Bằng con mắt quan sát tinh tế của nhà nghiên cứu nghệ thuật, ông Pal Dzung đã phê bình bộ phim truyện nổi tiếng Cánh đồng chết (The killing Foelds) của đạo diễn Roland Joffé, từng đoạt 7 giải OSCAR dựa trên những sự kiện có thật về hai nhà báo New York Time một Mỹ, một Khơme trong thời kỳ diệt chủng của Khơme đỏ - nhưng vẫn thiếu chân thật khi làm về Cămpuchia. Ông bắt lỗi khi các nhà làm phim không hiểu thấu đáo về đất nước và đồng bào của ông, nên đã cho các nhân vật trong phim đều mặc trang phục màu đen đồng phục như nhau. Trên thực tế, đám người bị đầy ải này phải tự vội vã nhuộm đen tất cả các kiểu loại quần áo mỏng, dày, màu sắc khác nhau, vốn là các bộ đồ đang mặc, nên vì thế sắc độ đen chẳng thể có màu giống nhau. Tương tự, trong công xã: các loại bát, thìa, cà mèn, hộp gugo... dùng để đựng khẩu phần thức ăn của từng người cũng cọc cạch to, nhỏ đủ chủng loại khác nhau chứ không bao giờ đồng loạt như những chiếc bát sắt được sản xuất hàng loạt giống nhau như trong phim.
Từ khi chưa sang Cămpuchia, chúng tôi đã từng được nghe giới thiệu về quần thể đền đài linh thiêng Angkor Wat, Angkor Thom... Tuy nhiên, khi gặp ông Pal Dzung, chúng tôi được hiểu sâu thêm nhiều điều về đất nước Chùa Tháp. Từ cuốn Angkor được in bằng tiếng Pháp (1), ông dịch nghĩa cho chúng tôi những mật mã bí ẩn từ di sản người xưa. “Chỉ riêng những lớp đường viền (con tiện) trang trí vòng quanh các chấn song đá tại cửa sổ đền Angkor Wat, nếu quan sát kỹ trong mỗi buổi chiều tà sẽ thấy được quang cảnh như trùng trùng điệp điệp những rừng Chùa Tháp nối tiếp nhau cùng hiện trên nền trời hoàng hôn”.
Giống như một số nước, người dân Cămpuchia có tục chào với hai tay chắp vào nhau, để khum khum trước ngực và đầu hơi cúi nhẹ thể hiện thái độ trân trọng khách. Đáp lại, khách cũng cần bày tỏ tình cảm và điệu bộ tương ứng, nghĩa là cũng nên chắp tay và cúi đầu hơi nhẹ cùng nụ cười thân thiện trên môi. Tuy nhiên cũng cần biết thận trọng với chính đôi bàn tay mình vì trên mảnh đất nhiều đền đài linh thiêng này, người ta không mấy thiện cảm khi trông thấy người đối diện lạm dụng tín hiệu diễn tả bất cứ chuyện gì, kể cả cách nói lóng, cũng bằng tay và càng kiêng kỵ hơn khi ai đó có thói quen dùng ngón tay chỉ vào mặt người khác. Người Cămpuchia luôn coi tay trái là không được sạch sẽ nên không bao giờ dùng nó để đưa đồ vật, tiền nong cho người khác. Phong tục phương Đông kín đáo, khác với các nước phương Tây cởi mở, người dân Khơme không thích những hành xử quá xuồng xã, thân mật khi nam nữ bày tỏ tình cảm âu yếm công khai nơi công cộng, ngay cả việc nam nữ tay trong tay khi đi dạo cũng là điều nên tránh.
Điều thú vị là người Cămpuchia có tục kiêng xoa đầu trẻ em. Họ quan niệm chỉ có thánh thần, cha mẹ em bé và người thợ cắt tóc mới được quyền làm việc ấy. Khi em bé chào đời, nó được chui ra từ cửa mình của mẹ - mà người Cămpuchia thành kính coi đó là Cửa Vàng cao quý. Trong giây phút sinh thành thiêng liêng ấy, mẹ là người đầu tiên được phép xoa nhẹ lên đầu đứa bé. Sự kiện ấy có thần linh chứng giám. Và chắc cũng không phải ngẫu nhiên mà những sợi tóc đầu tiên mọc trên đầu con trẻ, người ta hay gọi là tóc máu.
Ông Pal Dzung kể, ở Xiêm Riệp có hẳn ngôi đền thờ Cửa Vàng, như là đền Mẫu, đền Bà… ở Việt Nam. Tiếc là, dù rất muốn đến nơi này, nhưng khi đó chúng tôi không thể thực hiện được vì tại Cămpuchia ban đêm vẫn còn lệnh giới nghiêm và tình hình an ninh đường bộ chưa cho phép đi Xiêm Riệp, trừ khi có trực thăng quân sự.
Sau này, rất nhiều năm tôi vẫn luôn bị ám ảnh và thắc mắc bởi cái truyền thuyết về Cửa Vàng khá lý thú ấy. Âm thầm tìm kiếm, nhưng chúng tôi vẫn chưa thấy được cuốn sách hay bài báo nào về nó.
2. Trở lại Cămpuchia, tới thăm đền Banteay Srei nổi tiếng
Sau 15 năm, húng tôi mới có dịp quay lại Cămpuchia và thỏa lòng khi tới được Angko Vat, Ăngko Thom trong một chuyến làm phim tài liệu. May mắn nữa lại được Giám đốc Công ty du lịch dã ngoại Lửa Việt Lê Ngọc Mỹ, một trong những người am hiểu khá sâu sắc về Cămpuchia, trực tiếp tháp tùng và hướng dẫn đoàn.
Trên xe, ông Lê Ngọc Mỹ vô tình nhắc tới Cửa Vàng và tục kiêng kỵ xoa đầu trẻ em, khiến chúng tôi càng nhớ đến ông Pal Dzung, người trí thức Cămpuchia thân thiết, đã nhiều năm mất liên lạc.
Từ trung tâm thị trấn Xiêm Riệp, theo con đường hơn 20km rợp bóng mát nhờ hai hàng cây bên đường chụm đầu vào nhau như làm thành một cổng chào màu xanh dài bất tận, khi thì xuyên qua cánh rừng già với những đụn mối lớn, khi thì qua những cánh đồng lúa vàng sắp gặt và những dặng thốt nốt chẳng thể lẫn với đâu và lướt qua những xóm nhà hai bên đường với hàng rào hoa huệ tây màu đỏ, những quán bày bán đường thốt nốt..., chúng tôi tới đền Banteay Srei.
Có thể trước kích thước khiêm tốn của ngôi đền này, thoạt đầu ai đó sẽ hụt hẫng nếu đem so sánh với sự hùng vĩ choáng ngợp của Angkor Wat, đền Bayon, Takeo…Nhưng, vừa chỉ mới bước qua cổng đền vào bên trong thì người ta mới càng ngỡ ngàng thực sự bởi sự xinh xắn, tinh xảo đến bất ngờ.
Đền Banteay Srei, còn có tên là Tribhuvanamahesvara, nằm gần đồi Phnom Dei, hướng về phía đông bắc, do quý tộc Yajnavaraha, một người Bà la môn giáo rất sùng bái thần Shiva, cho xây vào năm 967 theo kiểu thức mới gồm ba ngôi đền thờ hợp lại trên cùng một nền bởi những nhà dài phân chia đăng đối. Bên ngoài là lớp tường thành bao quanh bốn mặt, mỗi mặt được ngắt đoạn bởi một hành lang ngắn tạo thành cửa ra vào trung tâm. Tuy nhiên, cùng với những biến động thăng trầm của lịch sử, ngôi đền được chính thức xây dựng và mở rộng lại vào TK VIII, mãi nhiều năm sau đó, điêu khắc theo truyền thống trên đá cát kết (lanh tô, cột con, trán tường, cột trụ tường), sử dụng các lối trang trí cành lá, vân sóng uốn lượn phong phú pha trộn với các nhân vật là một trong những thành tố tạo nên bản sắc độc đáo Khơme vào TK XII và chính thức hoàn thành trọn vẹn vào TK XIV.
Theo Lonely Planet and Ancient Angkor (2) thì Banteay Srei có nghĩa là Citadel of the Women, (tạm dịch là đền đàn bà, hay theo như cách người Việt vẫn gọi tắt: đền Bà). Có người cho rằng có cái tên này là do ngôi đền quá tinh xảo nên chỉ có thể được xây dựng bởi bàn tay phụ nữ. Có người thì xem đây cũng chỉ là một cách nói để làm nổi bật sự đặc sắc của ngôi đền. Còn chúng tôi sẽ có suy luận khác.
Nếu lấy quy pháp tạo hình và phong cách mỹ thuật châu Á làm cơ sở thì việc nghiên cứu trang trí kiến trúc, giúp ta phân tích được sự tiến triển của nghệ thuật và chỉ ra những thành tố cho phép xác định niên đại chắc chắn của công trình. Được xem là trung tâm hình ảnh của tôn giáo, Banteay Srei được xây chủ yếu bằng đá sa thạch đỏ và một chất pha màu được thêm vào những bức điêu khắc trang trí công phu trên tường vẫn còn lại đến nay. Bao bọc xung quanh là rất nhiều tháp, mà người ta gọi là Isvarapura, làm cho ngôi đền càng trở nên nổi tiếng và xứng đáng là viên ngọc quý trong trang sức của nghệ thuật Khơme. Tràn đầy công trình là vô vàn những tạo hình điêu khắc, được xem là tuyệt đỉnh của nghệ thuật trên đá với những mảng phù điêu hoa văn uyển chuyển nhịp điệu một cách tinh tế và khéo léo tới từng chi tiết nhỏ li ti. Trong những cành hoa lá của những mi cửa và cửa hành lang điện sảnh là những con phật sư hay sư tử và các vị thần linh được chạm khắc một cách tinh xảo.
Trên sân nhỏ giữa đền ở vòng trong có ba đền thờ: kiến trúc đền thờ phía bắc thờ thần Vishnu, đền trung tâm và đền phía nam thờ thần Shiva. Đền Banteay Srei gồm ba lớp, qua cầu đá đi vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua hào nước (nay không còn) là cổng vào vòng giữa và cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và hai toà kiến trúc gọi là thư viện. Nối với trung tâm đền là các tượng người ngồi trang nghiêm bảo vệ đền. Người hướng dẫn viên Cămpuchia cho biết, các tượng này chỉ là phiên bản sao đúc lại, còn tượng gốc hiện đang được giữ bảo quản ở Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh.
Trong quá khứ, cùng chung số phận với hơn 45 cụm di tích khác trong quần thể Angkor, đền Banteay Srei bị quên lãng, bỏ hoang trong rừng già suốt nhiều thập kỷ và chỉ chính thức được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện vào năm 1914.
Người ta mãi truyền miệng nhau một sự kiện liên quan đến số phận ngôi đền. Đó là vào năm 1923, nhà văn trẻ người Pháp André Malraux cùng vợ và một người bạn đã đục lấy đi một số tượng và phù điêu nặng hơn 600kg, thuê chở bằng xe bò và sau đó lên tàu thủy để đến Phnom Penh bán cho một mối sưu tầm đồ cổ. Nhưng cả ba đều bị bắt và bị kết án tù. Sự kiện này buộc các cấp chính quyền phải quan tâm giữ gìn và bảo vệ các cổ vật di sản quý báu tại Angkor. Sau đó, nhà khảo cổ Marchal được giao phục hồi, sửa chữa những chỗ bị hư hại cho ngôi đền.
Sinh thời, nhà văn Vương Hồng Sển kể lại việc ông đã đến thăm Banteay Srei vào năm 1940, sau khi nó đã được phục hồi. Trong ký ức của tác giả, đường tuy rất khó đi, nhưng thật tuyệt vời khi tới được đó: ngôi đền thiêng rực màu đá đỏ, hầu như vẫn còn nguyên giữa rừng già.
3. Có phải Cửa Vàng là đây?
Giữa trưa, thật khó tìm được một nơi trú nắng giữa những ngọn tháp quá bé nhỏ, nhưng nhiều người cùng có cảm giác thời gian dường như trôi chậm lại, không gian tĩnh lặng khi ai nấy đều đi lại lặng lẽ, mê đắm trước những họa tiết trang trí trên đá, liên tục bấm máy ảnh, máy quay phim… Tại Banteay Srei, những hào nước vây quanh ngôi đền đều khô cạn, cây rừng xung quanh rậm rì nhưng không vươn đến được khu đền xinh xắn này.
Khi lưng áo đẫm mồ hôi và máy ảnh sắp hết pin, chúng tôi lững thững ra khỏi khu đền, đi về phía một bãi đất trống tìm chỗ ngồi nghỉ. Lúc khom người qua một cổng chào hơi hẹp để định bước đi tiếp, bỗng chúng tôi như khựng lại trước niềm cảm xúc khó tả. Phải đây không? Đây có phải là Cửa Vàng nơi sinh ra đàn đống các con - như truyền thuyết linh thiêng mà ông Pal Dzung đã kể? Đây có đúng là Cửa Vàng mà ông Lê Ngọc Mỹ vô tình vừa nhắc?
Hình ảnh điêu khắc trên đá sa thạch ở mái cổng chào mô tả cảnh ái ân giữa một vị thần có khuôn mặt như sư tử với một thiên tiên vũ nữ. Vị thần đó là hình ảnh thần sáng tạo Brahma, là thần Shiva (hủy diệt) hay thần Vishnu (bảo vệ)? Vị thần nào trong ba vị đang bỏng cháy ân ái với thiên tiên vũ nữ có khuôn mặt hệt nàng Apsaras nổi tiếng xứ này?
Cửa Vàng chỉn chu trong nhiều khung nẹp viền hình chữ nhật như khung tranh. Kích thước chiều cao và ngang hơi thấp, hẹp, do đó, người có chiều cao tương đối khi chui ra chui vào cũng phải hơi cúi mình nếu không muốn bị cộc đầu. Đó phải chăng là dụng ý muốn ai cũng phải cúi mình trước cửa mẹ? Hai bên đều có cột trong và ngoài. Cột ngoài vuông thành được trang trí chạm khắc hoa văn. Cột trong tròn có những đường viền con tiện trang trí. Hai cột ngoài đỡ tầng mái cổng. Hai cột trong hơi thụt vào gắn liền với khung cửa. Trên mặt phẳng nơi cổng mái, dây hoa văn uốn lượn đăng đối lượn mềm như thân rắn, vươn lên đỉnh cao ở ngọn, tỏa đều sang hai bên chạm đến đầu đỉnh cột ngoài. Đều đặn trên sống lưng rắn là những hoa văn vân xoắn vừa như lưỡi lửa, vừa như sấm chớp, mây mưa.
Trung tâm mặt phẳng phù điêu trên mái Cửa Vàng là hình ảnh miêu tả cảnh âu yếm làm tình được nghệ thuật hóa một cách sinh động, nhưng không hề vương vấn sự dâm bôi chốn tục trần. Trong ái ân giao hòa âm dương, nằm ở phía trên là vị thần mặt sư tử, mắt lồi, mũi nở, thè lưỡi, há miệng..., dùng hai bàn tay móng vuốt bóp chặt đôi bầu ngực vũ nữ. Nàng nằm bên dưới, ngửa mặt đôi vai và đôi cánh tay như mở ra để ưỡn căng ngực, đôi bàn tay ghì bấu chặt vào hai cánh tay mạnh mẽ của thần. Như muốn đốt cháy thân thể phồn thực của thiên tiên vũ nữ, thần há to miệng, thè chiếc lưỡi ram ráp gai và nhọn nóng như lửa liếm vào kẽ ngực của nàng. Trên đầu thần là những dải hoa lá vừa như vân xoắn gắn với bầu trời, mây cuộn, vừa dưới dạng dây hoa lá cách điệu chồng và lồng nhau.
Điều thú vị nữa, lẫn giữa những dây hoa kết nối, uốn lượn vừa như hoa lá, vừa như sóng cuộn là bốn đứa trẻ kháu khỉnh, mũm mĩm nhảy múa, nô đùa trong hạnh phúc hoan ca. Điều đặc biệt là bốn đứa trẻ này đăng đối nhau mỗi bên một bé trai, một bé gái. Hai đứa trẻ gái như với tay bứt hoa bứt lá hay như đang rỡn với mây, mưa cùng sóng lớn. Hai đứa trẻ trai chắp hai tay lên cao trên đầu như đang vái, mắt mũi miệng tươi như đang nghịch ngợm thích thú khi được chứng kiến quang cảnh động trời.
Anh I Pa Nha, người Cămpuchia đi phụ cùng đoàn phim, thốt lên: “Hay quá, thế mà bây giờ em mới biết. Từ muôn vàn cát bụi, mọi sinh linh được may mắn làm người cũng đều chui ra từ cái cửa mẹ - biểu tượng Cửa Vàng linh thiêng này!”
Chẳng ai có quyền cấm ta liên tưởng. Nhưng khoa học vẫn phải có căn cứ khách quan của nó. Vậy điều gì khiến chúng tôi tin chắc rằng đây chính là Cửa Vàng?
Trước nhất, theo chỉ bày của Pal Dzung, thì ngôi đền thờ Cửa Vàng nằm ở Xiêm Riệp. Thứ hai, căn cứ vào cái tên của chính ngôi đền. Thật không phải ngẫu nhiên mà Banteay Srei lại còn được mang tên là Citadel of the Women.
4. Thử giải mã ý nghĩa hình tượng
Tìm hiểu Hindu giáo, chúng ta hiểu được ý thức tâm linh gửi gắm thông qua những biểu đạt ngôn ngữ kiến trúc và trang trí điêu khắc cổ. Theo tác giả Lê Đình Phụng, muốn giải mã những hình ảnh điêu khắc đó, trước hết dựa vào thần tích, sử thi Hindu giáo cùng sự biến đổi ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo theo mỗi thời gian của thời đại lịch sử tạo ra tác phẩm.
Trong tôn giáo và triết học Ấn Độ, người ta cho rằng trong vũ trụ có tới 33.333 vị thần, trong đó Brahma được coi là đấng tối cao bất diệt, Shiva, Vishnu là những vị thần lớn hợp cùng với Brahma thành hệ thống tam thần hay tam vị nhất thể, tam vị nhất linh. Trong quá trình Hindu giáo truyền bá ra các nước láng giềng, tùy mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi địa phương mà việc thờ cúng ba vị thần có khác nhau. Ví dụ ở Campuchia trước thờ chính là Brahma, sau là Vishnu; ở Champa trước thờ chính là Brahma sau là Shiva. Như vậy, để hiểu những điêu khắc trang trí này trước hết phải đề cập đến lai lịch và diện mạo các vị thần.
Theo thần thoại Ấn Độ, Brahma là thần sáng tạo ra mọi vật trong thế gian. Theo triết học, Brahma được hiểu như linh hồn vũ trụ được biểu hiện, hình tượng hóa bằng thần sáng tạo. Brahma thường được thể hiện dưới hình thức vị thần có màu da đỏ, bốn mặt, bốn cánh tay cầm các vật tượng trưng như quyển sách (kinh Veda), cây trượng hoặc cái thìa, cây cung và bình đựng nước. Có khi Brahma thể hiện bốn mặt, đội mũ miện, đeo tràng hạt, ngồi trên tòa sen.
Bên cạnh đó, Vishnu là thần bảo vệ, thường được thể hiện giữa Brahma (sáng tạo) và Shiva (hủy diệt). Vishnu thể hiện chức năng che chở bảo vệ, cứu giúp mọi người, tế độ chúng sinh, có mặt khắp mọi nơi và có quyền năng vô hạn trong các hóa thân. Vishnu đã hóa thân mười lần: hai lần hóa thành người, tám lần hóa thành động vật. Do đó, hình ảnh Vishnu thật phong phú với nhiều cách thể hiện: hình người nằm trên rắn Seca nhiều đầu, từ rốn một bông sen mọc lên; có bốn tay, thể hiện đứng, đầu đội mũ dát ngọc, tay cầm các vật quý như tù và vỏ ốc, đĩa tròn, có khi là đóa sen hoặc cây cung; cưỡi chim Garuđa. Những lần Vishnu hóa thân đều gắn với các thần tích: hóa cá cứu chúng sinh khỏi nạn hồng thủy, hóa lợn rừng cứu vớt trái đất khỏi ác quỷ, hóa sư tử giết tên vua vô đạo cứu chúng sinh, hóa rùa tham gia vớt thuốc trường sinh trong cuộc quấy biển sữa, hóa nửa người nửa sư tử (Narasmiha) giết quỷ Harauya Kasipu, hóa nửa người nửa ngựa (Kalkui) làm quan tòa xét xử việc trong thế gian, hóa người lùn Vamana giết quỷ Bali, hóa chiến binh Rama cầm rìu (Parasurama) để giải phóng mọi người dưới ách chuyên quyền của tầng lớp võ sĩ (Kshatriya), hóa hoàng tử Kama dự lễ kén chồng của công chúa Sita, hóa Krisna giết chết vua độc ác Kamsa rồi lên làm vua Mathura, hóa Phật Thích ca (Buddha) với lòng thương yêu loài người, cứu vớt chúng sinh.
Và nữa, Shiva thể hiện sức mạnh của thần hủy diệt, nhưng chính là để sáng tạo và bảo tồn. Thần có ba con mắt, một con mắt giữa trán dùng để thiêu cháy thần Kama, đầu gài mảnh trăng lưỡi liềm sau búi tóc, cổ đeo tràng hoa kết bằng sọ người hay con rắn, lưng khoác tấm da hổ hay da voi. Hình ảnh thần được thể hiện khi có bốn, khi thì tám, hoặc có lúc mười sáu cánh tay, cầm các vật như tấm da hươu, bắt con linh dương, cầm đinh ba đâm chết hổ, trống, gậy hoặc chùy. Mỗi vật tượng trưng cầm tay thể hiện một chiến tích của Shiva rất nổi tiếng với điệu nhảy nataraja mà một lá vàng ở gò Ia đã khắc tạc thể hiện. Đặc biệt Shiva được thể hiện dưới hình thức linga.
Trở lại Cửa Vàng, căn cứ vào hình ảnh điêu khắc về diện mạo vị thần đang ân ái, nếu chỉ xét đơn thuần về tạo hình ứng với thần tích, sử thi trong Hinđu giáo, thì sự hóa thân nửa người nửa sư tử cho ta nhận biết người trong cuộc nhiều khả năng là Vishnu. Song, vai trò và sự hiện diện của Shiva - nhân vật được thờ đầu tiên và thờ chính tại đền Banteay Srei này, đã khiến chúng tôi không ít phân vân khi muốn xác định danh tính nhân vật.
Ngoài việc được thể hiện riêng, mỗi vị thần còn được phản ánh thông qua kết hợp cả ba vị thần làm một. Đó là hình ảnh tượng trưng của các vị thần Brahma - Vishnu - Shiva cùng được thể hiện bằng bộ phận sinh thực khí đàn ông: linga. Tượng linga chia làm ba phần: phần dưới hình vuông (Brahma), phần giữa hình lục giác (Vishnu), phần trên hình trục tròn (Shiva). Ba vị thần chính chi phối cơ bản nội dung những tác phẩm điêu khắc tìm được không chỉ ở Ấn Độ mà còn ở những nước ảnh hưởng của văn hóa Ấn.
Do vậy, nếu căn cứ vào khái niệm về sự thống nhất giữa ba vị thần chính trong Ấn giáo và thường là đề tài chủ yếu trong tác phẩm điêu khắc, thì việc định danh rõ tên vị thần nào đang làm chuyện ấy ngay Cửa Vàng theo chúng tôi, sẽ không còn quan trọng nữa. Nghĩa là có thể hiểu, trong thời khắc tột cùng khoái cảm nơi đây đã có sự hiện diện cùng lúc cả ba vị thần khi các ngài đã hòa quyện trong nhau, thống nhất trong một khi giao hòa đối đãi âm dương.
Có thể nói, bên cạnh ba vị thần tối linh, hệ thống thần Hindu giáo còn khá nhiều. Mỗi vị thần, mỗi vật linh đều gắn với sự tích thần thoại hay sử thi của mỗi thời đại. Nhân đây, có thể nhận diện thêm hình ảnh một số vị thần hay xuất hiện trong các tác phẩm điêu khắc: Indra (thần sấm sét) thường cưỡi voi, tay cầm đinh ba; Syrya (thần ánh sáng) thường cưỡi ngựa đang chạy thể hiện sự lướt đổi của thời gian; Skanda (thần chiến tranh) - con của Siva - thường cưỡi công; Harihara là sự tái hợp của Vishnu và Shiva; các hình ảnh nữ thần Uma, Indrani, Sati, Sagravatti, Bargravatti... là hình ảnh các thiên tiên vũ nữ; các vật linh như voi của Indra, ngỗng (Hamsa) của Brahma, bò (Nandin) của Shiva, công của Skanda, ngựa của Syrya, thần Ganesa (đầu voi mình người) mặt quỷ Kala, thủy quái Makala, rắn thần Seca…
Mỹ thuật Ấn Độ thể hiện các chủ đề nội dung tôn giáo thường gắn chặt với nhận thức thẩm mỹ, nhưng khi ảnh hưởng giao lưu tới mỗi vùng, miền, quốc gia khác nhau... lại chấp nhận sự tiếp biến dung hợp để cộng thêm vào những đặc sắc mới mẻ. Phải chăng nhờ thế các thiên tiên vũ nữ từ Ấn Độ, khi sang với văn minh Angkor đã chuyển tiếp thật sáng tạo để hóa thân thành các vũ nữ Apsaras đầy quyến rũ.
Khi nhận xét về quy pháp tạo hình và phong cách mỹ thuật châu Á tại đền Bà (Banteay Srei), có tác giả đã viết: “vẻ đẹp hơi xác thịt đã phản ảnh sự ảnh hưởng của Indonesia, trở thành một nền nghệ thuật quan tâm đến sự yêu kiều, duyên dáng hơn là sự vĩ đại lạnh lùng”(3).
Và… bên cạnh ngôi đền duyên dáng này, Cửa Vàng linh thiêng, cũng mang đặc sắc riêng ngay từ trong truyền thuyết.
_______________
1. Angko la cité des temples retrouvée dans la porêt virrge, Photos et texte de R.Wening, éditions Silva Zurich, 1965.
2. www.google.com/ Lonely Planet and Ancient Angkor
3. Quy pháp tạo hình và phong cách mỹ thuật châu Á, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, 1997.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 332, tháng 2-2012