logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa học ứng dụng
  • Văn hóa quản trị
Tuesday, 08 October 2019 13:49

Đỗ Thị Ngọc Uyển. Một số vấn đề về di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay tiếp cận từ góc độ quản lý

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DI SẢN VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
    TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ QUẢN LÝ VĂN HOÁ

  • Tác giả:

    ThS. Đỗ Thị Ngọc Uyển

  • Chức danh:

    Trường Đại học Sài Gòn

Đỗ Thị Ngọc Uyển. Một số vấn đề về di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay tiếp cận từ góc độ quản lý

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Di sản văn hoá là tài sản của quốc gia. Vì vậy, việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá rất quan trọng và cấp thiết; đòi hỏi những chính sách đúng đắn từ cấp trung ương đến địa phương; cùng với sự quản lý, thực thi tận tâm, nhiệt tình và khoa học của các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà dân. Ngay vừa mới giành lại độc lập, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lập tức ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Đến ngày 29/10/1957, Thủ tướng Chính phủ công bố Nghị định số 519-TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh đã tạo điều kiện cho ngành văn hóa thông tin tiến hành kiểm kê phổ thông các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh ở các tỉnh và thành phố toàn miền Bắc. Ngày 04/4/1984, Hội đồng Nhà nước công bố Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đối với công tác giữ gìn di sản văn hóa của dân tộc. Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban hành và Điều 30 của Hiến pháp (1992) quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa” [Quốc hội nước CHXHCNVN 1992:24]. Và trong kỳ họp thứ IX Quốc hội khóa X ngày 14/6/2001, Luật Di sản văn hóa được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2002. Đây là bộ luật đầu tiên và cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam và được điều chỉnh, bổ sung năm 2009. Để thực thi các điều của Luật Di sản văn hoá, một số nghị định, thông tư cũng được ban hành sau đó nhằm hướng dẫn thực hiện các điều của Luật. Như vậy, công tác quản lý di sản văn hoá đã được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm và có một nền tảng pháp lý để thực thi các vấn đề về quản lý di sản văn hoá.

Hơn nữa, nhiều di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay được UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hoá thế giới như phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng Thành Thăng Long,… và trong tương lai sẽ còn nhiều di sản văn hoá khác sẽ được công nhận. Việc tiếp cận các văn bản hướng dẫn của các tổ chức quốc tế như: Công ước của UNESCO và các Hiến chương của ICOMOS như: Hiến chương Athen về trùng tu di tích (1931), Hiến chương Venice về bảo vệ và trùng tu di tích và di chỉ (1964), Hiến chương Burra về bảo vệ và quản lý di sản (1981, sửa đổi vào 1988 và 1999), Hiến chương Washington (1987) về bảo tồn khu vực đô thị lịch sử, Văn kiện Nara về tính xác thực (1994), Công ước di sản thế giới (1972),... cũng cần được triển khai nghiêm túc để bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị nổi bật toàn cầu của di sản văn hoá ở Việt Nam.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc quản lý di sản văn hoá còn nhiều vấn đề phát sinh mà ngay cả các văn bản pháp luật của Nhà nước vẫn chưa lường hết được. Đặc biệt đối với các di sản văn hoá là sở hữu của cộng đồng, những vướng mắc và mâu thuẫn đã xảy ra trong quá trình thực thi các văn bản pháp lý và thực trạng quản lý di sản văn hoá ở một số địa phương. Bên cạnh đó, các văn bản của các tổ chức quốc tế vẫn chưa được các địa phương có di sản văn hoá thế giới tiếp cận một cách thấu đáo, dẫn đến nhiều lúng túng trong quản lý cũng như trong quy hoạch di sản văn hoá. Chính vì vậy, nội dung của tham luận này tập trung nêu bật những vướng mắc của các địa phương khi thực thi các vấn đề về quản lý di sản văn hoá hiện nay ở Việt Nam nói chung và chứng minh bằng trường hợp một số di sản văn hoá cụ thể ở Việt Nam.

II. NỘI DUNG NGHIEN CỨU

1. Những vướng mắc trong thực thi các văn bản pháp lý của Việt Nam đối với vấn đề quản lý di sản văn hoá hiện nay

Như trên đã đưa ra, nhiều văn bản pháp lý của nhà nước Việt Nam đã ban hành trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nội dung chuyên đề này sẽ tập trung vào những vướng mắc trong Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 về quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (gọi tắt là Nghị định 70) với Nghị định 15/2013/NĐ-CP ngày 06/2/2013 về quản lý chất lượng công trình xây dựng (gọi tắt là Nghị định 15) và Thông tư 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch về quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích (gọi tắt là Thông tư 18).

1.1. Những vướng mắc về thẩm định và phê duyệt hồ sơ tu bổ di tích

Theo Nghị định 70, tại Mục 2 Điều 17 quy định “thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương lập dự án tu bổ di tích và dự án tu bổ di tích” như sau: “a) Đối với di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Thủ trưởng Bộ, ngành được giao trực tiếp quản lý di tích gửi văn bản đề nghị kèm theo 01 (một) bộ hồ sơ bằng cách nộp trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị và hồ sơ hợp lệ, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm xem xét thỏa thuận chủ trương lập dự án tu bổ di tích hoặc thẩm định dự án tu bổ di tích”. Đây là quy định rất hợp lý đối với các di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt nhằm quản lý các di tích này một cách hiệu quả nhất với sự tham gia vào lĩnh vực tu bổ di tích của cấp chuyên môn cao nhất để gìn giữ những giá trị văn hoá nổi bật của quốc gia và quốc tế. Tuy nhiên, vướng mắc lại nằm ở một số lượng lớn di sản, di tích thuộc sở hữu của tư nhân và trường hợp cụ thể là ở phố cổ Hội An.

Hội An là một thành phố có khu phố cổ được xếp hạng cấp quốc gia vào 1985 và cấp quốc gia đặc biệt vào năm 2009, được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 1999. Khu di sản này không phải là một công trình riêng lẻ mà là một quần thể kiến trúc gồm nhiều ngôi nhà và các loại hình công trình khác, hiện có cư dân đang sinh sống, làm ăn. Theo thống kê, phố cổ Hội An có khoảng 1.148 di tích, các di tích sở hữu nhà nước chiếm 15,8% và các di tích sở hữu tư nhân, tập thể chiếm 84,2%. Vậy, căn cứ theo Nghị định 70, mỗi công trình di tích trong khu phố cổ Hội An đều phải do Bộ trưởng Bộ VHTT&DL thoả thuận chủ chương lập dự án tu bổ di tích hoặc thẩm định dự án tu bổ di tích. Trong khi đó, do yêu cầu phải bảo tồn nguyên vẹn khu phố cổ, hạn chế thấp nhất tình trạng xuống cấp của khu Di sản, việc tu bổ các di tích trong khu phố cổ Hội An phải được thực hiện thường xuyên, khẩn cấp với số lượng công trình riêng lẻ rất nhiều; đôi lúc quy mô công trình chỉ là sửa chữa nhỏ (như dặm dọi mái ngói âm dương, sửa chữa, cải tạo gạch nền hoặc tu bổ, phục hồi một vài chi tiết kiến trúc nhỏ trong các ngôi nhà ở...) và theo thống kê số lượng cấp giấy phép tu bổ di tích do Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Hội An thực hiện thì số lượng cấp giấy phép có năm lên đến 310 hồ sơ (2009) và gần đây nhất, sau khi Nghị định được ban hành, là 164 hồ sơ (2015). Cụ thể qua biểu đồ sau:

Nguồn: Trung tâm QLBT Di sản Văn hóa Hội An

Như vậy, thứ nhất, liệu Bộ trưởng Bộ VHTT&DL có đủ thời gian để thẩm định toàn bộ hồ sơ tu bổ di tích trong một năm cho khu phố cổ Hội An hay không, đó là chưa kể đến các di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt trên toàn quốc? Thứ hai, ngoài thời gian 30 ngày để thẩm định hoặc thoả thuận dự án tu bổ di tích, số thời gian để lập thiết kế tu bổ, phê duyệt thiết kế tu bổ, chọn đơn vị giao thầu và ngay cả các thủ tục từ địa phương cấp huyện/thị đến tỉnh, rồi trình lên Bộ VHTT&DL thẩm định,… khoảng chừng 90 ngày mới có thể hoàn tất một quy trình tu bổ di tích. Như vậy các di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt có đủ sức chống chọi với sự tồn tại của nó khi mà tuổi đời của nó đã có hàng trăm năm. Hơn nữa, những công trình nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xếp vào loại di tích quốc gia và quốc gia đặc biệt theo cách công nhận của Nhà nước thường xuyên xuống cấp do quá trình sử dụng và thời tiết mang lại cần phải được tu bổ thì liệu quy trình này có đáp ứng được nếp ăn ở cho cộng đồng dân cư và có được sự đồng thuận của cộng đồng hay không? Và đối với việc tu bổ, sửa chữa nhỏ thì việc tiến hành thủ tục hồ sơ theo quy định có thật sự cần thiết hay không? Điều này có thể thấy, việc thực hiện thủ tục quy định này sẽ kéo dài thời gian xúc tiến đầu tư và có trường hợp sẽ không cần thiết với công trình quá nhỏ.

Một vấn đề nữa trong việc thực thi văn bản pháp luật của Nhà nước về tu bổ di tích. Bên cạnh Nghị định 70, Mục 2 Điều 21 của Nghị định 15 về thẩm tra thiết kế các công trình quy định: “Công trình thuộc dự án đầu tư xây dựng do Bộ trưởng Bộ quản lý công trình chuyên ngành quyết định đầu tư; công trình cấp I, công trình cấp đặc biệt và công trình quan trọng quốc gia được Thủ tướng chính phủ giao”. Trong đó công trình cấp đặc biệt là di sản văn hoá thế giới và di tích quốc gia đặc biệt, công trình cấp I là di tích cấp quốc gia. Nếu áp dụng vào các công trình di tích trong khu phố cổ Hội An hoặc các di tích cấp quốc gia đặc biệt khác, muốn thẩm định hồ sơ thiết kế tu bổ di tích và nghiệm thu công trình phải qua thêm Bộ Xây dựng một lần nữa và do Bộ trưởng Bộ quản lý công trình quyết định.

Như vậy, để tu bổ bất cứ di tích nào, kể cả các ngôi nhà ở riêng lẻ sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể hoặc các công trình sửa chữa, cải tạo có quy mô nhỏ mà được xếp vào hạng di tích cấp quốc gia đặc biệt, di tích cấp quốc gia hoặc nằm trong khu di sản văn hoá thế giới, chủ đầu tư đầu phải thực hiện đầy đủ các thủ tục quy định nêu ở cả Nghị định 70 và Nghị định 15. Hồ sơ đầu tư phải được gửi đi ít nhất là 4 lần, thời gian ít nhất 30 ngày làm việc cho một bước. Vậy, vướng mắc đầu tiên sẽ là vấn đề thời gian xử lý các thủ tục hồ sơ qua các bộ có liên quan khiến cho các di tích không kịp được tu bổ kịp thời, nguy cơ hư hại di tích có thể xảy ra; vướng mắc thứ hai là việc thẩm định hồ sơ do Bộ VHTT&DL và Bộ Xây dựng thực hiện, nếu xảy ra mâu thuẫn trong nội dung ý kiến thẩm định trong một hồ sơ thì bộ nào sẽ là quyết định cuối cùng đối với hồ sơ đó?

1.2. Những vướng mắc về thủ tục lập hồ sơ tu bổ di tích

Tại Điều 5 Thông tư
18 quy định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài tham gia lập quy hoạch di tích, dự án tu bổ di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ di tích, thiết kế tu bổ di tích và thi công tu bổ di tích có đủ điều kiện năng lực theo quy định của pháp luật về xây dựng và quy định tại Điều 6 Thông tư này được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận hành nghề) đối với tổ chức và được cấp Chứng chỉ hành nghề bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích (sau đây gọi chung là Chứng chỉ hành nghề) đối với cá nhân trong hoạt động sau: a) Lập quy hoạch di tích; b) Lập dự án tu bổ di tích, báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ di tích, thiết kế tu bổ di tích; c) Thi công tu bổ di tích; d) Giám sát thi công tu bổ di tích…”. Đây là một quy định rất cần thiết đối với những cá nhân và tổ chức tham gia vào hoạt động tu bổ di tích. Một kiến trúc sư hoặc kỹ sư khi tham gia vào thiết kế, lập quy hoạch hoặc giám sát,… tu bổ di tích phải là người am hiểu về các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế quy định về bảo tồn di tích, đồng thời cũng phải là người am hiểu về lịch sử, văn hoá của di tích thì mới có thể thực hiện được công việc tu bổ di tích. Tu bổ di tích không đơn giản như xây dựng hay sửa chữa một công trình. Nó đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và nhà dân. Nó phải được nghiên cứu, thẩm định các vấn đề liên quan đến di tích như: khảo cổ, lịch sử, văn hoá và ngay cả vị trí địa lý của di tích đang hiện tồn. Yêu cầu đặt ra là cần thiết như vậy, nhưng trên thực tế, việc các kỹ sư và kiến trúc sư có giấy chứng chỉ hành nghề thi công tu bổ di tích đến nay vẫn chưa nhiều. Để có chứng chỉ hành nghề thi công tu bổ di tích, các kỹ sư, kiến trúc sư phải có chứng chỉ hành nghề kỹ sư hoặc kiến trúc sư trước. Trong khi đó, để có chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng, kỹ sư và kiến trúc sư phải có kinh nghiệm về lĩnh vực này ít nhất 5 năm và đã tham gia thực hiện thiết kế hoặc khảo sát ít nhất 5 công trình. Điều này được quy định tại Thông tư 12/2009/TT-BXD ngày 24/6/2009 về hướng dẫn chi tiết về chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng. Thời gian để một kỹ sư, kiến trúc sư tham gia vào hoạt động tu bổ di tích là khá lâu và trên thực tế nhiều địa phương không có thể kiếm được người có đủ điều kiện này, đặc biệt là những nơi có số lượng ít di sản văn hoá. Trong năm 2013, trong một hội nghị tổng kết năm do Cục Di sản Văn hoá tổ chức tại Hà Nội, một đại biểu của tỉnh Bình Phước cũng đã nêu vấn đề này. Tỉnh Bình Phước có một di tích được xếp hạng cấp quốc gia và di tích đó thuộc sở hữu cộng đồng. Tuy di tích đã xuống cấp nghiêm trọng, cộng đồng bỏ kinh phí tu bổ, nhưng để thực hiện các quy định theo Thông tư 18 phải có chứng chỉ hành nghề tu bổ di tích thì mới thực hiện được thiết kế và thi công tu bổ di tích nên cơ quan quản lý địa phương rất khó khăn thực hiện vì không kiếm được một kỹ sư hoặc kiến trúc sư nào có đủ điều kiện này ở tỉnh. Và ngay cả ở khu phố cổ Hội An, các lớp đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề cũng đã được triển khai, nhưng việc các đơn vị thi công có đội ngũ kỹ sư, kiến trúc sư có chứng chỉ hành nghề tu bổ di tích vẫn rất hiếm và không đáp ứng đủ nên đến thời điểm hiện nay, việc lựa chọn nhà thầu thi công tu bổ di tích ở Hội An vẫn chưa thực hiện được theo đúng tinh thần Nghị định 70 và Thông tư 18.

2. Những nhận thức thiếu sót trong tiếp cận các Hiến chương và Văn kiện của UNESCO và ICOMOS

Các di sản văn hoá được UNESCO ghi danh vào danh mục Di sản văn hoá thế giới là dựa vào những giá trị nổi bật toàn cầu của nó. Và việc công nhận là di sản văn hoá hay di sản thiên nhiên chỉ nhấn mạnh đến giá trị nổi bật toàn cầu của nó chứ hoàn toàn không phân biệt giữa văn hoá và thiên nhiên. Tuy nhiên, do chạy theo danh hiệu được công nhận mà việc quản lý di sản ở các khu di sản có nhiều vướng mắc và bất cập.

2.1. Những thiếu sót trong nhận thức xây dựng trong bộ máy tổ chức quản lý

Hoạt động bảo tồn giá trị di sản văn hoá phải đi đôi với phát huy giá trị di sản văn hoá đó và gắn với phát triển du lịch. Hầu hết các di sản văn hoá ở Việt Nam như Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn hay Hoàng Thành Thăng Long đã tiếp cận được mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển vào trong bộ máy tổ chức quản lý di sản văn hoá. Nhưng vấn đề bất cập vẫn còn tồn tại ở khu phố cổ Hội An khi mà ba mảng bảo tồn, phát huy và du lịch của khu di sản được chia cho ba cơ quan quản lý. Hơn nữa, thành phố Hội An không chỉ có danh hiệu Di sản văn hoá thế giới mà còn có danh hiệu Khu dự trữ sinh quyển thế giới, và để chạy theo danh hiệu quản lý lại phải tiếp tục lập thêm một cơ quan quản lý nữa vừa kiêm bảo tồn, phát huy và phát triển du lịch Khu dự trữ sinh quyển này. Như vậy, một địa phương có diện tích khoảng chừng 60 km2 mà trong lĩnh vực quản lý di sản văn hoá và thiên nhiên đã có tới 4 cơ quan quản lý. Điều này cho thấy bộ máy quản lý quá cồng kềnh và nếu tính phối hợp quản lý không sâu sát thì tất nhiên vướng mắc, bất cập sẽ xảy ra. Bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá hướng đến sự phát triển du lịch bền vững cho mỗi địa phương, mỗi quốc gia; danh hiệu di sản văn hoá thế giới là để công nhận những giá trị của nhân loại, tạo điều kiện để được đầu tư, phát triển và hoàn toàn không phân chia di sản văn hoá với di sản thiên nhiên. Bộ máy quản lý phải được nhìn nhận theo tư duy này, tránh hiện tượng tách bạch giữa bảo tồn với phát triển và tách văn hoá khỏi thiên nhiên trong quản lý di sản văn hoá.

2.2. Những thiếu sót trong nhận thức thực hiện quy hoạch di sản văn hoá

Đối với UNESCO, quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá đã được thể hiện trong các Hiến chương, Văn kiện, Công ước do tổ chức ICOMOS ban hành. Các văn bản này tập trung vào lĩnh vực bảo tồn, trùng tu di tích, di chỉ,… Trong Hiến chương Athen về trùng tu di tích (1931), các nhà khoa học đã thông qua 7 điều liên quan đến việc trùng tu di tích, trong đó Điều 7 ghi rõ: “7. Việc bảo vệ khu vực xung quanh di chỉ lịch sử phải được đặc biệt chú ý” [ICOMOS 2004:31]. Như vậy, các nhà khoa học vẫn nhấn mạnh đến môi trường sinh thái xung quanh di tích. Tương tự, trong Điều 1 của Hiến chương Venice có khái niệm về di tích lịch sử: “Di tích lịch sử không chỉ là một công trình kiến trúc đơn chiếc mà cả khung cảnh đô thị hoặc nông thôn có chứng tích của một nền văn minh riêng...” [ICOMOS 2004:37]. Hiến chương này đã lưu ý đến vấn đề cảnh quang đô thị, có nghĩa là bảo tồn di sản là phải đặt nó trong một không gian địa lý của nó. Còn trong Hiến chương Burra có ghi rõ: “Việc bảo vệ một địa điểm phải xác định và cân nhắc mọi mặt của giá trị văn hoá và thiên nhiên, không được tuỳ tiện ưu tiên giá trị này để phương hại giá trị kia” [ICOMOS 2004:64]. Như vậy, mỗi trong văn bản của ICOMOS đều thể hiện sự quan tâm đến môi trường sinh thái xung quanh di tích. Nhưng trên thực tế, một số di sản ở Việt Nam bao gồm di sản văn hoá và di sản thiên nhiên chỉ tập trung vào tiêu chí được công nhận để quản lý mà không chú tâm đến những khuyến nghị do UNESCO đưa ra dẫn đến nhận thức thiếu sót. Trường hợp ở khu phố cổ Hội An, do việc tách các cơ quan quản lý riêng biệt nên mạnh cơ quan nào cơ quan đó lập quy hoạch theo lĩnh vực mình quản lý mà không có sự thống nhất chung, dẫn đến công việc chồng chéo, không đồng bộ. Cũng tương tự, do chú trọng đến di sản văn hoá là quần thể các công trình kiến trúc tháp Chăm mà Ban Quản lý Di tích Mỹ Sơn đã sai sót khi bê tông hoá Suối Khe Thẻ khiến tầng sinh thái khu vực Thánh địa Mỹ Sơn bị tác động và những dấu vết cổ xưa của Thánh địa bị đào bới. Hoặc đối với di sản Cố đô Huế, việc xây dựng khu du lịch ở đồi Vọng Cảnh gây phá vỡ không gian của các lăng tẩm vua Nguyễn, phá vỡ cảnh quan của đôi bờ sông Hương... Văn hoá là sản phẩm của con người trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Di sản văn hoá gắn liền với cảnh quan thiên nhiên mà nó đang tồn tại, việc tách di sản văn hoá ra khỏi môi trường đó là hoàn toàn không thể và việc quy hoạch di sản văn hoá cũng phải được đặt trong tư duy nhận thức này.

2.3. Những thiếu sót về nhận thức trong thực hiện các nguyên tắc tu bổ di tích

Nguyên tắc bảo tồn di sản văn hoá đã được Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di sản (ICOMOS) thông qua tại Đại hội đồng lần thứ 12 ở Mexico vào tháng 10/1999, xác định những nguyên tắc thực hành cơ bản và có thể áp dụng được trên toàn cầu đối với việc bảo vệ và bảo tồn các kiến trúc lịch sử bằng gỗ với lòng tôn trọng đúng mức ý nghĩa văn hoá của các kiến trúc đó. Và tính xác thực trong bảo tồn di sản văn hoá cũng được thể hiện trong Văn kiện Nara được tổ chức tại Nara – Nhật Bản năm 1994. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản phải luôn đề cao tính xác thực của di sản và Văn kiện Nara đã khẳng định đó là nền tảng cơ bản trong nghiên cứu khoa học về bảo tồn. Đó là kết quả nghiên cứu, bàn luận rất sâu sắc của các chuyên gia quốc tế để có thể giữ gìn được giá trị di sản văn hoá, đồng thời thể hiện rõ tính chất của di sản văn hoá để thế hệ sau có thể phân biệt đâu là giá trị gốc và quá trình biến đổi của nó theo thời gian. Tuy nhiên, cho đến nay, ở Việt Nam vẫn còn nhiều công trình di tích không được áp dụng các nguyên tắc này dẫn đến tình trạng làm biến dạng di tích, đánh mất giá trị gốc của di tích. Một ví dụ cụ thể là việc tu bổ đình Phù Lão, xã Đào Mỹ (Lạng Giang). Đình được xây dựng từ thế kỷ XVII và được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1982. Năm 2011, đình được đầu tư 14 tỷ đồng từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá của Bộ VHTT&DL cấp giao cho Công ty TNHH Xây dựng Công trình Văn hoá Thăng Long (Hà Nội) thi công. Sau khi hoàn thành, người ta phát hiện di tích này bị biến dạng quá nhiều, nhiều giá trị văn hoá, kiến trúc cổ không còn nguyên vẹn[1]. Những kiểu tu bổ tương tự xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước. Ngay cả với khu phố cổ Hội An, nhìn không gian tưởng chừng như là phố cổ nhưng thực tế hầu hết các ngôi nhà đã được tu bổ và số lượng cấp phép tu bổ như đã nêu ở trên sẽ cho thấy các ngôi nhà trong khu phố cổ đã bị tác động quá lớn và chắc chắn kỹ thuật tu bổ sẽ không đáp ứng được tính chân xác theo nguyên tắc đưa ra.

3. Đề xuất một số định hướng giải pháp cho những vướng mắc, thiếu sót trong quản lý di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay

Khung pháp lý về quản lý di sản văn hoá ở Việt Nam hiện nay cũng như các nguyên tắc về bảo tồn di sản văn hoá của UNESCO đưa ra đều là những quy định có tính khoa học và hợp lý để các khu di sản văn hoá ở Việt Nam có thể áp dụng và triển khai thực hiện. Tuy nhiên, những vướng mắc, bất cập đối với từng di sản văn hoá đều không thể tránh khỏi mà cần có cái nhìn nhận, bổ sung và linh hoạt đối với từng di sản văn hoá cụ thể và cho mỗi địa phương cụ thể. Trên cơ sở những vướng mắc, thiếu sót đã nêu, một số định hướng tháo gỡ vướng mắc, bất cập cũng được đề xuất để di sản văn hoá được bảo tồn tốt hơn, đúng nguyên tắc hơn.

- Đối với việc thẩm định và phê duyệt hồ sơ tu bổ di tích: Việc áp dụng các nghị định 70 và 15 của Chính phủ là có tính nguyên tắc và cần thiết. Tuy nhiên, thứ nhất, như trên đã phân tích, thời gian thực hiện các công đoạn khá dài, cần xem xét điều chỉnh để thủ tục phê duyệt hồ sơ được xúc tiến nhanh, gọn hơn; thứ hai, việc quy định cấp Bộ trưởng Bộ VHTT&DL phê duyệt chỉ nên áp dụng đối với những công trình di tích cấp quốc gia đặc biệt và cấp quốc gia đơn lẻ; còn đối với các công trình di tích là quần thể như khu phố cổ Hội An thì chỉ nên tiến hành phê duyệt hồ sơ đối với những di tích loại đặc biệt, còn các di tích khác thuộc quần thể di tích đó nên uỷ quyền cho UBND cấp tỉnh phê duyệt đối với di tích loại I, II và UBND cấp huyện/thị phê duyệt đối với di tích loại III và IV; thứ ba, việc áp dụng cả hai Nghị định 70 và Nghị định 15 đối với các công trình di tích cấp quốc gia đặc biệt và cấp quốc gia thì nên quy định rõ nội dung thẩm định và giao về Bộ VHTT&DL là cơ quan đưa ra kết luận cuối cùng.

- Đối với thủ tục lập hồ sơ tu bổ di tích: Việc thực hiện Thông tư 18 của Bộ VHTT&DL cũng là điều cần thiết, nhưng thiết nghĩ, Bộ VHTT&DL nên phối hợp cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung này vào giảng dạy tại các trường đào tạo chuyên ngành kỹ thuật, kiến trúc như một tín chỉ môn học để sau khi tốt nghiệp, kỹ sư và kiến trúc sư có đủ trình độ am hiểu một công trình di tích để có thể thiết kế, thi công. Như vậy, kiến thức về tu bổ di tích sẽ không xa lạ gì với đội ngũ kỹ sư và kiến trúc sư ở Việt Nam.

- Đối với việc tổ chức bộ máy quản lý: Trên thực tế các khu di sản đã cơ bản có một bộ máy hoạt động về quản lý di sản văn hoá vững chắc, chỉ có di sản văn hoá Hội An là còn bất cập về các tổ chức quản lý, cần được điều chỉnh cho phù hợp và khoa học hơn. Bộ máy tổ chức quản lý là như vậy nhưng cái cần nhấn mạnh, cần bổ sung là nhận thức về mối quan hệ giữa văn hoá và tự nhiên, di sản văn hoá không thể tách ra khỏi môi trường tự nhiên của nó; nhận thức về mối quan hệ giữa phát huy và bảo tồn là nhằm phát huy giá trị; bảo tồn không có nghĩa là đóng kín mà cần phải khai thác để giá trị không những được lan tỏa mà còn mang lại nguồn lợi kinh tế đáp ứng hiệu quả cho hoạt động bảo tồn.

- Đối với việc quy hoạch di sản văn hóa: Quy hoạch là một nhiệm vụ quan trọng tác động rất lớn đến di sản văn hóa. Việc nhận thức sai về di sản văn hóa sẽ dễ dẫn đến nhận thức sai trong quy hoạch. Vì vậy, bất kỳ một quy hoạch nào của địa phương cũng cần phải quan tâm đến di sản văn hoá và bất kỳ một quy hoạch nào liên quan đến di sản văn hoá phải gắn di sản văn hoá với môi trường nó đang tồn tại. Các văn bản của các chuyên gia quốc tế đưa ra cũng đã nêu rất rõ những vấn đề này, các khu di sản văn hoá cần nghiên cứu kỹ, nhận thức đầy đủ để tránh quá trình thực hiện quy hoạch lại chính là lúc gây hại cho di sản văn hoá.

- Đối với việc thực hiện các nguyên tắc tu bổ di tích: Những nguyên tắc tu bổ di tích là điều hiển nhiên trong quá trình thực hiện tu bổ di tích mà các di sản văn hoá cần phải quán triệt và áp dụng triệt để. Đối với những di tích thuộc sở hữu tư nhân thì cần vận động, hỗ trợ chủ nhân nhận thức đầy đủ nguyên tắc này; còn đối với các công trình di tích thuộc sở hữu nhà nước thì bắt buộc phải thực hiện đảm bảo nguyên tắc bảo tồn.

III. KẾT LUẬN

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước vì đó không chỉ là tài sản của quốc gia mà còn là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn thu hút du khách từ các nơi đổ về, đẩy mạnh ngành du lịch phát triển, đóng góp cho nền kinh tế của quốc gia. Quản lý di sản văn hoá là công việc đòi hỏi sự tham gia của nhiều thành phần và đối tượng từ cấp quốc tế đến trung ương và địa phương; đòi hỏi có chuyên môn khoa học cao; nhưng cũng cần lưu ý di sản là những gì của quá khứ để lại, là những thứ dễ hư hỏng nếu không được bảo tồn kịp thời, đúng lúc. Các khung pháp lý đặt ra đều hướng đến những vấn đề tốt nhất để gìn giữ di sản văn hoá và khai thác nó một cách hiệu quả và bền vững. Trong quá trình thực thi các khung pháp lý và quản lý di sản văn hoá ở các địa phương có những vướng mắc, bất cập là điều khó tránh khỏi. Việc nhận diện, điều chỉnh, bổ sung để khung pháp lý hoàn thiện hơn là việc cần phải làm trong tương lai; đồng thời việc tiếp cận các văn bản quốc tế là vấn đề phải làm bởi đó là đúc kết kinh nghiệm từ nhiều di sản văn hoá khác trên thế giới. Bảo tồn bản sắc văn hoá của quốc gia và khiến những giá trị văn hoá của quốc gia có giá trị nổi bật toàn cầu là đích đến của ngành văn hoá Việt Nam. Vì vậy, việc quản lý văn hoá, đặc biệt việc ban hành và áp dụng các khung pháp lý đối với di sản văn hoá cần được rõ ràng và hoàn thiện hơn để di sản văn hoá được bảo tồn và phát triển bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Xây dựng 2009: Thông tư 12/20009/TT-BXD ngày 24/6/2009 về hướng dẫn chi tiết về cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng
  2. Bộ VHTT&DL 2012: Thông tư 18/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012 của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch về quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
  3. Chính phủ 1945 :Sắc lệnh của Chủ tịch chính phủ lâm thời số 65 ngày 23/11/1945
  4. Chính phủ 1957: Nghị định số 519-TTg ngày 29/10/1957 về quy định thể lệ về bảo tồn cổ tích
  5. Chính phủ 2012: Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 về quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
  6. Chính phủ 2013: Nghị định 15/2013/NĐ-CP ngày 06/2/2013 về quản lý chất lượng công trình xây dựng
  7. Hội đồng Nhà nước 1984 : Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước số 14-LCT/HĐNN7 ngày 04/4/1984 về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hoá và danh lam - thắng cảnh
  8. Quốc hội nước CHXHCNVN 1992: Hiến pháp. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  9. Quốc hội nước CHXHCNVN 2001, sửa đổi, bổ sung 2009: Luật Di sản văn hóa.
  10. UNESCO 1972. Công ước Bảo vệ di sản văn hoá và thiên nhiên thế giới. Văn phòng UNESCO tại Việt Nam
  11. ICOMOS 2004: Michael Petzet, John Ziesemer. International Charters for Conservation and Restoration, ICOMOS.
  12. http://tanyen.bacgiang.gov.vn/tin-tuc/5351/Sai-pham-trong-tu-bo-di-tich---Ky-I:-Mat-yeu-to-goc.html

Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”

 


[1]     http://tanyen.bacgiang.gov.vn/tin-tuc/5351/Sai-pham-trong-tu-bo-di-tich---Ky-I:-Mat-yeu-to-goc.html

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Đặng Xuân Hoan. Hoạch định chính sách công trong nền kinh tế thị trường

  • Trịnh Xuân Thắng. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lập pháp ở Việt Nam

  • Trần Thị Thanh Thủy. Một số giải pháp cải thiện chất lượng hoạch định chính sách

  • Nguyễn Thị Thu Hà. Văn hoá chính trị với đạo đức cán bộ, công chức

  • Đoàn Văn Dũng. Quản lý xã hội trong tình huống bất thường

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 38
  • Tổng :
  • 3 4 2 9 8 7 7 5
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa quản trị