Margaret Mead theo học triết học và lấy bằng Cử nhân ở trường Cao đẳng Barnard tại New York năm 1923. Sau đó, bà lấy bằng Thạc sĩ (1924) và Tiến sĩ (1929) tại trường Đại học Columbia, được học dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Franz Boas (giáo sư Nhân học văn hóa nổi tiếng người Mỹ) và Tiến sĩ Ruth Benedict. Ngành nhân học, đối với bà, như một phương pháp mới để mang đến sự hiểu biết về hành vi con người trong tương lai.
Vào năm 1925, bà thực hiện chuyến điền dã đầu tiên tại đảo Ta’u trong quần đảo Samoa thuộc Polynesia (Nam Thái Bình Dương), để tìm hiểu về người Samoa, tập trung nghiên cứu về những cô gái vị thành niên. Từ những nghiên cứu, bà viết thành quyển sách Đến tuổi trưởng thành ở Samoa (1928), trở thành quyển sách bán chạy nhất và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Năm 1926, bà làm trợ lý phụ trách tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên tại New York. Đến năm 1929, bà đến đảo Manus tại New Guinea nghiên cứu về những cư dân trẻ tuổi và cách họ định hình trong xã hội trưởng thành và xuất bản quyển sách Lớn lên ở Tân Ghi-nê. Tiến sĩ Margaret Mead trở thành nhà nhân học đầu tiên dùng quan điểm đa văn hóa để nhìn sự phát triển loài người (lịch sử nhân loại).
Năm 1938, bà đến nghiên cứu ở Papua, New Guinea (Tân Guinea). Bà tìm thấy những cách mới trong chứng minh sự kết nối giữa nuôi dạy con cái với văn hóa người lớn, và cách chứng minh mà những biểu tượng đan xen trong đó.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, việc nghiên cứu bị cắt giảm ở Nam Thái Bình Dương, Tiến sĩ Margaret Mead và Tiến sĩ Ruth Benedict trở thành nhà Nhân học tình nguyện trong Viện Nghiên cứu Liên văn hóa (Institude for Intercultural Studies). Đến năm 1953, bà trở lại đảo Manus và viết bài nghiên cứu New Lives for Old, tìm hiểu những thay đổi mạnh mẽ được tạo ra trong việc tiếp xúc với thế giới rộng lớn hơn, nghiên cứu này cho thấy một nền tảng mới cho sự nhấn mạnh của bà về khả năng lựa chọn trong những tương lai có thể.
Trong khoảng 1968-1970, bà trở thành giáo sư Nhân học của trường Đại học Fordham thuộc khu trung tâm Lincoln, thành lập khoa nhân học. Bà tập trung nghiên cứu những vấn đề nuôi dạy trẻ con, nhân cách hóa và văn hóa.
Bên cạnh những đóng góp nhân học, bà còn đóng góp cho nghiên cứu về giới và cuộc cách mạng giới tính bằng những công trình: Quan hệ tình dục và Tính cách ở ba xã hội nguyên thủy (1935), Đàn ông và đàn bà (1949), Con người và nơi cư trú (1959). Bà qua đời năm 1978 ở tuổi 77.
Năm 1979, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter tặng Huân chương Tự do cho Tiến sĩ Margaret Mead và gửi đến con gái bà là Mary Catherine Bateson. Tiến sĩ Margaret Mead được xem như một biểu tượng văn hóa của nước Mỹ.
Các công trình nghiên cứu khác của TS. Margaret Mead: Lớn lên ở Tân Ghi-nê (1930); Sự thay đổi Văn hóa của một bộ tộc Da đỏ (1932); Các mô thức văn hóa và Sự thay đổi về kỹ thuật (chủ biên, 1953); Di sản của tộc người Nguyên thủy: Hợp tuyển các bài về Nhân học (đồng chủ biên với Nicholas Calas, 1953); Các chủ đề trong Văn hóa Pháp, (đồng chủ biên với Rhoda Metraux, 1954); Cuộc sống cho người già: Sự biến đổi Văn hóa ở Manus (1956); Tính liên tục trong Tiến hóa Văn hóa (1964); Văn hóa và Cống hiến (1970); Những năm trước đó của tôi (tự truyện, 1972) v.v…
Trong bày nghiên cứu này, chúng tôi giới thiệu một vài chủ điểm của tác giả trong công trình nghiên cứu Culture and Commitment – A Study of generation gap (Văn hóa và Cống hiến – Một nghiên cứu về quãng cách thế hệ) mà chúng tôi đã dịch (chưa công bố). Ở Việt Nam, các công trình của TS. Margaret Mead hầu như chưa được nhiều người biết đến. Chúng tôi hy vọng trong những năm sắp tới, các nhà nghiên cứu văn hóa học, các dịch giả sẽ dịch và xuất bản các tác phẩm của bà để làm phong phú thêm tài liệu nghiên cứu văn hóa học dưới cái nhìn Nhân học.
(Tiến sĩ Margaret Mead (1901-1978). Nguồn: www.en.wikipedia.org.)
1. Văn hóa và Cống hiến – Một nghiên cứu về quãng cách thế hệ
Công trình Văn hóa và Cống hiến – Một nghiên cứu về quãng cách thế hệ được Tiến sĩ Margaret Mead trình bày trong ba chương, tập hợp từ những bài giảng và đúc kết nghiên cứu của bà từ những năm 1925 cho đến năm 1970. Chương 1 (quá khứ): Các nền văn hóa Hậu học và những tổ tiên được biết rõ. Chương 2 (hiện tại): Các nền văn hóa Đồng học và những người đồng lứa trong gia đình. Chương 3 (tương lai): Các nền văn hóa Tiền học và những đứa trẻ chưa được biết tới. Tiến sĩ Margaret Mead đã sáng tạo ra những thuật ngữ Postfigurative cultures mà chúng tôi tạm dịch là Các nền văn hóa hậu học, trong đó lớp người nhỏ tuổi chủ yếu học tập người lớn tuổi. Nền văn hóa trong đó, lớp người lớn tuổi cho rằng lối sống của họ là không thay đổi, và không thể thay đổi, nó là cái khuôn văn hóa bất biến đối mà lớp trẻ phải học hỏi và làm theo. Thuật ngữ Cofigurative cultures, chúng tôi tạm dịch là Các nền văn hóa đồng học, là nền văn hóa trong đó cả người lớn và trẻ con đều học hỏi ở những người ngang hàng với mình. Thuật ngữ Prefigurative cultures, tạm dịch là Các nền văn hóa tiền học, là nền văn hóa trong đó người lớn chủ yếu học tập ở lớp người nhỏ tuổi, là nền văn hóa trong đó đời sống thay đổi nhanh chóng và không thể biết trước được. Tác giả đã tạo ra những thuật ngữ nhằm giải thích các hiện tượng của các nền văn hóa mà bà đã quan sát, nghiên cứu và đúc kết thành những mô thức văn hóa và chúng ta có thể xem đó là những định nghĩa để làm việc (working definations). Trong phần trình bày bên dưới, chúng tôi có trích dẫn nhiều chỗ trong công trình Culture and Commitment theo văn bản dịch (chương 1 và chương 2 của GS. Minh Chi và chúng tôi dịch tiếp chương 3 theo tài liệu công bố trên internet), do đó chúng tôi không thể trích dẫn chính xác số trang theo công trình xuất bản. Mong bạn đọc lượng thứ.
2. Một số chủ điểm nghiên cứu về nền văn hóa hậu học (postfigurative cultures)
Bất kỳ một xã hội nào cũng tồn tại ba loại hình văn hóa trên (types of cultures) mà chúng ta có thể xem là ba giai đoạn phát triển văn hóa luôn liên tục, đan xen nhau, có xã hội thì loại hình văn hóa hậu học đậm nét, có xã hội thì loại hình văn hóa tiền học thể hiện rõ hơn: “Cả ba loại hình văn hóa này đều sẽ nói cho chúng ta biết về thời kỳ, trong đó chúng ta đang sống. Những xã hội nguyên thủy, những nhóm tôn giáo nhỏ, những nhóm mà thành viên cùng nhau chia xẻ những giáo lý, niềm tin và lý tưởng đặc biệt đều thuộc loại hình văn hóa hậu học và chấp nhận quyền uy từ quá khứ. Còn những nền văn minh lớn, tất yếu đã phát triển những phương pháp để tiếp thu những sự thay đổi thì đặc trưng của chúng là sử dụng một vài hình thức của loại hình văn hóa đồng học (co-figurative), học hỏi ở những người ngang hàng, từ những người bạn sinh viên, từ những người bạn công chức. Hiện nay, chúng ta đang bước vào thời kỳ - một thời kỳ mới trong lịch sử, trong đó lớp người trẻ tuổi đang có được quyền uy mới trong một nhận thức dự phỏng tiền học (prefigurative understanding), đối với một tương lai mà họ còn chưa được biết, nhờ dựa vào cuộc sống quá khứ của họ”.
Tác giả nghiên cứu nhiều trường hợp văn hóa và cho rằng nền văn hóa hậu học vốn là loại hình văn hóa đặc trưng nhất và phổ biến nhất của xã hội loài người trong quá khứ, thậm chí ở nhiều xã hội, một loại hình văn hóa tồn tại đến hàng ngàn năm mà không có thay đổi, hoặc thay đổi rất ít thông qua những tiếp xúc văn hóa: “Nhiều dữ kiện hiện nay chứng minh rằng nền văn hóa hậu học vốn là đặc trưng của các xã hội loài người, trong hàng nghìn năm qua, cho tới khi bắt đầu kỷ nguyên văn minh. Đó là loại hình văn hóa trong đó, lớp người lớn tuổi không có ý niệm về sự thay đổi, và do đó chỉ có thể trao truyền cho lớp hậu sinh ý thức về một sự liên tục không có thay đổi. Vì rằng các dữ kiện chưa được ghi chép bằng chữ viết hay tượng đài, cho nên lớp người lớn tuổi phải ghi nhận mỗi sự kiện thay đổi của nền văn hóa vào trong trí nhớ và lối ứng xử của mình”. Do đó, trong nền văn hóa hậu học thì ý thức “phi thời gian” [chữ của tác giả] thể hiện rõ nét nhất ở những người già. Những người già là những người mà tính cách đã định hình, họ đã được nhún vào một nền văn hóa và họ duy trì nó trong cả cuộc đời – tất nhiên cũng có những những thay đổi, nhưng không phải là xu hướng chính trong lối ứng xử của họ. Những nghiên cứu trường hợp của bà trong các nền văn hóa thể ý thức phi thời gian và tính liên tục của nền văn hóa hậu học là đáng cho chúng ta quan tâm: “Ý thức phi thời gian đó cũng có thể nhận thấy ở những người mà tổ tiên từng tham gia vào những nền văn minh lớn, với thành viên có đầy đủ ý thức về khả năng biến động xã hội. Một số người nhập cư từ châu Âu sang Mỹ, nhất là những người cùng chung một niềm tin tôn giáo và văn hóa riêng biệt, đã định cư ở Thế giới mới, và xây dựng những cộng đồng khôi phục lại ý thức phi thời gian và bản sắc (không thay đổi) như trước đây từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay hiện nay, trong những cộng đồng như vậy, trẻ con cũng được nuôi dưỡng, giáo dục để có ý thức rằng cuộc sống của cha mẹ và ông bà là chuẩn mức cho cuộc sống tương lai của mình. Những người được giáo dục như vậy cảm thấy hầu như không còn khả năng rời bỏ cộng đồng. Rời bỏ cộng đồng có nghĩa là, trong nội tâm cũng như ở bên ngoài, thay đổi bản sắc và chặt đứt sự liên tục, và giống như một sự tái sinh vào một nền văn hóa mới vậy”.
Tác giả cho rằng, mọi hành vi ứng xử trong nền văn hóa hậu học đều thích ứng và có liên quan với nhau, không có hành vi thừa, hoặc không có hành vi ứng xử không thích hợp nào có thể tồn tại được, vì văn hóa như một cái kho lưu trữ những dữ kiện của cuộc sống, đặc biệt là đối với những dân tộc không có chữ viết: “Mỗi một điệu bộ (gesture) đều củng cố, gợi cảm, tạo ra hình bóng hay tiếng vang cho bất cứ một điệu bộ nào khác. Mỗi một lời phát ra đều mang những hình thức, được lặp lại trong mọi lời nói khác. Mỗi một bộ phận của cung cách ứng xử văn hóa, khi nghiên cứu đều thấy có cùng một mô thức thống nhất, hay là có liên hệ với những mô thức khác thuộc cùng một loại hình văn hóa… Mọi thao tác, mọi hành vi đều được thích ứng với mọi hành vi khác, theo ý nghĩa chúng thể hiện được quá khứ, một quá khứ đã đi qua, đã bị mất, và chỉ còn giữ lại trong nếp sống của người già, người lớn tuổi, và con cháu của họ”. Trong nền văn hóa hậu học, tính liên tục của văn hóa được đề cao qua các thế hệ và vai trò của lớp người già là rất quan trọng. Họ luôn muốn nền văn hóa mà họ đang mang theo có sự liên tục mãi mãi trong các thế hệ tiếp theo. Ngay từ nhỏ, trong thuở nằm nôi, những đứa trẻ đã được lớp người già là những thế hệ ông bà và cha mẹ chúng trao truyền văn hóa: “Loại hình văn hóa hậu học tùy thuộc sự hiện hữu của ba thế hệ. Sự liên tục của nó tùy thuộc vào những hy vọng của lớp người già, vào ấn tượng hầu như thường trực của những hy vọng đó gieo vào tâm thức của lớp người trẻ. Nó tùy thuộc vào lớp người thành niên, có thể tiếp xúc với cha mẹ đã nuôi dưỡng mình và họ cũng sẽ nuôi dưỡng con cái họ như họ đã từng được nuôi dưỡng vậy. Đó chính là toàn bộ hệ thống văn hóa hậu học”.
Nền văn hóa hậu học của lớp người già là trong các xã hội và các nền văn minh đơn giản được thể hiện đậm nét, và đó cũng chính là quyền uy của lớp người già. Họ là đại biểu cho cả nền văn hóa, họ như pho từ điển sống mà cả xã hội phải dựa vào: “Trong quá khứ, khi con người không sống thọ được như bây giờ, số những ông bà cố nội vẫn còn sống rất là hiếm, cả số ông bà nội cũng không nhiều. Những người sống thọ nhất, làm khuôn phép cho thế hệ trẻ, trong nhất cử nhất động đều chấp nhận một lối sống như vậy. Những người sống rất thọ tuy là số ít, nhưng rất là mạnh khỏe. Đôi mắt nhìn tinh anh, tay chân vững chắc vì lao động không mệt mỏi của họ đều thể hiện tính kiên cường về văn hóa cũng như về vật chất. Một nền văn hóa như thế, muốn tiếp tục tồn tại, cần có những người già, không những để hướng dẫn bộ tộc đến những nguồn thực phẩm mới trong thời buổi đói kém, mà còn để nêu gương toàn bộ một lối sống nên như thế nào. Khi giờ chết sắp đến, khi tiếng ca bi ai của đám tang được hát lên với quà phúng điếu, và nơi mồ chôn đã chuẩn bị sẵn, thì mỗi con người như vậy tùy theo tuổi và giới tính, trí thông minh và bản tính, có thể nói là đại biểu cho toàn bộ một nền văn hóa”.
Ngay trong những nghịch cảnh, lớp người già cũng tìm cách duy trì và khôi phục lại loại hình văn hóa hậu học, và chúng ta có thể nói rằng họ đã cố dựng lại nền văn hóa cũ trên những chất liệu mới và bảo vệ nó với một quyết tâm cao, đặc biệt là trong những nghịch cảnh: “Ngày xưa có những nhóm nhỏ người đã cập bến ở đảo, sau nhiều tuần lên đênh trên biển cả, mất đi nhiều của cải đồ đạc và có nhiều người đã chết trên biển. Thế mà, sống sót, họ vẫn có thể khôi phục lại nền văn hóa truyền thống của họ. Và họ còn thêm một yếu tố nữa là quyết tâm bảo vệ truyền thống văn hóa của họ, bằng những truyền thuyết về những mối quan hệ tổ tiên xưa, những truyền thuyết về quan hệ đồng tộc trong một quá khứ xa xôi…”.
Trong những cuộc tiếp xúc văn hóa, tự nguyện hay bị ép buộc đều có những phản ứng nhất định của chủ thể văn hóa đối với những khách thể văn hóa nhằm bảo vệ nền văn hóa hiện hữu của họ. Tác giả cho rằng, một dân tộc có bản lĩnh văn hóa, thì một khi càng bị đe dọa thì họ càng có ý thức bảo vệ nền văn hóa của họ: “Việc thừa nhận sự đối lập, tạo ra bởi kinh nghiệm quan sát các nhóm dân tộc khác chi có thể làm tăng cường ý thức về những yếu tố bất biến trong cộng đồng dân tộc mình…”.
“Hình như con người thường ghi nhớ một bản sắc văn hóa hình thành qua đau khổ hơn là một bản sắc văn hóa mà họ có được một cách dễ dàng vui thú…”. Chúng ta có thể liên hệ đến trường hợp văn hóa dân tộc Việt, đã trải qua nhiều thử thách trong quá khứ với nhiều nguy cơ bị đồng hóa, nhưng cuối cùng người Việt cũng đã gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
“Ý thức về một bản sắc văn hóa hấp thụ qua trừng phạt và đe dọa, tồn tại dai dẳng kỳ lạ. Một ý thức về bản sắc dân tộc, hình thành qua đau khổ, qua niềm tự hào rằng tổ tiên mình đã chịu đựng đau khổ một cách anh hùng, một bản sắc dân tộc như thế thường được giữ gìn bảo vệ, trong một bối cảnh có nhiều khả năng xóa bỏ ý thức đó. Đó chính là lý do tồn tại lâu dài của những cộng đồng hết sức vững chải, giữ gìn được một bản sắc dân tộc qua hàng trăm khổ đau và di tản bắt buộc…”. Ý kiến này của tác giả có thể giải thích trường hợp nền văn hóa của người Việt trong các giai đoạn chống xâm lăng.
Điều đảm bảo một nền văn hóa hậu học được liên tục chính là ý thức của những người già. Họ gạt bỏ tất cả những gì phương hại đến ý thức liên tục và bản sắc. Trong nhiều trường hợp phải chung sống với một nền văn hóa khác, lớp người già trở nên bị cô lập hơn và họ thà chấp nhận điều ấy hơn là chấp nhận cái mới của một nền văn hóa mới: “Người ta bảo vệ sự liên tục bằng cách gạt bỏ khỏi ký ức những gì phương hại tới ý thức liên tục và bản sắc… Cộng đồng dân nhập cư có thể giữ được một ý thức về tính liên tục không bị ngắt quãng, nhờ tiếp tục dùng ngôn ngữ cũ, và duy trì một số nghề nghiệp cũ. Họ có thể trồng nho trên cùng một loại đất, gieo lúa mì trên cùng một loại ruộng, xây dựng nhà theo kích thước cũ. Bối cảnh vật chất là quen thuộc, kể cả các vì sao chuyển động trên bầu trời. Họ vẫn duy trì được sự ý thức về sự liên tục như vậy, chừng nào mà họ còn sống trong cùng một cộng đồng, với những ông bà có quyền lực, mà những hướng dẫn hay chỉ thị bảo vệ mùa màng, bảo quản thực phẩm và giải quyết các khó khăn còn được phục tùng… Chúng ta không lấy gì làm lạ rằng, nhiều dân tộc, ngay trong khi họ sống chung với nhau trong cùng một cộng đồng, tại đất nước mà họ di cư đến, đã cắt đứt với quá khứ phong phú của họ, và sống một cuộc đời thu hẹp hơn”.
Nói tóm lại, nền văn hóa hậu học là nền văn hóa của lớp người già thống trị. Họ có quyền uy với lớp trẻ, họ là khuôn mẫu ứng xử của lớp trẻ. Họ muốn văn hóa của tổ tiên họ và chính bản thân họ tồn tại mãi mãi trong bất kỳ hoàn cảnh nào (cả thuận lợi cũng như nghịch cảnh).
3. Một số chủ điểm nghiên cứu về nền văn hóa đồng học (Cofigurative cultures)
“Nền văn hóa đồng học là nền văn hóa trong đó, mô thức chủ yếu để cho thành viên cơ hội học hỏi là nếp ứng xử của những người đồng lứa tuổi với họ”. Tuy rằng, có những ghi chép về những nền văn hóa hậu học với tập tục của các lớp người già và tổ tiên được chấp nhận một cách tuyệt đối, nhưng có rất ít xã hội với nền văn hóa đồng học là hình thức liên tục văn hóa duy nhất, người ta chưa từng thấy một xã hội nào, trong đó chỉ có một mô thức đó được duy trì liên tục, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong một xã hội chỉ có mỗi một mô thức duy nhất là mô thức đồng học, thì cả lớp người trẻ và già đều công nhận rằng, ứng xử của thế hệ mới, khác biệt với thế hệ trước đó là chuyện tự nhiên.
Trong tất cả các nền văn hóa đồng học, lớp người lớn tuổi vẫn còn có uy thế, và chính họ xác định kiểu cách và giới hạn trong đó, lối ứng xử của lớp người trẻ thể hiện loại hình văn hóa đồng học. Có các xã hội trong đó, phải có sự đồng ý của người lớn tuổi thì xã hội mới chấp nhận một lối ứng xử mới. Tức là, lớp trẻ không phải dựa vào lớp người đồng lứa tuổi mà dựa vào lớp người đàn anh để có một sự đổi mới được chấp nhận. Đồng thời, ở đâu mà có tình hình thành viên của mỗi thế hệ đều học hỏi cung cách ứng xử lớp người đồng lứa tuổi, đặc biệt là lớp bạn thanh niên đồng lứa tuổi, và cung cách ứng xử đó lại khác với cung cách của cha mẹ ông bà thì khi một người sống theo kiểu mới một cách thành công, anh ta sẽ trở thành một tấm gương cho những người khác cùng thế hệ noi theo.
(Nguồn: www.izquotes.com)
Margaret Mead cho rằng, loại hình văn hóa đồng học bắt đầu (xuất hiện) khi có một số biến cố làm ngắt quãng nền văn hóa hậu học. Trong nền văn hóa đồng học, lớp người trẻ bắt đầu trỗi dậy khi quyền uy của lớp người già giảm xuống. Đó là những trường hợp: “Có một số lớn dân chúng bị tử vong, đặc biệt là lớp người già, là thành phần lãnh đạo, bị tử vong, hay là do xuất hiện những hình thức công nghệ mới phát triển, mà lớp người già không quen biết, hay là do kết quả của một cuộc di cư đến một vùng đất mới, ở đó lớp người lớn tuổi được xem như là người nhập cư, người xa lạ. Tình hình cũng có thể xảy ra, khi những dân tộc chiến bại phải học tiếng nói và tập tục sống của kẻ chiến thắng; khi lớp người thành niên tin theo một tôn giáo mới và dạy cho con cái mình những lý tưởng mới, mà chính họ chưa bao giờ thực nghiệm khi họ còn nhỏ hay khi họ mới là người thanh niên. Hay là tình hình đó có thể xảy ra như một bước tiến cách mạng có ý thức, tự khẳng định mình bằng những nếp sống mới và khác biệt để cho lớp trẻ noi theo”.
Quyền uy của lớp người già trong nền văn hóa đồng học giảm xuống do một số hoàng cảnh đã trình bày trên dẫn đến lớp người trẻ cư xử thiếu kính trọng với lớp người già, hay thậm chí là quay lưng lại với người già và bỏ rơi họ như trường hợp ở Ba Lan mà tác giả đã dẫn: “Ở Ba Lan, trước cuộc Thế chiến lần thứ nhất (1914-1918) người điền chủ muốn trao quyền sở hữu đất đai cho người con trai đã lập gia đình, nên người con trai đảm bảo nuôi dưỡng cha mẹ già suốt đời. Thế nhưng sự đảm bảo đó, đôi khi tỏ ra không hiệu lực, và cha mẹ già bị ném ra đường, đi ăn xin cầu bơ cầu bất”. Tác giả nghiên cứu nhiều trường hợp ở Mỹ, các thế hệ thứ 2 và thứ 3 dễ dàng bỏ rơi người già khi pháp lý không còn bảo vệ được lớp người già, đó là sự bảo vệ dựa trên tập quán. Lớp người già cũng tìm cách duy trì ảnh hưởng và bảo vệ bản thân họ bằng cách không trao quyền thừa kế đất đai, tài sản hay quyền lực hoàn toàn cho lớp trẻ.
Có nhiều trường hợp, khi ông bà, cha mẹ không còn là mô thức ứng xử của lớp trẻ nữa thì họ bắt buộc phải khuyến khích lớp trẻ học hỏi ở những người bạn đồng trang lứa của chúng. Tác giả nhấn mạnh đây là “tình thế bắt buộc” lớp người già phải chấp nhận để con cái họ học tập và tham gia vào một nền văn hóa mới có tính chất phổ quát hơn. Do đó, họ cũng chấp nhận lớp trẻ từ bỏ dần dần tiếng nói, phong tục, tập quán, văn hóa cũ của họ. Và khi lớp người già mất dần đi, lớp người trẻ chiếm số đông trong xã hội thì chúng bắt chước lẫn nhau và ngày càng rời xa nền văn hóa hậu học của lớp người già và đến mục lúc nào đó chúng hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa hậu học (trường hợp của những người bắt buộc phải di cư đến một vùng đất mới).
Ngày nay, bỗng nhiên, do tất cả dân chúng trên thế giới, đều trở thành một bộ phận của một hệ thống thông tin thống nhất, cho nên lứa tuổi thanh niên ở khắp nơi có được một loại kinh nghiệm mà những người ở lứa tuổi cao hơn chưa từng có, hay là không thể có. Thế hệ lớn tuổi sẽ không bao giờ thấy được những kinh nghiệm đặc biệt của mình về những thay đổi tuần tự, ngăn nắp, được tái diễn lại trong cuộc sống của lứa tuổi trẻ. Đó là một sự ngắt quãng thế hệ hoàn toàn mới, nó có tính phổ biến và toàn cầu. Trẻ con ngày nay được nuôi dưỡng trong một thế giới mà lớp người lớn tuổi chưa từng bao giờ biết, nhưng có một số ít người thành niên cũng biết là tình hình rất yếu sẽ như vậy. Những người biết tình hình đó sẽ là những người đầu tiền phong của các nền văn hóa tiền học của tương lai, trong đó những điều dự kiến là những điều mà không ai biết cả!
4. Một số chủ điểm nghiên cứu về nền văn hóa tiền học (Prefigurative cultures)
“Nền văn hóa tiền học là nền văn hóa trong đó người lớn chủ yếu học tập ở lớp người nhỏ tuổi, là nền văn hóa trong đó đời sống thay đổi nhanh chóng và không thể biết trước được”. Tác giả dẫn ra một trường hợp đặc biệt là ở Trung Quốc thời Cách mạng văn hóa, Mao Trạch Đông đã xúi giục bọn trẻ chống lại cha mẹ của chúng như là “một cách để duy trì động lực của cuộc cách mạng được tạo ra bởi thế hệ ông bà”. Đó là điều mà chúng ta không thể biết trước được nhưng đã xảy ra. Thế giới ngày càng trở nên nhỏ bé bởi những phát minh khoa học như truyền hình vệ tinh (thời tác giả, internet chưa có) và đi lại bằng hàng không. Không một nơi nào trên thế giới mà chưa được khám phá. Các dân tộc và nền văn hóa của họ tham gia vào đời sống chung của các dân tộc khác trên toàn cầu. Họ chia sẻ những giá trị văn hóa chung.
Bọn trẻ ngày nay khi nói chuyện với ông bà, cha mẹ chúng, chúng thậm chí không hiểu về những điều mà ông bà hay cha mẹ chúng trải nghiệm hay nếu hiểu thì rất mơ hồ (vì chúng không ở vào hoàn cảnh đó). Bọn trẻ chứng kiến nhiều sự kiện bất ổn trên thế giới và chúng băn khoăn, tự hỏi liệu cuộc sống tương lai sẽ đi về đâu và tại sao chính con người lại tạo ra cho họ những hoàn cảnh éo le, nguy hiểm có thể dẫn đến diệt vong. Tác giả dẫn một bức thư tâm sự của một cậu bé mới 15 tuổi nhưng dường như cậu ta suy tư rất nhiều về những diễn biến nguy hiểm của thế giới xung quanh và tự bản thân mình đi tìm câu trả lời: “Chúng cháu thấy thế giới như là một vật thể rất đồ sộ đang trôi nhanh đi cùng với chiến tranh, nghèo đói, thành kiến và thiếu sự thấu hiểu giữa con người với con người, giữa dân tộc này với dân tộc khác.
Rồi chúng cháu dừng lại và suy nghĩ: phải có một cách tốt hơn và chúng ta phải tìm ra nó. Chúng cháu thấy một cuộc chạy đua tranh luận bẩn thỉu lớn về những con người đang gắng sức đánh bại những người đồng hành với họ. Tất cả được dựng nên, gây ra những tình trạng bất ổn giữa các nước và trong nội bộ một quốc gia. Thế hệ của chúng cháu đang được dùng như một thứ máy móc. Chúng cháu phải học những chuẩn mực được quy định sẵn, phấn đấu có được sự giáo dục tốt hơn, để chúng cháu có thể theo chân những người lớn đi trước. Nhưng tại sao lại như vậy? Nếu chúng cháu phải là một thế hệ lặp lại những người đi trước, thì đây là một tình hình rất tồi tệ. Nhưng làm thế nào chúng cháu thay đổi? Chúng cháu cần một tình yêu bao dung dành cho tất cả mọi người, chúng cháu cần một sự hiểu biết phổ quát dành cho tất cả mọi người, chúng cháu cần phải suy nghĩ về chúng cháu và thể hiện cảm xúc của bản thân, nhưng đó không phải là tất cả. Cháu chưa khám khá được những gì mà cháu cần, cũng như là chưa thực hành được một cách đầy đủ những điều mà cháu nên làm. Bởi vì khi cháu đang gắng sức, cháu bị những người lớn cười nhạo và không thèm lắng nghe, hay nhìn với một tấm lòng cởi mở. Máy tính thay thế cho trí óc; điện tử đang chiếm lĩnh mọi vị trí, chỉ là những điều khó hiểu hơn”.
Sự băn khoăn, lo lắng của cậu bé trên là có lý! Khi quả bom nguyên tử đầu tiên phát nổ vào cuối Thế chiến Thứ hai thì một vài cá nhân với đầu óc mẫn cảm đã hiểu ra rằng toàn bộ nhân loại đang bước vào một kỷ nguyên mới. Mọi sự kiện trên thế giới ngày nay đều được truyền đi nhanh chóng và mọi người trên ngóc ngách của hành tinh này, người ta có thể chia xẻ thông tin. Một cuộc chiến tranh trong quá khứ dẫu khốc liệt như Thành Các Tư Hãn đã gây ra cũng không khiến thế giới phải lo sợ bằng sự xung đột vũ trang ngày nay khi nhiều nước có vũ khí hạt nhân, có thể đe dọa đến sự tồn vong của toàn nhân loại. Chiến tranh ngày nay có thể dẫn đến sự hủy diệt toàn bộ sự sống trên trái đất này. Ngày nay, việc chấp nhận đa văn hóa là một vấn đề sống còn, khi thế giới của loài người bị thu hẹp do những khám phá của khoa học như truyền hình vệ tinh, đi lại bằng hàng không, điện thoại, internet. Ngày nay, không một ai dám tự nhận mình biết tất cả mọi thứ, vì tri thức của nhân loại đã tăng lên với cấp số nhân và sự ảnh hưởng của người già trong xã hội giảm xuống. Tác giả đã thừa nhận điều này khi viết rằng: “Trong quá khứ, luôn có những người già biết nhiều hơn bất cứ đứa trẻ nào theo cái nghĩa là những trải nghiệm của họ từ sự lớn lên trong phạm vi một nền văn hóa. Ngày nay thì không có ai hết. Tức là, cha mẹ không chỉ không còn đảm nhiệm vai trò chỉ dẫn nữa, mà là không còn sự chỉ dẫn nào nữa, cho dù một đứa trẻ tìm kiếm những chỉ dẫn ở bên trong đất nước của nó hay ở thế giới bên ngoài. Không còn có người già nào biết về những điều mà họ đã từng được nuôi dạy trong vòng hay mươi năm trở lại đây về thế giới mà họ đã được sinh ra”. Tương lai thuộc về những đứa trẻ vì chúng ta phải thừa nhận rằng “không một thế hệ nào khác trước chúng ta đã từng trải nghiệm những cái mà chúng ta đã trải nghiệm. Nghĩa là, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta không có con cháu cũng như con cháu chúng ta nói rằng chúng không có tổ tiên ông bà”. Tóm lại, đây là những điều kiện của thời đại chúng ta. Đây là hai thế hệ - thế hệ những người đi tiên phong trong một kỷ nguyên mới và con cái của họ, những đứa trẻ đang tìm cách giao tiếp với thế giới mà cả hai thế hệ đang sống vì rằng những nhận thức của họ là rất khác biệt. Không ai biết bước kế tiếp là phải làm gì. Nhận thức được điều này như là sự khởi đầu của một câu trả lời mới. Tác giả cho rằng: “Chúng ta đang ở bên bờ của sự phát triển mới về một loại hình văn hóa, một loại hình là sự thay đổi có trật tự - và một loại hình là sự thay đổi hỗn loạn – là một sự khởi đầu từ một kiểu văn hóa hậu học. Tôi gọi cái mới này là mô thức văn hóa tiền học (style prefigurative), bởi vì trong nền văn hóa mới này sẽ là đứa trẻ – chứ không phải cha mẹ hay ông bà – đại diện cho những gì sắp tới”.
Dù rằng chúng ta không biết được tương lai của những đứa trẻ cũng giống như ông bà chúng ta không thể trải nghiệm được những gì mà chúng ta hôm nay đã trải qua nhưng chúng ta phải tạo ra môi trường tốt nhất để những đứa trẻ chưa được biết tới có cơ hội để phát triển toàn diện và xây dựng nền văn hóa tiền học cho chính chúng. Đó là bức thông điệp mà tác giả muốn gửi đến những người lớn khi họ đang nắm quyền trong xã hội: “Dù là biết rằng chúng ta không biết và không đoán trước được, nhưng chúng ta có thể tạo dựng một môi trường để đứa trẻ cho dù là vẫn chưa được biết đến có thể an toàn và lớn lên và khám phá chính mình và thế giới bên ngoài… Không có sự chăm sóc của người lớn, đứa trẻ sẽ không thể nào học nói được. Không có sự thử thách của lòng tin, đứa trẻ không thể nào trở thành một thành viên đáng tin cậy trong xã hội, có thể yêu thương và chăm sóc những người khác. Đứa trẻ bị phụ thuộc hoàn toàn, và nó là sự phụ thuộc mà nền văn hóa của con người đã được xây dựng như thế, thế hệ nối tiếp thế hệ hàng trăm ngàn năm, những người lớn đã áp đặt lên trẻ em, thông qua sự chăm sóc của họ dành cho chúng, tầm nhìn của chúng về cuộc sống là cái gì”. Khi bọn trẻ có được môi trường tốt để phát triển thì chúng có khả năng vượt xa chúng ta hiện nay cũng như chúng ta đã vượt qua thế hệ tiền bối của chúng ta về khả năng hiểu biết, nhận thức và trải nghiệm và đó là sự phát triển tất yếu của tương lai nhân loại: “Đứa con trai được kỳ vọng vượt qua được biển khơi mà cha nó chưa từng làm được, nghiên cứu được vật lý nguyên tử ở tuổi mà cha nó chỉ đang học ở trường tiểu học, bay bằng máy bay mà cha nó chỉ có thể đứng nhìn từ mặt đất. Đứa con của người nông dân trở thành một học giả; đứa con của người đàn ông nghèo vượt qua đại dương mà cha nó chưa từng nhìn thấy; đứa con của ông giáo trở thành một nhà khoa học”.
Chúng ta đã đứng trên vai những người khổng lồ khi thừa kế tất cả những gia tài văn minh vật chất và tinh thần của nhân loại từ trước tới nay. Tới lượt những đứa trẻ trong tương lai cũng vậy, chúng cũng thừa kế những thành tựu vật chất và tinh thần mà chúng ta phải mất nhiều năm nghiên cứu mới có được và trên cơ sở đó, chúng xây dựng nên nền văn hóa tiền học của tương lai. Đó là một thông điệp nữa mà tác giả đã gửi đến chúng ta từ những năm 70 của thế kỷ trước: “Quá khứ là con đường mà đã đưa chúng ta đến nơi chúng ta cần đến. Những hình thức cũ của văn hóa đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức, những kỹ thuật, và những công cụ cần thiết cho nền văn minh đương đại. Đến bằng nhiều con đường khác nhau từ quá khứ, tất cả các dân tộc đang sống trên trái đất này đang cố gắng hòa nhập thành một cộng đồng thế giới mới. Không có con đường nào vào hiện tại cần phải bác bỏ và không có lối sống nào trước kia bị lãng quên. Nhưng tất cả những quá khứ khác nhau này, của riêng chúng ta và của tất cả những dân tộc khác phải được xem như là những người đi trước”. Con đường dung hợp văn hóa, là tất yếu đối với sự phát triển của tương lai nhân loại hoặc là toàn bộ nhân loại bị diệt vong do những cố chấp văn hóa mà ra.
5. Vài lời kết
Những nghiên cứu và đề xuất của Tiến sĩ Margaret Mead hướng tiếp cận nghiên cứu nhân học văn hóa từ các nền văn hóa hậu học, văn hóa đồng học và văn hóa tiền học cho chúng ta nhiều suy nghĩ khả dĩ giải thích hố ngăn cách giữa các thế hệ mà tác giả gọi là quãng cách thế hệ (generation gap). Thời tác giả viết công trình này cho đến nay đã gần nửa thế kỷ mà quãng cách thế hệ đã thể hiện rõ rệt. Chúng tôi nghĩ rằng, trong gần nữa thế kỷ nay, quãng cách thế hệ ngày càng bị đẩy xa hơn nữa, khi mà công nghệ thông tin có những tiến bộ như vũ bão. Trước đây, người ta dùng tri thức để sản xuất ra của cải vật chất, còn ngày nay thì người ta dùng tri thức để sản xuất ra tri thức2. Chúng tôi cho rằng đây là một công trình có ý nghĩa trong nghiên cứu văn hóa mà chúng ta nên tham khảo thêm.
Chú thích:
Nguồn: Hội nghị thông báo Văn hóa dân gian, 2014.