấn Độ”, tốc độ tăng trưởng kinh tế trong mười năm bình quân đạt từ 7%-8%, đồng thời trong 20 năm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 9%. Chủ nghĩa dân tộc là cỗ máy phục dịch và trợ lực giúp kinh tế Ấn Độ cất cánh. Từ khi nước này thúc đẩy cải cách kinh tế cho đến nay, nền kinh tế cơ bản giữ được con số tăng trưởng tương đối cao, trở thành một trong mười thị trường mới nổi trên thế giới. Nhìn từ tương lai phát triển kinh tế trung, dài hạn, Ấn Độ có tiềm lực tăng trưởng tương đối lớn. Đến năm 2020, Ấn Độ có hy vọng trở thành cường quốc kinh tế thứ tư trên thế giới[9]. Sự quật khởi của Ấn Độ có lợi cho việc phá vỡ trật tự kinh tế chính trị thế giới cũ, thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế. Nhưng chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ với nền tảng là “Thuyết Ấn Độ là trung tâm” là một kiểu ý thức hệ kiêu ngạo, một khi Ấn Độ trỗi dậy nhanh chóng, tạo nên ảnh hưởng đối với quyền lợi phát triển bình đẳng của các quốc gia xung quanh và các dân tộc nhược tiểu. “Liên minh Hợp tác khu vực Nam Á” thiếu sức sống có liên quan đến thái độ của Ấn Độ, tác dụng chủ đạo của nó áp chế sự phát triển và hợp tác của khu vực Nam Á. Đây là tình hình thực tế của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ gây trở ngại cho sự toàn cầu hóa về kinh tế và hợp tác kinh tế khu vực.
Sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ mang lại ảnh hưởng phức tạp và tinh tế đối với sự đa cực hóa thế giới. Nước Mỹ định vị Ấn Độ là “cỗ máy cân bằng chiến lược của châu Á”, nhằm khắc chế sự phát triển của Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác. Ảnh hưởng tiêu cực của điều này chủ yếu gây bất lợi cho sự câng bằng sức mạnh khu vực, bất lợi cho việc giải quyết các vấn đề lịch sử của mối quan hệ Ấn Độ và Pakistan, không có lợi cho sự khống chế quân sự và không phổ biến vũ khí hạt nhân, tạo ảnh hưởng phức tạp đối với an ninh quốc tế. Nhưng Ấn Độ với tư cách là một cường quốc khu vực, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc nước này tất nhiên xung đột với lợi ích bá quyền toàn cầu của Mỹ. Giữa hai nước Mỹ và Ấn về chế độ xã hội tuy có sự tương đồng, nhưng lợi ích quốc gia lại đối lập. Mỹ muốn xây dựng một hệ thống “bá quyền” thế giới với dưới sự lãnh đạo của nước này, Ấn Độ tuy muốn trở thành “trung tâm thế giới”, nhưng lại không đủ thực lực, hiện tại vẫn chủ trương hệ thống “đa cực”, đồng thời muốn làm một cực trong số đó. Vì thế, quan hệ Ấn Mỹ không được hài hòa, nói chung luôn “ở trong trạng thái phập phù bất định, có lúc hữu hảo, có lúc đối địch, đa phần các tình huống thường rơi vào tình trạng xa rời”, “ngoại trừ tuân thủ thể chế chính trị dân chủ ra, hai nước này gần như không có điểm chung”[10]. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ có lợi cho việc khống chế chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền Mỹ, có lợi cho việc cân bằng các cường quốc trong quan hệ quốc tế, có lợi cho sự phát triển đa cực hóa. Nhưng nó gây bất lợi cho sự cân bằng sức mạnh khu vực, nó mưu cầu ưu thế địa chính trị và sức mạnh quân sự, chèn ép các nước và dân tộc nhỏ tham gia tái xây dựng trật tự thế giới, mang lại ảnh hưởng bất lợi ở một mức độ nhất định đối với tiến trình đa cực hóa thế giới. Ấn Độ cùng với Mỹ tiến hành kế hoạch “hợp tác hạt nhân” với ý đồ thông qua đó để khống chế Trung Quốc nhằm thực hiện “giấc mơ cường quốc”, đây cũng là kết quả tất yếu của sự bành trướng chủ nghĩa dân tộc.
[1] Sikata Banerjee, Political, Secularization and the Future of Secular Democracy in India, Asian Survey No.10,1998.
[2]Tuyển tập Mác – Ăngghe (tập 2), NXB Sự thật Hà Nội, 1981, tr.567. (Những kết quả tương lai của sự thống trị của Anh ở Ấn Độ)
[3] Sikata Banerjee, Political, Secularization and the Future of Secular Democracy in India, Asian Survey No.10,1998.
[4] Jaswant Singh, Defending India, PP.10-16, Macmillan India.
[5] Lin Liangguang, Nghiên cứu chế độ chính trị Ấn Độ [M]. NXB Đại học Bắc Kinh, 1995, tr. 247.
[6] Shaila Seshia, Divide and Rule in Indian Party Politics, Asian Survey, No.11, 1998.
[7] Samuel Phillips Huntington, The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, 1996.
[8]J. Nehru, Phát hiện Ấn Độ, 1958, tr.64-65 (bản tiếng Trung).
[9] Sự phát triển của Ấn Độ và chiến lược đối ngoại của nó[M]. NXB Khoa học xã hội Trung Quốc, tr. 11.
[10] Sự phát triển của Ấn Độ và chiến lược đối ngoại của nó[M]. NXB Khoa học xã hội Trung Quốc, tr. 347
Nguồn: http://cis.org.vn