Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng năm 2016 tiếp tục khẳng định rõ chủ trương “Có chính sách phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch với hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, sản phẩm đa dạng và tính chuyên nghiệp cao; Tạo mọi thuận lợi về thủ tục xuất nhập cảnh, đi lại và bảo đảm an toàn, an ninh; Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam; Khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hóa, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và gìn giữ vệ sinh môi trường; Phát triển các khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn, chất lượng cao” [Hoàng Mai 2016].
“Nhà nước có chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch để bảo đảm du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao”. Quan điểm này được thể chế hóa thành luật: “Phát triển du lịch bền vững..., bảo đảm hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường... theo hướng du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch” (Luật Du lịch - Chương 1, Điều 5, Khoản 1).
Có thể thấy, Đảng và Chính phủ luôn không ngừng quan tâm đến phát triển du lịch Việt Nam, đã và đang có những chỉ đạo, chính sách đột phá để tạo động lực cho ngành du lịch phát triển. Chính vì vậy, việc vận dụng những giá trị văn hóa truyền thống tại miếu Nhị Phủ, nhằm phát triển du lịch, cũng như lấy nguồn kinh phí từ hoạt động du lịch tài trợ cho miếu, sẽ tạo “sân chơi” mang đậm tính nhân văn, tính cộng đồng, giúp lớp trẻ người Hoa trở về với cội nguồn dân tộc, bảo lưu tinh hoa văn hóa dân tộc, cũng như tạo điều kiện cho lớp trẻ người Việt được giao lưu, học hỏi các giá trị tốt đẹp ấy.
1. Chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa.
Ngay sau ngày giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Năm 1957, Nghị định số 519/TTg về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh do Thủ tướng chính phủ công bố ngày 29/10/1957 đã tạo điều kiện cho ngành văn hóa thông tin tiến hành kiểm kê các di tích; bảo vệ những di tích quan trọng của đất nước.
Sự hoàn thiện dần về luật pháp đối với lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa các dân tộc được bắt đầu với Hiến pháp năm 1992, quy định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức nhân dân về việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua, đã khẳng định “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định 10 nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa. Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ này như sau: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.” [Nguyễn Thế Hùng 2007]
Theo Điều 25, Luật Di sản văn hóa năm 2001, được bổ sung năm 2009, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống cần được hiểu như sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản Quy phạm pháp luật, trong đó có các cơ chế, chính sách cụ thể, để tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống.
Thứ hai, khuyến khích và hướng dẫn các chủ thể văn hóa trong việc tổ chức các họat động văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống gắn với lễ hội.
Thứ ba, kịp thời uốn nắn, điều chỉnh những hoạt động lễ hội không đúng với những quy định pháp luật, trái với phong tục tập quán tốt đẹp và lối sống văn hóa lành mạnh.
Bảo tồn và khai thác luôn là hai mặt của một vấn đề và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nếu chỉ bảo tồn mà không chú ý tới khai thác các giá trị văn hóa sẽ gây lãng phí nguồn tài nguyên, hạn chế việc phát huy giá trị văn hóa, giới thiệu các giá trị văn hóa đó đến công chúng. Nhưng mặt khác, nếu chỉ khai thác mà không bảo tồn, thì sẽ dẫn đến các giá trị văn hóa ngày càng xuống cấp, nguy hại, bị mai một và điều đó sẽ gây hủy hoại di tích, hủy hoại môi trường và những hậu quả to lớn khác cho toàn xã hội [Nguyễn Thế Hùng 2007].
2. Những thuận lợi trong việc quản lý và khai thác các giá trị di sản văn hóa tại miếu Nhị Phủ
Việc quản lý và khai thác giá trị di tích lịch sử - văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể như: Di tích lịch sử - văn hoá là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá lâu đời của dân tộc, là những chứng tích vật chất phản ánh sâu sắc nhất về đặc trưng văn hoá, về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng nước, giữ nước hào hùng, vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời là một bộ phận cấu thành kho tàng di sản văn hoá nhân loại. Với những giá trị như trên, các di tích lịch sử - văn hoá là bộ phận đặc biệt trong cơ cấu “tài nguyên du lịch”. Các di tích đó, cả về mặt nội dung lẫn hình thức, đều có khả năng tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ [Phạm Hồ Bắc 2016].
Miếu Nhị Phủ sau nhiều lần trùng tu được vững chắc hơn, đồng thời giá trị, ý nghĩa tâm linh cũng được nâng lên. Điều này, làm cho không gian miếu vừa có giá trị thẩm mỹ cao về mặt kiến trúc - nghệ thuật, vừa uy nghiêm, thiêng liêng về mặt tín ngưỡng. Không những thế, việc được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đã mang lại những giá trị to lớn, góp phần đưa miếu Nhị Phủ đến với du khách khắp nơi trên thế giới, thông qua sách hướng dẫn du lịch Việt Nam.
Giới thiệu miếu Nhị Phủ đến cho du khách và phát triển lễ hội tại miếu trở thành một sản phẩm du lịch, góp phần thu hút số lượng lớn khách tham quan, đòi hỏi phải dựa trên nguyên tắc phát triển bền vững, bảo vệ và tôn tạo di tích một cách khoa học và hợp lý, lấy cộng đồng địa phương, mà chủ yếu là Ban Quản trị miếu và người Hoa, là nguồn nhân lực chính cho việc lưu giữ và bảo tồn các giá trị văn hóa Hoa.
Cần giới thiệu những nét riêng có của ngôi miếu Nhị Phủ cho du khách, qua hướng dẫn trực tiếp hoặc bằng Sổ tay du lịch. Sự khác biệt về văn hóa của nhóm Hoa Phúc Kiến chính là đặc trưng thu hút của miếu Nhị Phủ. Có thể giới thiệu về miếu theo một trình tự lôgíc (tức từ xa đến gần, từ trên xuống dưới và từ ngoài vào trong). Theo trình tự đó, chúng ta sẽ thấy một ngôi miếu hoàn toàn có kiến trúc đặc thù của người Hoa Phúc Kiến, không theo khuôn mẫu của bất kỳ nhóm Hoa nào khác, đặc biệt là mái miếu hình thuyền. Hình ảnh mái miếu cong vút, những cửa sổ hình tròn, những bảo cổ thạch có kích thước lớn trước cửa vào miếu,... là đặc trưng riêng có của ngôi miếu Hoa Phúc Kiến. Từ những chủ đề, biểu tượng trên mái miếu giúp chỉ ra vũ trụ quan, nhân sinh quan phong phú và đa dạng của nhóm người này.
Di tích và lễ hội là hai loại hình hoạt động văn hóa sóng đôi và đan xen ở nước ta. Lễ hội gắn với di tích, không tách rời di tích. Có thể nói, di tích là dấu hiệu truyền thống được đọng lại, kết tinh lại ở dạng cứng, còn lễ hội là cái hồn và nó chuyển tải truyền thống đến cuộc đời ở dạng mềm.
Khi sử dụng lễ hội, nhằm tạo ra sản phẩm độc đáo cho ngành du lịch mang đậm tính dân tộc, thì ngành du lịch có hai nhiệm vụ là: giới thiệu hình ảnh di tích, lễ hội, nét đẹp nhân văn của bản thân di tích, lễ hội với bạn bè năm châu. Nhiệm vụ thứ hai là mang lại lợi nhuận cho ngành du lịch, cho cộng đồng dân cư, cũng như nguồn thu cho lễ hội, thông qua việc trích lại một phần lợi nhuận mà ngành du lịch thu được. Du lịch tạo cho người dân có công ăn việc làm, qua việc tạo những sản phẩm lưu niệm mang màu sắc lễ hội vía Ông Bổn như hình những con rồng, con lân nhỏ bé, xinh xắn, những nét vẽ thư pháp trên đá, trên vải, hay những chiếc đèn lồng xinh xinh, viết vài câu đối cầu chúc bình an và làm ăn phát đạt.
Đánh giá về khả năng khai thác lễ hội vía ông Bổn trong hoạt động du lịch, chúng tôi đã dựa vào ba yếu tố quan trọng là: thời gian tiến hành, quy mô lễ hội và vị trí, vai trò của di tích. Về thời gian, lễ hội được tiến hành vào tháng giêng và tháng tám âm lịch; quy mô tổ chức khá lớn, thu hút hàng ngàn người tham dự. Điều này cho phép khai thác tốt hơn di tích miếu và lễ hội vía Ông vào mục đích du lịch.
Được sự điều hành và quản lý của Ban Quản trị, miếu được bảo tồn khá tốt, không gian miếu thoáng đãng và sạch sẽ, đáp ứng được nhu cầu thăm viếng miếu của mọi đối tượng du khách.
Tại di tích miếu Nhị Phủ, trong ngày lễ vía Ông Bổn, ban ngành, cùng chính quyền địa phương đã làm tốt công tác bảo vệ an ninh, trật tự khu vực quanh miếu: không có nạn ăn xin, buôn bán hàng rong, chèo kéo du khách hoặc bà con đi lễ.
Thực hiện theo chỉ thị của Nhà nước, Ban Quản trị miếu đã làm tốt các hoạt động bài trừ mê tín dị đoan, không đốt nhiều vàng mã, nhang đèn gây ô nhiễm môi trường, cũng như tạo cơ hội thuận lợi cho các đối tượng xấu trà trộn móc túi. Vào những ngày lễ, giao thừa, người dân đến cúng bái, mỗi người chỉ được mang ba nén nhang vào điện, không được mang nhang to nhằm hạn chế việc lãng phí tiền của và ô nhiễm môi trường, sử dụng số tiền đóng góp nhằm gây quỹ cho những hoạt động từ thiện-xã hội.
3. Những khó khăn trong việc quản lý và khai thác các giá trị văn hóa tại miếu Nhị Phủ
Bên cạnh những cơ hội, những mặt tích cực mà ngôi miếu đã có được, vẫn còn tồn tại một số thách thức, hạn chế nhất định. Một số chính sách, văn bản dưới luật chưa theo kịp với hoạt động quản lý, khai thác các giá trị văn hóa.
Trước nay, rất ít công ty du lịch xem chùa/miếu/đình là điểm tham quan du lịch văn hóa. Họ chỉ xem đấy là nơi thờ cúng hơn là điểm đến để thưởng ngoạn, tham quan. Các công ty du lịch, một phần do chưa chú trọng đến vai trò, vị trí của ngôi chùa/miếu/đình, một phần do chưa nắm vững các giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc của các cơ sở này, đặc biệt là của các tộc người, vì vậy chưa phát huy hết giá trị văn hóa vào du lịch, do đó chưa thể hướng dẫn tốt cho du khách, nhất là các chương trình du lịch chuyên sâu, như du lịch tâm linh, du lịch hành hương, du lịch văn hóa,...
Các tour, tuyến kết hợp tham quan di tích trong TP HCM vẫn còn ít so với nhu cầu thực tế của người dân. Bên cạnh đó, các dịch vụ kèm theo, như ăn uống, quà lưu niệm,... thì hầu như rất ít nơi thực hiện được. Điều này gây lãng phí rất lớn đối với việc khai thác tiềm năng du lịch mà các di tích có thể mang lại.
Cho đến nay, vẫn chưa có số liệu thống kê cụ thể về số lượng du khách đến tham quan miếu trong ngày thường, cũng như vào dịp lễ hội. Có thể chia lượng khách đến miếu thành hai nhóm: nhóm khách phương Đông và nhóm khách phương Tây. Đối với nhóm khách phương Đông, với những nét văn hóa khá tương đồng, cùng hệ thống thờ tự giống nhau, nên họ tham quan với sự thành kính, thắp nhang cầu mong bình an. Còn nhóm khách phương Tây chỉ đến viếng miếu với tâm lý tham quan đơn thuần và nhiều khi họ cũng không hiểu nhiều về lối thờ tự, cũng như những giá trị văn hóa, giá trị nghệ thuật độc đáo mà ngôi miếu đang lưu giữ. Nhóm khách này chỉ được cung cấp một số thông tin sơ sài, ngắn ngủi về miếu, thông qua tập sách hướng dẫn du lịch Việt Nam, hoặc từ những hướng dẫn viên du lịch đi kèm, nhưng những hướng dẫn viên này cũng chỉ cung cấp thông tin khái quát về miếu, chứ không thuyết minh kỹ về các giá trị văn hóa của miếu.
Nhìn chung, trong những năm qua, hoạt động lễ hội tại miếu Nhị Phủ vẫn chưa được các cấp chính quyền, các ban ngành quan tâm đúng mức. Lễ hội chủ yếu được tổ chức do sự sắp xếp của Ban Quản trị miếu và phục vụ nhu cầu tín ngưỡng là chính. Hoạt động du lịch gần như vắng bóng trong những ngày lễ hội này. Lý do chủ yếu là trước đây, lễ hội được tổ chức khá quy mô, nhưng có nhiều thay đổi sau năm 1975. Ban Quản trị tổ chức lễ, người đến cúng bái thắp nén nhang, cầu xin mọi may mắn, an lành, sau đó ra về. Còn các hoạt động hội như diễn xướng, múa rồng, múa lân, đấu thầu lồng đèn gây quỹ cho các hoạt động từ thiện - xã hội, cũng không còn quy mô lớn như trước đây. Do đó, lễ hội không thu hút được nhiều lượng khách đến tham dự và trên thực tế, người dân quanh vùng, cũng như du khách, không có nhiều thông tin về sự kiện văn hóa này.
Chính vì thế, khi du khách đến miếu vào dịp lễ cũng không có nhiều thông tin về lễ hội của miếu, cũng như sức hấp dẫn trước đây. Phần lễ chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh, cầu mong cuộc sống bình an của người dân địa phương, mà bớt hẳn đi phần hội. Dường như các giá trị văn hoá chưa được khai thác hết để phát triển du lịch, tận dụng nguồn thu kinh tế mà hoạt động du lịch mang lại.
Lễ hội là nguồn tài nguyên nhân văn quý giá, mang đến cho thành phố cơ hội phát triển du lịch lễ hội, nhằm tạo ra sản phẩm mới độc đáo, thu hút lượng lớn du khách đến với một thành phố trẻ năng động, mang trong mình tiềm năng du lịch văn hóa. Nhưng trong thời gian qua, ngành du lịch vẫn chưa khai thác được thế mạnh của thành phố, chưa tạo được những sản phẩm mang đậm nét đặc trưng văn hóa vùng miền, nhằm mang đến cho du khách sự mới lạ. Lễ hội còn khiêm tốn, nặng về hình thức tín ngưỡng, chưa được sự quan tâm, giúp đỡ về nguồn tài lực và nhân lực từ các cấp chính quyền. Lễ hội vía Ông Bổn chủ yếu là do các thành viên trong Ban Quản trị họp bàn và tổ chức, không được tổ chức bài bản cụ thể như những lễ hội khác. Lễ hội chủ yếu chỉ có du khách nội địa và cư dân địa phương tham gia cúng bái là chính. Du khách quốc tế tham gia rất ít và thậm chí họ không có thông tin về lễ hội, nên không hiểu hết giá trị văn hóa tâm linh, cũng như những nét đẹp trong bản thân lễ hội. Vì vậy, cần vận dụng những giá trị văn hóa tâm linh, văn hóa truyền thống, văn hoá vật chất thông qua giá trị về kiến trúc - nghệ thuật, về lịch sử - văn hóa tại miếu Nhị Phủ, nhằm phát triển du lịch, cũng như lấy nguồn kinh phí từ hoạt động du lịch để tài trợ lại cho phần hội, tạo sân chơi mang đậm tính nhân văn, tính cộng đồng, giúp lớp trẻ người Hoa trở về với cội nguồn dân tộc, bảo lưu tinh hoa văn hóa dân tộc, cũng như tạo điều kiện cho lớp trẻ người Việt được giao lưu, học hỏi các giá trị tốt đẹp ấy.
Thái độ ứng xử của người dân đối với di tích nói chung và đối với miếu Nhị Phủ nói riêng hiện nay còn tồn tại nhiều vấn đề cần chấn chỉnh. Mặc dù đã được nhắc nhở và có chuyển biến so với trước đây, nhưng hình ảnh người dân nói cười, ăn mặc chưa nghiêm trang khi vào khu di tích vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Đó là chưa nói đến hành vi vứt rác bừa bãi, làm mất vẻ mỹ quan của di tích. Việc tranh mua giành bán, mời chào nháo nhác... vì tư tưởng thực dụng vẫn còn rõ nét, khi nhiều người đến miếu chỉ với mục đích cá nhân.
Hiện nay, Nhà nước cũng đã thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, phối hợp với các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình nhằm tuyên truyền, quảng bá các giá trị của di tích lịch sử - văn hoá đến với người dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phối hợp với các ban ngành hữu quan, các đơn vị trong xã hội cùng chung tay bảo vệ, cũng như phát huy giá trị di tích, đưa di tích đến gần hơn với người dân.
4. Đề xuất kiến nghị và giải pháp trong hoạt động phát triển du lịch trên địa bàn TP HCM
4.1. Kiến nghị
- Với các cấp chính quyền địa phương
Các cấp chính quyền cần tiến hành quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa của di tích và lễ hội, nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, tạo ra sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện nét văn hóa đa dạng, nhiều màu sắc của một quốc gia đa chủng tộc, đa tôn giáo. Phải làm cho lễ hội thật sự là một ngày hội văn hóa- nghệ thuật, thể thao…
Các cơ quan chức năng quan tâm khôi phục lại những hoạt động văn hóa - nghệ thuật truyền thống như: hát Tiều, hát Quảng, múa rồng, nhạc xã với các nội dung khơi gợi lại các tuồng tích cổ xưa, giáo dục con cháu cách sống, đạo lý làm người, các loại hình tạp kỹ như múa rồng, biểu diễn võ thuật, nêu cao tinh thần thượng võ, trừ gian diệt ác, trong phần hội của lễ hội, nhằm tạo sân chơi văn hóa cho cộng đồng, thể hiện sự trao chuyền văn hóa cho lớp trẻ, giáo dục ý thức dân tộc, tránh hiện tượng mất gốc.
Khôi phục, phát huy những giá trị tốt đẹp trong loại hình diễn xướng dân gian của cộng đồng người Hoa, hiện nay số lượng những đoàn nghệ thuật có thể trình diễn không nhiều. Những loại hình nghệ thuật này đang dần mai một, nghệ nhân không đủ sống bằng nghề và phần lớn họ đều đã cao tuổi, mà lại không có thế hệ tiếp nối. Nếu không sớm khắc phục tình trạng này, thì thời gian tới có thể những loại hình nghệ thuật, nhạc xã sẽ không còn tồn tại, mà đây lại là nguồn tài nguyên quý báu cho phát triển du lịch văn hóa.
Cần xây dựng các cơ sở đào tạo về du lịch văn hóa, du lịch hành hương, du lịch tâm linh tại TP HCM, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chuyên hướng dẫn các tuyến du lịch văn hóa, du lịch hành hương, du lịch tâm linh đang thiếu hiện nay. Nhân lực du lịch không những cần có kiến thức về lĩnh vực lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn phải có “tâm” với nghề, tránh vì lợi ích cá nhân mà làm mất đi ý nghĩa của chuyến du lịch, bởi đây là một loại hình du lịch nghiêng về tín ngưỡng-tôn giáo, phụ thuộc nhiều vào lòng tin của con người.
Thông tin về hoạt động du lịch, lễ hội của TP HCM nên được cập nhật thường xuyên trên các kênh thông tin đại chúng, nhằm cung cấp thông tin kịp thời cho những khách có nhu cầu tham quan TP HCM, cũng như tham gia lễ hội.
Các cấp chính quyền cần tiếp tục phát huy tốt việc bảo vệ miếu, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn về tài sản và tính mạng cho du khách vào những ngày lễ hội, có đông người tham gia, đề phòng trường hợp cướp giật, móc túi. Giúp đỡ miếu trong hoạt động trùng tu di tích, khôi phục phần hội của lễ hội, nghiên cứu bài bản các loại hình văn hóa - nghệ thuật, ca múa nhạc của cộng đồng người Hoa, từ đây có cơ sở cho việc bảo tồn cũng như phát huy những cái hay, cái đẹp của nghệ thuật ca múa trong ngày hội, để ngày lễ vía Ông Bổn thật sự là kho tàng lưu giữ sinh hoạt văn hóa độc đáo của cộng đồng.
- Đối với Ban Trị sự miếu
Ban Trị sự nên quan tâm đến việc thống kê lượt khách đến miếu hàng ngày, cũng như trong những dịp lễ tết, những ngày hội lễ, nhằm có sự chuẩn bị tốt về các mặt như: chuẩn bị lực lượng bảo vệ, hạn chế việc bán hàng rong, ăn xin trước miếu; giải quyết tốt chỗ giữ xe, tránh gây ùn tắc giao thông phía trước miếu. Ngoài ra, thông qua số liệu thống kê này, ta sẽ có những đánh giá chính xác hơn về vị trí của miếu trong hoạt động du lịch, cũng như hoạt động văn hóa, tâm linh.
Đối với việc trùng tu, bảo tồn di tích, hàng năm Ban Trị sự miếu nên kiểm tra lại di tích một cách bài bản và khoa học, với sự giúp đỡ của các chuyên gia trong các lĩnh vực trùng tu và tôn tạo di tích.
- Đối với cộng đồng người dân địa phương
Nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng, sản phẩm tham quan sẽ hấp dẫn hơn nếu người quản lý và nguồn lao động trong ngành lại chính là đồng bào Hoa. Vì khi chính mình nói về dân tộc mình thì chắc chắn trong đó sẽ có lòng nhiệt huyết và tinh thần tự hào dân tộc. Điều này, Ban Trị sự của miếu sẽ thực hiện tốt khi chính thành viên Ban Trị sự là hướng dẫn viên tại điểm. Chính sự nhiệt tình, tâm huyết này làm du khách cảm thấy thấy như thân thiện hơn và thêm yêu mến di tích miếu cũng như lễ hội văn hóa tại đây. Đặc biệt, các thành viên trong Ban Trị sự và cộng đồng người Hoa tại địa phương lại có khả năng sử dụng tiếng Phúc Kiến, đây là một thuận lợi lớn khi giao tiếp với khách du lịch đến từ các quốc gia châu Á có cùng nhóm ngôn ngữ địa phương.
Vào những dịp lễ, khi đến viếng miếu và thắp hương, mọi người nên tuân thủ quy định của Ban Trị sự, hạn chế đốt nhiều nhang và giấy tiền vàng bạc, nhằm tránh lãng phí và góp phần tạo không gian miếu thoáng đãng trong ngày lễ.
- Đối với các doanh nghiệp lữ hành
Khi đưa khách đến tham quan hoặc tham gia lễ hội tại miếu, doanh nghiệp nên trích một phần lợi nhuận nhằm hỗ trợ miếu trong việc trùng tu, tôn tạo di tích, cũng như giúp cho lễ hội tại miếu có thêm nguồn kinh phí để tổ chức tốt hơn.
Bên cạnh đó, các nhà kinh doanh du lịch cần quan tâm, tham gia các hoạt động quảng bá sản phẩm đặc trưng của TP HCM, quảng bá nét văn hóa độc đáo trong hoạt động của lễ hội. Nói cách khác, du lịch đang phát triển tự phát tại lễ hội miếu, chứ chưa có sự chuẩn bị một cách bài bản, đáp ứng nhu cầu của du khách thập phương.
Các doanh nghiệp lữ hành nên chủ động mở thường xuyên các lớp tập huấn, nâng cao kiến thức cho hướng dẫn viên du lịch, tổ chức lớp học, trong đó mời chuyên gia về dân tộc học, văn hoá học và về lịch sử đến trao truyền kiến thức, đặc biệt là những người am hiểu khá sâu về tín ngưỡng - tôn giáo. Đây là những lớp học tăng cường kiến thức nền tảng. Ngoài ra, còn cần trang bị cho hướng dẫn viên du lịch những kiến thức chuyên sâu về văn hóa của từng tộc người cư trú trên địa bàn.
Đối với những người làm công tác du lịch, như hướng dẫn viên, nhân viên bán chương trình du lịch, khi bán chương trình có tham quan miếu hoặc tham dự lễ hội tại miếu, cần nhắc nhở du khách ăn mặc sao cho phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Á Đông, cũng như có những hành vi cư xử phù hợp khi tham quan miếu, tránh ồn ào, lớn tiếng, ảnh hưởng đến sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng. Đặc biệt, khi hướng dẫn viên thuyết minh, nên tập trung khách tại một vị trí phù hợp, không làm ảnh hưởng đến lối ra vào của mọi người xung quanh. Trong quá trình cung cấp thông tin cho khách, nên thể hiện sự thành kính, tôn trọng đối với di tích và đối với nhân vật được suy tôn trong miếu, để từ đây, du khách, đặc biệt là du khách Phương Tây, sẽ thêm hiểu và thêm yêu di tích, cũng như lễ hội tại di tích.
4.2. Giải pháp
- Về trùng tu, khôi phục, tôn tạo di tích, lễ hội
Đối với một di tích lịch sử - văn hóa được xây dựng chủ yếu từ gạch, ngói và gỗ, thì thời gian và sự vô tâm của con người là nguyên nhân gây nên sự mục nát cũng như hư hại cho di tích. Chính vì thế, hàng năm Ban Trị sự miếu nên kiểm tra di tích một cách bài bản và khoa học với sự giúp đỡ của các chuyên gia trong các lãnh vực trùng tu và tôn tạo di tích, nhằm kịp thời sửa chữa.
Lễ hội miếu Nhị Phủ cần đầu tư và phát triển hơn nữa về phần hội. Ban Trị sự cũng như các ban ngành có liên quan, cụ thể là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, nên có kế hoạch khôi phục phần hội nhằm tạo “sân chơi” cho các tầng lớp nhân dân, cũng như thu hút lượng du khách đến tham dự lễ hội. Để làm được điều này, các cơ quan cần có công trình nghiên cứu các giá trị văn hóa, các trò diễn dân gian, các loại hình nghệ thuật mang tính truyền thống, phát huy vẻ đẹp tinh thần của cộng đồng người Hoa TP HCM, cũng như giúp du khách hiểu thêm về lịch sự phát triển của cộng đồng, giá trị lịch sử - văn hóa của miếu.
- Về quảng bá di tích và lễ hội vía Ông Bổn tại miếu
Xây dựng trang website với nội dung giới thiệu về lịch sử hình thành, các giá trị văn hóa của miếu Nhị Phủ, cũng như lễ hội vía Ông Bổn và những hoạt động nổi bật của miếu trong năm. Hoạt động này nhằm cung cấp thông tin liên tục và đầy đủ cho du khách. Bên cạnh đó, Ban Trị sự của miếu thường xuyên có các hoạt động xã hội, hỗ trợ cộng đồng, thì đây sẽ là cơ sở cung cấp thông tin cho những cá nhân hay doanh nghiệp muốn chung tay góp sức cùng Ban Trị sự.
Cần phát hành tập sách ảnh giới thiệu về miếu, cũng như lễ hội tại miếu, bằng nhiều thứ tiếng phổ biến như: Anh, Hoa, Pháp,... nhằm cung cấp thông tin cho du khách. Du khách có thể mua về làm tư liệu hoặc mang tặng cho bạn bè, người thân. Khi người thân, bạn bè du khách đến Việt Nam, họ sẽ theo tập sách nhỏ này tìm đến tham quan miếu, cũng như tham gia lễ hội. Điều này, Miếu Nhị Phủ đã làm được. Từ lâu, miếu đã có tập sách viết về lịch sử và lễ hội cũng như những giá trị văn hóa của miếu. Tuy nhiên, tập sách này đã cũ và chưa được tái bản, thông tin còn khái quát, chưa đi sâu vào di tích và lễ hội.
- Về cách thức tổ chức
Cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa quản lý nhà nước và Ban Trị sự: ban hành các văn bản quy định về trùng tu, tôn tạo, tổ chức lễ hội, xây dựng cơ sở phục vụ, dịch vụ tại miếu.
Trong lễ hội, tổ chức một vài cuộc thi mang tính dân tộc: chủ yếu giới thiệu những loại hình văn hóa - nghệ thuật của đồng bào Hoa như: múa lân, sư, rồng; viết thư pháp; vẽ tranh thủy mặc; nhắc lại các loại hình nghệ thuật cổ truyền, thu hút sự tham gia của các nhóm Hoa trong khu vực. Ngoài ra, Ban Trị sự, cũng như các cơ quan quản lý, có thể mở rộng lễ hội ra phạm vi các tỉnh thành khác, thậm chí là các quốc gia trong khu vực có cộng đồng người Hoa sinh sống như: Malaysia, Singapore,… Những hoạt động này cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp người Hoa giao lưu, học hỏi, mở rộng mối quan hệ kinh tế trong khu vực.
Tổ chức khu gian hàng ẩm thực nhằm giới thiệu những món ăn truyền thống, ôn lại quá khứ xa xưa với những chiếc xe hủ tíu mì, tiếng gõ, tiếng rao “tào phớ” còn vang mãi trong lòng bao lớp người Hoa, cũng như người Việt yêu hương vị ẩm thực Hoa.
Tổ chức các gian hàng trưng bày những vật phẩm lưu niệm, tạo nguồn thu cho cộng đồng, cũng như giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật, thư pháp, tranh vẽ của các nghệ nhân người Hoa.
Sau mỗi kỳ lễ hội, Ban Trị sự cũng như những người làm công tác quản lý cần tổng kết, đánh giá rút ra bài học kinh nghiệm, lập phương án, kế hoạch hành động cho năm sau.
Cần bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ cho các hướng dẫn viên, tránh trường hợp hướng dẫn thuyết minh lan man, lệch lạc về di tích.
- Về bảo lưu các giá trị văn hóa - nghệ thuật truyền thống
Trang bị kiến thức cho người dân để họ có đủ hiểu biết khi tham quan di tích, tham gia lễ hội. Thực tế hiện nay, có không ít người đi đến miếu mà không hiểu biết về nơi mình đến, về lễ hội mình tham gia, về tín ngưỡng mà mình đến cúng viếng. Gần như mọi người đều chỉ biết đến việc thắp hương, dâng lễ, khấn vái và cúng tiền công đức.
Đối với những hoạt động văn hóa - nghệ thuật như: múa rồng, múa hẩu, đi cà kheo,... các tiết mục trình diễn có nội dung khơi gợi những tuồng tích xưa, đề cao những giá trị văn hóa cao đẹp của cộng đồng, có tính giáo dục và khơi gợi tinh thần dân tộc cho thế hệ sau, cần được chú ý phát huy. Ngoài ra, để thu hút được giới trẻ, chương trình nghệ thuật nên được cách tân và hiện đại hóa, sao cho phù hợp, thiết kế bài bản, kết hợp hài hòa giữa nhạc truyền thống và nhạc hiện đại. Sự đan xen này sẽ tạo ra màu sắc mới cho lễ hội. Tuy nhiên, cần nghiên cứu kỹ, tránh sự quá đà, kệch cỡm, làm cho chương trình bị biến tướng, mất đi ý nghĩa thật sự.
Hiện nay, các đoàn nhạc xã không nhiều và họ không được sự đầu tư bài bản, cũng như sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền. Vì thế, nên có sự hỗ trợ về mặt kinh tế, cũng như tinh thần cho các đoàn. Làm được việc này, chính là đang góp phần bảo tồn loại hình văn hóa - nghệ thuật của người Hoa Phúc Kiến nói riêng và cộng đồng người Hoa nói chung. Các loại hình nghệ thuật được bảo tồn tốt nhất khi nó được sống trong chính nơi chúng ra đời, ấy chính là trong cộng đồng. Thực tế, có nhiều cách bảo lưu các loại hình nghệ thuật như: qua băng hình, phát thanh… nhưng cách bảo lưu tốt nhất chính là sự đóng góp của các nghệ nhân tâm huyết với nghề. Ngoài ra, chính quyền nên hỗ trợ trong việc đào tạo các thế hệ tiếp nối.
KẾT LUẬN
Sự kiện miếu được công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1998 và Hội quán đón nhận Huân chương Lao động hạng III vào năm 2006 đã “nói” lên được giá trị, vị trí, vai trò của miếu Nhị Phủ, trước hết là trong nhóm Hoa Phúc Kiến ở TP HCM, sau nữa là đối với các nhóm Hoa khác, với người Việt, người nước ngoài đến tham quan. Từ đó cũng đặt ra cho Ban Quản trị hội quán nhiệm vụ tăng cường công tác quản lý và khai thác giá trị của di tích nhằm phục vụ người dân TP HCM, và cho việc phát triển du lịch thời gian tới.
Để có thể thực hiện tốt việc quản lý và khai thác các giá trị di sản văn hóa của di tích miếu Nhị Phủ, thông qua phát triển du lịch, cần thiết có kế hoạch cụ thể, như am hiểu rõ Luật Di sản, hiểu thấu đáo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của di tích; đồng thời cũng nhận thức rõ tất cả những thuận lợi và những bất cập trong việc quản lý, phát triển du lịch, để có giải pháp khả thi, thỏa đáng đặt ra cho các cấp chính quyền, cho Ban Trị sự miếu; đối với cộng đồng người dân địa phương; đối với doanh nghiệp lữ hành. Đó là những giải pháp về việc trùng tu, về quảng bá di tích và lễ hội, về cách thức tổ chức, thực hiện tốt các kế hoạch nêu trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh 1998: Di tích lịch sử - văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ.
- Chủ tịch Nước 2001: Luật Di sản văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Dương Văn Sáu 2004: Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch, trường Đại học Văn Hóa Hà Nội, Hà Nội.
- Hoàng Mai 2016: Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn - Định hướng cho các tỉnh phía Nam. http://www.itdr.org.vn/vi/nghiencuu-traodoi/1273-phat-trien-du-lich-thuc-su-tro-thanh-nganh-kinh-te-mui-nhon-dinh-huong-cho-cac-tinh-phia-nam.html
- Huỳnh Quốc Thắng 2007: Khai thác lễ hội và các sự kiện góp phần phát triển du lịch tại Thành Phố Hồ Chí Minh, NXBTrẻ, TP HCM.
- Lê Thị Tuyết Mai 2004: Du lịch di tích lịch sử văn hóa, Đại học Văn Hóa Hà Nội, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Hòe – Vũ Văn Hiếu 2001: Du lịch bền vững, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thế Hùng 2007: Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. http://dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=365&c=%2061. Truy cập ngày 22/6/2017
- Phạm Hồ Bắc 2016: Giải pháp bảo tồn di tích gắn với phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Hà Nam. http://www.spnttw.edu.vn/Pages/ArticleDetail.aspx?siteid=1&sitepageid=139&articleid=5458. Truy cập ngày 22/6/2017.
- Sở Văn hoá và Thông tin TP HCM 2001: Di tích lịch sử văn hoá TP HCM – Một số cơ sở tín ngưỡng dân gian, Ban Quản lý di tích lịch sử -văn hoá và danh lam thắng cảnh.
- Trần Thị Mai 2006: Giáo trình tổng quan du lịch, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”