Tuy nhiên, Di sản văn hóa (DSVH) là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả DSVH vật thể và DSVH phi vật thể, nên trong giới hạn của bài viết này, tôi chỉ nêu vài suy nghĩ sau đây của bản thân về một khía cạnh của chủ đề Hội thảo, đó là việc làm thế nào để khai thác hiệu quả hơn di sản cổ vật (một trong các loại DSVH vật thể của Việt Nam) hiện lưu giữ trong các sưu tập tư nhân trên địa bàn TP Hồ Chí Minh.
1. Theo tôi, khi nói đến việc làm thế nào để khai thác hiệu quả hơn di sản cổ vật trong các sưu tập tư nhân ở thành phố này, không thể không đề cập tới tình hình thực tế liên quan đến vấn đề trên. Vì vậy, tác giả bài viết dành thời gian để giới thiệu vài nét về tình hình đó như sau:
Trước hết, có thể nói, Luật DSVH ra đời và đi vào cuộc sống đã thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một số lượng không nhỏ các sưu tập tư nhân trên phạm vi cả nước, đặc biệt là các sưu tập cổ vật. Và, để tạo sân chơi hợp pháp cho các cá nhân đam mê cổ vật, đồng thời là nơi tổ chức những hoạt động nhằm góp phần thiết thực hơn cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy DSVH nước nhà, các Hội, Trung tâm và Câu lạc bộ Cổ vật với những tên gọi khác nhau đã được thành lập ở các nơi như: Hội Gốm sứ và Cổ vật Thăng Long (Hà Nội), Hội Cổ vật Thiên Trường (Nam Định), Hội Cổ vật Lam Kinh (Thanh Hóa), Hội Cổ vật Huế; Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn Cổ vật Việt Nam (Hà Nội) và các câu lạc bộ trực thuộc ở Nam Định, Thừa Thiên – Huế, Bình Định, TP HCM,…; một số Câu lạc bộ cổ vật ở các địa phương như: Câu lạc bộ cổ vật quê lụa Hà Đông (Hà Nội), Câu lạc bộ Sưu tầm và Lưu giữ Cổ vật Phú Thọ, Câu lạc bộ Cổ vật Thị xã Thuận An (Bình Dương), Câu lạc bộ Nghiên cứu và Sưu tầm Cổ vật Gia Lai, Câu lạc bộ Cổ vật Bến Tre, Câu lạc bộ Sưu tập Cổ vật Cần Thơ, v.v. Điều đáng mừng hơn là trên cơ sở các sưu tập tư nhân, hàng chục bảo tàng tư nhân (bảo tàng ngoài công lập) đã ra đời. Theo thống kê của Cục DSVH, tính đến tháng 12/2016, trên cả nước đã có 31 bảo tàng thuộc loại trên được thành lập. Riêng TP HCM, tính đến thời điểm này có 2 bảo tàng tư nhân, đó là Bảo tàng Y học cổ truyền Việt Nam (khánh thành ngày 8/02/2007 tại 41 Hoàng Dư Khương, Quận 10, TP HCM) do ông Lê Khắc Tâm là chủ sở hữu. Đây là bảo tàng tư nhân đầu tiên ở TP HCM và cũng là bảo tàng đầu tiên về y học cổ truyền ở Việt Nam, hiện lưu giữ và trưng bày trên 3.000 đơn vị hiện vật (theo nguyên tắc bảo tàng học, mỗi đơn vị có thể gồm nhiều hiện vật) có liên quan tới lịch sử y học cổ truyền VN từ thời đồ đá đến thời hiện tại, với nhiều sưu tập cổ vật thuộc các loại hình và chủ đề khác nhau, tiêu biểu trong số đó là một số cổ vật hiếm có như: dao cầu (dùng để cắt thuốc), thuyền tán (dùng để tán thuốc) có tuổi đời khoảng 2.500 năm, được đưa về bảo tàng này từ quê hương của thiền sư Tuệ Tĩnh và đại danh y Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác; bộ sưu tập hũ rượu thuốc, ấm sắc thuốc từ thế kỷ XVI và các vật dụng của nghề bán thuốc như: cân ta, cân tiểu ly, cân bàn, bàn tính, chày cối giã thuốc, tủ thuốc, bản ván khắc toa thuốc, v.v. Bảo tàng tư nhân thứ hai ở TP HCM là Bảo tàng Áo dài Việt Nam do nhà thiết kế - họa sĩ Sĩ Hoàng là chủ sở hữu. Bảo tàng được khánh thành vào ngày 22/01/2014 tại nhà vườn Long Thuận, Quận 9, TP HCM. Đây là Bảo tàng Áo dài đầu tiên ở Việt Nam trưng bày và giới thiệu về lịch sử chiếc Áo dài Việt Nam từ lúc hình thành cho đến nay, trong đó có sưu tập áo dài cổ (thuộc khái niệm DSVH phi vật thể) gồm: áo dài tứ thân có niên đại giữa thế kỷ XVII, áo dài năm thân giữa thế kỷ XIX, áo dài của vua và hoàng tộc nhà Nguyễn thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, v.v.
Ngoài các bộ sưu tập của 2 bảo tàng tư nhân kể trên, ở TP HCM, tuy chưa có tổ chức nào thống kê số lượng các sưu tập cổ vật tư nhân, song, dựa vào vào mối quan hệ hợp tác giữa Bảo tàng Lịch sử TP HCM và các nhà sưu tập cổ vật tư nhân trong gần 20 năm qua, đồng thời, căn cứ số lượng Hội viên chính thức của Hội Cổ vật TP HCM (theo số liệu do Hội cung cấp là 100 hội viên), với hàng chục nhà sưu tập thuộc Câu lạc bộ UNESCO Nghiên cứu và Bảo tồn cổ vật TP HCM và nhiều nhà sưu tập tôi biết trong quá trình làm việc tại Bảo tàng lịch sử TP HCM (trước khi nghỉ hưu vào cuối năm 2004) mà với những lý do khác nhau chưa gia nhập các tổ chức nói trên, có thể thấy, đây là một trong số ít thành phố ở Việt Nam có nhiều sưu tập cổ vật tư nhân.
Đối chiếu với định nghĩa về sưu tập trong Điều 4 của Luật Di sản văn hóa, Sưu tập cổ vật được hiểu là một tập hợp các cổ vật được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử tự nhiên và xã hội. Và, theo quy định trong Điều 49 của Luật trên: sưu tập có thể theo một chủ đề hoặc nhiều chủ đề thì ở TP HCM có hàng trăm sưu tập cổ vật tư nhân như thế. Theo tôi, sở dĩ không thể biết một cách chính xác số lượng sưu tập cổ vật tư nhân cũng như số lượng cổ vật trong các sưu tập đó trên địa bàn TP HCM vì các nhà sưu tập thường không muốn “công khai hóa” số cổ vật mà họ sở hữu, tuy nhiên, từ thực tế, tôi có thể khẳng định rằng, tiềm năng về cổ vật của tư nhân trên địa bàn TP HCM là rất lớn. Có những nhà sưu tập lưu giữ vài trăm cổ vật, nhưng cũng có những nhà sưu tập sở hữu hàng ngàn món. Chẳng hạn, nhà sưu tập - cố học giả Vương Hồng Sển trước khi mất đã hiến tặng TP Hồ Chí Minh sưu tập gồm 849 cổ vật (hiện lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử TP HCM); nhà sưu tập Nguyễn Đức Tùng vì gia đình gặp khó khăn nên đã quyết định nhượng lại cho Bảo tàng Lịch sử TP Hồ Chí Minh trọn bộ sưu tập với 2.789 cổ vật; vợ chồng Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa và Huỳnh Văn Nghị đã hiến tặng TP HCM trọn bộ sưu tập với 3.360 hiện vật, trong đó trên 2/3 là cổ vật; bà Nam Hương ở quận Tân Bình có bộ sưu tập trên 3.000 hiện vật, trong đó đa số là cổ vật; hoặc linh mục Nguyễn Hữu Triết (Hội viên Hội Cổ vật TP HCM) chỉ riêng sưu tập đèn cổ đã có trên 1.400 chiếc v.v. Chủ đề của các sưu tập cổ vật tư nhân ở thành phố này cũng khá đa dạng, có sưu tập gồm nhiều chủ đề, nhiều chất liệu,… nhưng cũng có sưu tập chỉ liên quan đến một chủ đề nào đó như: tiền cổ, tem, sắc phong,… Điều đặc biệt đáng lưu ý là trong các sưu tập tư nhân có rất nhiều cổ vật quý mà các bảo tàng công lập (bảo tàng nhà nước) không có. Về nguồn gốc hình thành các sưu tập tư nhân cũng không giống nhau, gồm các cách sau: do bản thân các cá nhân dày công thu thập, sưu tầm; do được thừa kế; do thừa kế rồi tiếp tục sưu tầm bổ sung thêm; v.v. Mặc dù có một số điểm khác nhau trong quá trình thu thập, sưu tầm để hình thành sưu tập, song, theo tôi, cho đến bây giờ, các nhà sưu tập tư nhân vẫn có một điểm chung cơ bản, đó là lòng say mê đối với công việc trên và sự am hiểu các cổ vật trong sưu tập của mình.
Trước thực tế đó, đã gần 9 năm nay, để tạo sân chơi lành mạnh và hợp pháp cho những người có cùng sở thích sưu tầm và nghiên cứu cổ vật, đồng thời, qua đó, góp phần bảo tồn và phát huy DSVH nước nhà, Hội Cổ vật TP HCM (tiền thân là Câu lạc bộ Cổ vật Nam Bộ) đã chính thức được thành lập theo Quyết định số 4235/QĐ-UBND ngày 9/9/2009 của Ủy ban nhân dân TP HCM. Đây là một tổ chức xã hội hoạt động theo nguyên tắc: tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí. Thành phần hội viên rất đa dạng, bao gồm: linh mục, tu sĩ, sư sãi, giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ, thạc sĩ, kỹ sư, sĩ quan quân đội, công an, giảng viên, công nhân viên, doanh nhân, cán bộ hưu trí, v.v.
Tuy Hội chưa có sự thống kê số lượng cổ vật của hội viên, nhưng qua những lần tiếp xúc cũng như phối hợp trưng bày trong hàng chục năm qua, có thể nói, các di sản cổ vật hiện có trong các bộ sưu tập của các hội viên Hội Cổ vật TP HCM nhiều về số lượng (từ vài trăm đến vài ngàn); phong phú về loại hình (đồ gia dụng, đồ trang trí, đồ trang sức, đồ thờ cúng, vũ khí, nhạc khí, tiền cổ, v.v.); đa dạng về chất liệu (đá và đá quý, đồng, gốm, vàng, bạc, giấy, v.v.). Trong khối lượng lớn cổ vật đó có không ít cổ vật quý hiếm mà các bảo tàng công lập vẫn còn thiếu vắng.
Từ khi ra đời cho đến nay, ngoài việc sưu tầm, nghiên cứu cổ vật, góp phần bảo tồn và phát huy DSVH, các hội viên của Hội Cổ vật TP HCM còn giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau thông qua việc tận tình truyền đạt những kiến thức liên quan đến cổ vật và nhiệt tình trao đổi kinh nghiệm trong việc giám định và xác định giá trị cũng như trị giá cổ vật… cho những hội viên mới “vào nghề”.
Đặc biệt, trong hoạt động của Hội, có một việc làm rất có ý nghĩa đối với việc tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận các di sản cổ vật thuộc sở hữu tư nhân, đó là việc một số hội viên tự tổ chức triển lãm cổ vật tại một vài địa điểm nhỏ trong thời gian ngắn và điều đáng lưu ý nhất là, các hội viên đã phối hợp với một số bảo tàng trên địa bàn TP HCM cũng như một số địa phương thực hiện công việc trên, chẳng hạn: phối hợp với Bảo tàng Lịch sử TP HCM trưng bày chuyên đề: “Cổ vật Tây Sơn hào quang sáng mãi” và “Cổ vật sưu tầm 40 năm”; phối hợp với Bảo tàng Lịch sử TP HCM và Bảo tàng Mỹ thuật TP HCM chuyên đề: “Rồng về Thăng Long”; phối hợp với Bảo tàng TP HCM chuyên đề :“1000 năm gốm Việt” và “Cổ vật từ những sưu tập”; phối hợp với Bảo tàng Cần Thơ chuyên đề: “Cổ vật, di vật Việt Nam qua tiến trình giao lưu văn hóa”; “Nguồn Sáng”,“ Nét văn hóa Tây Nguyên”; phối hợp với Bảo tàng Đồng Nai chuyên đề: “Dấu ấn di sản văn hóa Pháp tại Việt Nam”; v.v.
Điều đáng trân trọng là trong các lần phối hợp trưng bày như trên, các hội viên của Hội đều có hiến tặng cổ vật có giá trị cho Bảo tàng nơi đăng cai trưng bày. Chẳng hạn, vào tháng 8/2013, khi tham gia trưng bày chuyên đề: “Hiện vật từ những sưu tập của Bảo tàng TP HCM” nhân kỷ niệm 35 năm thành lập bảo tàng này, Hội viên của Hội đã hiến tặng 66 cổ vật có giá trị cho Bảo tàng, hoặc vào tháng 4/2015, khi tham gia trưng bày chuyên đề “Cổ vật sưu tầm 40 năm” của Bảo tàng Lịch sử TP HCM, 18 nhà sưu tập, trong đó có 1 người nước ngoài đã hiến tặng cho bảo tàng này 159 cổ vật, v.v. Và, theo tin từ Bảo tàng Lịch sử TP HCM, kể từ khi thành lập Hội Cổ vật TP Hồ Chí Minh đến nay, các hội viên của Hội đã hiến tặng cho Bảo tàng hàng trăm cổ vật có giá trị. Với nghĩa cử đó, Hội Cổ vật TP HCM đã góp phần làm phong phú thêm các sưu tập cổ vật của các bảo tàng được hiến tặng cũng như kho tàng DSVH của thành phố.
Ngoài ra, vào tháng 4/2014, Hội viên Hội Cổ vật TP Hồ Chí Minh còn góp tiền để đóng một bộ kiệu rồng sử dụng cho nghi lễ và tổ chức cung tiến cho đền thờ Vua Hùng (tại Thảo cầm viên). Bộ kiệu rồng nói trên đã được Hội bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử TP HCM trực tiếp tiếp nhận, quản lý và sử dụng.
Với những hoạt động trên, Hội Cổ vật TP HCM đã thực sự góp phần gìn giữ, bảo vệ và phát huy giá trị DSVH trên địa bàn Thành phố. Với những kết quả đáng ghi nhận như trên, trong quá trình hoạt động của mình, Hội đã được UBND TP HCM tặng 3 bằng khen, nhiều hội viên của Hội cũng đã nhận được bằng khen của UBND TP HCM và giấy khen của Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM.
Từ thực tế trên, có thể khẳng định rằng, Hội Cổ vật TP HCM được thành lập đã quy tụ được đông đảo giới sưu tầm và nghiên cứu cổ vật ở TP HCM, đồng thời, Hội là nơi tập hợp những người có tâm huyết với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản cổ vật, qua đó, tạo được một sân chơi hợp pháp, bổ ích, lành mạnh cho các nhà sưu tập cổ vật không chỉ trên địa bàn TP HCM, mà cả một số tỉnh lân cận như: Long An, Tiền Giang, An Giang, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Lâm Đồng, Khánh Hòa, v.v.
2. Theo nhận thức của tôi, không có một nhà nước nào, cho dù đó là một nhà nước rất giàu có và có một hệ thống bảo tàng công lập lớn mạnh lại có đủ sức, đủ lực để tiến hành việc thu thập, sưu tầm, gìn giữ và khai thác, phát huy giá trị các DSVH (trong đó có di sản cổ vật) trên toàn lãnh thổ. Chính vì thế, việc xã hội hóa hoạt động bảo tàng là việc làm vô cùng cần thiết, bởi qua đó, khơi dậy và huy động được tiềm năng trí tuệ, vật chất và tâm huyết của các tổ chức và cá nhân trong xã hội để cùng với Nhà nước đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị DSVH, mà trong số đó, có một lực lượng không nhỏ những người có sở thích và có tâm huyết đối với công việc trên, đó là các nhà sưu tập tư nhân. Thực tiễn của quá trình hình thành và phát triển sự nghiệp bảo tàng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là ở Châu Âu đã chứng minh rằng, nhiều bảo tàng nổi tiếng đã được ra đời từ chính các sưu tập tư nhân. Chẳng hạn, Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật Châu Á - Guimet (tiếng Pháp là Musée national des Arts asiatiques - Guimet) thường gọi là Bảo tàng Guimet ở Pháp – một trong số ít bảo tàng nghệ thuật Châu Á quan trọng bậc nhất ở phương Tây, được hình thành từ chính bộ sưu tập của nhà công nghiệp Lyon Émile Guimet, đồng thời cũng là nhà sưu tập đã dày công sưu tầm cổ vật từ những chuyến đi tới Ai Cập, Hy Lạp, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ,… vào nửa cuối thế kỷ XIX và đến năm 1889, bảo tàng mang tên ông được khánh thành tại Paris; hay, ở Luân Đôn của Vương quốc Anh có Viện Bảo tàng Anh (British Museum) - một trong những viện bảo tàng lớn trên thế giới trưng bày và giới thiệu khá đầy đủ và sinh động về lịch sử, văn hóa loài người từ thời nguyên thủy đến thời hiện tại cũng được “xây dựng trên cơ sở sưu tập hiện vật của tư nhân” và “người đặt nền móng cho nó là một vị bác sĩ nổi tiếng – Sir Hans Sloane” [Vương Hoàng Quận (cb) 2001: tr.101]. Với nguyện vọng “để mọi người cùng được thưởng thức những văn vật mà suốt đời ông thu thập, cất giữ” [Vương Hoàng Quận (cb) 2001: tr.101], ông Sir Hans Sloane đã mời Quốc hội Anh mua lại bộ sưu tập gồm 79.575 hiện vật với giá 20.000 bảng Anh vào năm 1753 (chỉ bằng 1/4 so với thời giá lúc đó). Rồi, vào ngày 15/1/1759, tại một tòa nhà kiểu Pháp thế kỷ 18 ở Luân Đôn, bảo tàng British (British Museum) đã được khánh thành; hoặc, ở Nga có một bảo tàng mỹ thuật cũng rất nổi tiếng, đó là Bảo tàng mỹ thuật Tretyakov được hình thành từ bộ sưu tập đồ sộ và độc đáo (vào thời điểm 1892) với gần hai ngàn bức tranh, bản vẽ, tác phẩm điêu khắc… liên quan đến lịch sử mỹ thuật Nga do ông Pavel Tretyakov - một thương gia và là nhà sưu tập lớn của nước Nga hiến tặng cho thành phố Matxcova. Và, như vậy, bộ sưu tập tư nhân đó đã khởi đầu cho sự xuất hiện Bảo tàng Mỹ thuật Tretyakov – một bảo tàng quốc gia và là điểm du lịch hàng đầu của Matxcova; v.v.
Từ thực tế trên, có thể thấy, các sưu tập tư nhân ở nhiều nước trên thế giới đã được hình thành và phát huy tác dụng từ cách đây vài thế kỷ, nhất là ở Châu Âu. Trong cuốn Cẩm nang bảo tàng (The handbook for museums), hai chuyên gia về bảo tàng học (người Mỹ) là tác giả của cuốn sách trên đã nhận định: “Khái niệm các sưu tập tư nhân được xây dựng để phục vụ công chúng nói chung thường được xem là khái niệm của người Châu Âu về sự phát triển của bảo tàng” [Gary Edson và David Dean 2001: tr.26]. Qua nhận định đó có thể hiểu, từ nhiều thập niên trở về trước, ở Châu Âu đã sử dụng khái niệm sưu tập tư nhân khi đề cập đến sự phát triển của bảo tàng, hay nói cách khác, sự ra đời và tác dụng của các sưu tập tư nhân lúc bấy giờ đã là một tiêu chí để đánh giá sự phát triển của bảo tàng. Ở Châu Á, Trung Quốc là nơi phát triển các sưu tập tư nhân mạnh nhất, từ những năm 80 của thế kỷ XX, ở nước này đã có tới 50.000 sưu tập tư nhân với nhiều dạng khác nhau. Cũng trên cơ sở đó, nhiều bảo tàng tư nhân đã bắt đầu xuất hiện tại Trung Quốc vào những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt tăng mạnh từ tháng 10/2002 (nhất là ở Thượng Hải), sau khi Luật Bảo vệ các di tích văn hóa sửa đổi chính thức được ban hành, cho phép các bộ sưu tập tư nhân được bảo vệ hợp pháp và hoạt động như một thực thể văn hóa lành mạnh dành cho công chúng. Điều đó minh chứng cho vai trò của các sưu tập tư nhân đối với sự phát triển bảo tàng ở Trung Quốc.
Ở Việt Nam, việc Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ hình thành các sưu tập tư nhân, đặc biệt là việc thành lập các bảo tàng tư nhân cũng có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ thông qua đó, tạo điều kiện cho các lực lượng ngoài công lập cùng với Nhà nước chung lo cho việc bảo tồn DSVH dân tộc và quan trọng hơn nữa là tạo điều kiện cho cộng đồng được tiếp cận một cách rộng rãi và hưởng thụ giá trị của các di sản, trong đó có di sản cổ vật qua các bộ sưu tập do tư nhân là chủ sở hữu. Ngoài ra, việc làm trên còn góp phần phát triển hệ thống bảo tàng Việt Nam với một loại bảo tàng mới, đó là bảo tàng ngoài công lập.
Với việc xã hội hóa sưu tập cổ vật tư nhân thông qua việc hình thành các sưu tập và xây dựng các bảo tàng do tư nhân là chủ sở hữu cũng như việc nhiều bảo tàng nổi tiếng ở một số quốc gia trên thế giới đã được ra đời từ chính các sưu tập cổ vật tư nhân do các nhà sưu tập hiến tặng từ cách đây vài thế kỷ, có thể coi việc xã hội hóa sưu tập tư nhân là một xu thế phát triển của sự nghiệp bảo tàng trên thế giới. Ở Việt Nam, việc đó chỉ mới bắt đầu nở rộ từ sau khi Luật DSVH được ban hành (2002). Riệng TP HCM, sự ra đời 2 bảo tàng tư nhân và thành lập Hội Cổ vật TP HCM để góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị DSVH tuy có muộn so với Hà Nội và một số nơi khác, song, cũng đã có được những kết quả đáng khích lệ. Điều đó góp phần khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc xã hội hóa hoạt động bảo tàng, trong đó có việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tàng tư nhân và các sưu tập tư nhân là đúng đắn và cần thiết.
3. Như đã đề cập ở phần trên, các DSVH, trong đó có di sản cổ vật là nguồn tài sản quý giá của dân tộc ta và các di sản cổ vật trong các sưu tập tư nhân ở Việt Nam nói chung, TP HCM nói riêng tuy thuộc sở hữu của các cá nhân, nhưng cũng là một bộ phận của kho tàng DSVH nước nhà, do đó, việc tìm ra những giải pháp phù hợp và khả thi để có thể khai thác tốt nguồn tài sản đó là một việc làm cần thiết. Trách nhiệm đối với công việc quan trọng trên, theo tôi, thuộc về nhiều phía, trong bài viết này, tôi đề cập đến trách nhiệm của các nhà sưu tập, của Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM và của các bảo tàng trực thuộc Sở.
3.1. Đối với các nhà sưu tập
3.1.1. Tôi cho rằng, để khai thác các sưu tập cổ vật tư nhân có hiệu quả, vai trò của các nhà sưu tập rất quan trọng. Song, nên hiểu thế nào về khái niệm trên?
Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2005: “khai thác là phát hiện và sử dụng những cái có ích còn ẩn giấu hoặc chưa được tận dụng” [Viện Ngôn ngữ học 2005: tr.490] thì khai thác các di sản cổ vật trong các sưu tập tư nhân là việc phát hiện và sử dụng những giá trị còn tiềm ẩn trong di sản hoặc những giá trị đã được phát hiện nhưng chưa được tận dụng hết để phục vụ cho xã hội, cho cộng đồng. Hay nói cách khác, khai thác các di sản cổ vật là việc phát hiện và sử dụng những giá trị tốt đẹp còn tiềm ẩn hoặc chưa được tận dụng với mọi khả năng có thể để những giá trị đó lan tỏa trong xã hội, trong cộng đồng. Để đạt được kết quả tốt trong hai công việc trên, trước hết, đòi hỏi sự nỗ lực cao của bản thân các nhà sưu tập, bởi việc phát hiện và sử dụng kết quả nghiên cứu vào việc phát huy giá trị di sản cổ vật là hoàn toàn không dễ dàng. Tuy vậy, các nhà sưu tập là chủ sở hữu của các di sản cần cố gắng làm công việc đó, cụ thể là nên dành thời gian để nghiên cứu các di sản trong sưu tập của mình để hiểu sâu về chúng. Khi đã nghiên cứu sâu về di sản, nhà sưu tập sẽ phát hiện được những giá trị tốt đẹp của chúng và tôi tin rằng, khi đó, nhà sưu tập sẽ càng yêu, càng quý cổ vật của mình hơn. Mặt khác, sự trải nghiệm trong quá trình nghiên cứu như vậy còn giúp nhà sưu tập nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu cổ vật nói riêng. Điều quan trọng cần lưu ý là, các nhà sưu tập nên xuất bản để công bố rộng rãi kết quả nghiên cứu về các di sản cổ vật mà mình đang sở hữu. Nếu nhà sưu tập không thể làm công việc đó một cách độc lập thì có thể phối hợp với một chuyên gia về lĩnh vực liên quan đến sưu tập của mình hay cùng với các nhà sưu tập khác thực hiện công việc trên. Thực tế của những năm qua cho thấy, cũng đã có một số nhà sưu tập ở TP HCM xuất bản sách theo cách đó. Năm 1996, nhà sưu tập Vũ Kim Lộc đã phối hợp với giáo sư khảo cổ học Lê Xuân Diệm nghiên cứu và xuất bản cuốn: Cổ vật Chăm Pa, trong đó giới thiệu sưu tập cổ vật chất liệu vàng, bạc,… thuộc văn hóa Chăm Pa, có niên đại từ thế kỷ II đến thế kỷ XVII và vào năm 2006, nhà sưu tập này lại tự mình nghiên cứu và phát hành cuốn Cổ vật huyền bí để giới thiệu sưu tập cổ vật liên quan đến việc thờ cúng của người Chăm. Cùng vào năm 2006, nhà sưu tập Phạm Hy Tùng đã cho ra mắt độc giả ấn phẩm Cổ vật gốm sứ Việt Nam đặt làm tại Trung Hoa và đã đạt giải thưởng Sách hay Việt Nam; Năm 2010, sau khi phối hợp với Bảo tàng Cần Thơ trưng bày chuyên đề: “Cổ vật, di vật Việt Nam qua tiến trình giao lưu văn hóa” giới thiệu trên 700 cổ vật của 60 nhà sưu tập trên phạm vi cả nước, nhà sưu tập Lưu Quốc Bình và nhà sưu tập Nguyễn Anh Tuấn với vai trò đồng chủ biên đã xuất bản cuốn sách với tên gọi như tên chuyên đề trưng bày. Năm 2017, với sự phối hợp của nhiều nhà sưu tập cổ vật từ các địa phương khác nhau, nhà sưu tập Lê Quang Hào (chủ biên) đã xuất bản ấn phẩm Nét đẹp thời gian giới thiệu các cổ vật đa chất liệu có niên đại từ trước công nguyên đến giữa thế kỷ 20, đặc biệt, trong đó có các sưu tập cổ vật thuộc Văn hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo, Đại Việt, v.v.
Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của các nhà sưu tập cũng có thể “thông báo” theo hình thức đăng tải trong tập san Cổ ngoạn của Hội Cổ vật TP HCM, Tạp chí Thế giới di sản của Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, Tạp chí Di sản văn hóa của Cục DSVH, tạp chí Khảo cổ học của Viện Khảo cổ học, tạp chí Cổ vật tinh hoa của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, tạp chí Văn hóa Phật giáo Việt Nam của Ban Văn hóa Trung ương - Giáo hội Phật giáo Việt Nam, v.v.
3.1.2. Tôi được biết, hiện nay đa số các nhà sưu tập tư nhân chưa muốn đăng ký cổ vật vì họ sợ khó thực hiện quyền sở hữu cũng như mua bán cổ vật khi cần thiết. Thực ra, theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 23 và 25 trong Nghị định số 92/2002/NĐ - CP của Chính phủ ngày 11 tháng 11 năm 2002 và mục 22 trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009), nếu các nhà sưu tập đăng ký cổ vật thì sẽ được nhiều cái lợi như: được thừa nhận sự tồn tại của sưu tập cổ vật và chủ sở hữu của sưu tập đó; được hướng dẫn nghiệp vụ, tạo điều kiện bảo vệ và phát huy giá trị cổ vật; được hỗ trợ về thủ tục khi muốn đem cổ vật đi triển lãm ở nước ngoài; được mua bán, trao đổi (khi cần). Đặc biệt, trong trường hợp cổ vật bị thất lạc hoặc mất cắp, chủ sở hữu sẽ được các cơ quan chức năng hỗ trợ tìm kiếm. Mặt khác, việc cổ vật được đăng ký sẽ góp phần khẳng định tính khoa học và tính pháp lý của sưu tập, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc khai thác và đưa các giá trị của những di sản cổ vật trong sưu tập tư nhân đến với cộng đồng. Theo tôi, các nhà sưu tập cứ yên tâm là, sau khi đăng ký, họ vẫn là chủ sở hữu của cổ vật đó chứ không bị tịch thu hoặc “làm khó” như nhiều người lo sợ. Sở dĩ Nhà nước khuyến khích đăng ký cổ vật là để nắm được số lượng và giá trị của những cổ vật đang tồn tại trong nhân dân, phục vụ cho việc quản lý nhà nước đối với loại di sản này. Với lý do đó, mong rằng, các nhà sưu tập cổ vật nên tích cực hưởng ứng chủ trương của Nhà nước về vấn đề trên.
3.1.3. Trong Điều 14, khoản 4 của Chương II – Luật DSVH đã quy định nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu DSVH phải “Tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tham quan, du lịch, nghiên cứu di sản văn hóa”. Như vậy, để đáp ứng được điều đó, ngoài việc các nhà sưu tập tự nghiên cứu hoặc phối hợp nghiên cứu các di sản trong sưu tập của mình, theo quy định, các nhà sưu tập cũng cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân nghiên cứu các di sản đó. Tôi cho rằng, đó là việc làm cần thiết và hữu ích đối với việc khai thác di sản cổ vật của nhà sưu tập, bởi hơn ai hết, các nhà sưu tập là những người muốn biết rõ về các di sản trong sưu tập của mình, nếu có tổ chức hoặc cá nhân nào thực hiện công việc trên thì sẽ rất có lợi cho nhà sưu tập vì nhờ vậy, nhà sưu tập sẽ càng hiểu rõ hơn giá trị của những di sản mà họ đang sở hữu và đó cũng là điều quan trọng đối với việc khai thác di sản cổ vật.
3.1.4. Để sử dụng các sưu tập cổ vật cùng với những kết quả có được từ quá trình khai thác di sản của mình, có một việc làm quan trọng và có hiệu quả cao rất cần cho các nhà sưu tập tư nhân, đó là việc sớm đưa các cổ vật “ra mắt” công chúng, bởi chỉ khi nào công chúng được tiếp cận với các di sản đó, hiểu được giá trị của chúng thì khi đó, các giá trị của di sản mới thực sự thâm nhập vào cuộc sống. Theo tôi, có 3 cách thức sau có thể thực hiện điều đó:
Một là, Tổ chức trưng bày tại gia dưới hình thức Nhà trưng bày cổ vật hoặc tên gọi khác phù hợp hơn.
Hai là, Xây dựng bảo tàng để có điều kiện trưng bày, giới thiệu sưu tập một cách đầy đủ và bài bản hơn với việc đặt tên theo đúng quy định trong Điều 3 của “Quy chế tổ chức và hoạt động của bảo tàng tư nhân” do Bộ Văn hóa - Thể thao ban hành tháng 3 năm 2004, cụ thể là, có thể đặt tên theo phạm vi và nội dung hoạt động của bảo tàng; theo tên sưu tập chính của bảo tàng; theo tên chủ sở hữu bảo tàng.
Ba là, Phối hợp với các bảo tàng nhà nước trưng bày cổ vật theo các chuyên đề phù hợp với sưu tập của mình.
Song, theo tôi, kể cả khi đã có phòng trưng bày tại gia hay đã có bảo tàng của riêng mình, khi có điều kiện, các nhà sưu tập cổ vật vẫn nên tiếp tục phối hợp với các bảo tàng nhà nước trưng bày cổ vật theo các chuyên đề phù hợp, bởi thực tế những năm qua đã chứng minh, việc hợp tác trên là cần thiết và hữu ích cho cả bảo tàng và cả các nhà sưu tập trong việc nâng cao chất lượng của chuyên đề trưng bày và hiệu quả của việc phục vụ công chúng.Tuy nhiên, trong việc phối hợp trên, các nhà sưu tập nên tham gia một cách chủ động hơn nữa, nhất là trong việc trao đổi, bàn bạc về nội dung giới thiệu các cổ vật của mình cho khách tham quan, về cách thức trưng bày chứ không nên chỉ dừng ở việc cho bảo tàng mượn cổ vật.
3.2. Đối với Sở Văn hóa - Thể thao TP Hồ Chí Minh
Từ thực tế của Bảo tàng lịch sử Việt Nam - TP HCM (tên gọi vào thời điểm 1998), có thể khẳng định rằng, cách đây gần 20 năm, sự hợp tác giữa bảo tàng với các nhà sưu tập cổ vật tư nhân trên địa bàn thành phố trong việc trưng bày chuyên đề đã được lãnh đạo Sở Văn hóa Thông tin (nay là Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM) quan tâm, hỗ trợ. Đó là thuận lợi lớn đối với bảo tàng trong công việc trên, bởi lúc đó, Luật DSVH chưa được ban hành (Luật DSVH được ban hành vào năm 2002), đồng nghĩa với việc sở hữu tư nhân đối với cổ vật chưa được công nhận. Nếu lúc bấy giờ, lãnh đạo Sở (dưới thời Giám đốc Lê Hồng Liêm) không cho phép thì Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - TP HCM không thể làm được công việc hữu ích đó. Và, điều đáng mừng nữa là từ đó đến nay, việc làm trên của các bảo tàng trực thuộc Sở vẫn tiếp tục được lãnh đạo Sở ủng hộ, chỉ đạo và tạo điều kiện thực hiện.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc phối hợp trưng bày và phục vụ công chúng như trình bày ở phần trên, việc khai thác các sưu tập cổ vật trong các bảo tàng trực thuộc Sở cũng như trong các sưu tập tư nhân là việc cần lưu tâm. Riêng về vấn đề khai thác các sưu tập cổ vật tư nhân, tôi có vài suy nghĩ xin được nêu lên để Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM tham khảo:
3.2.1. Sở nên tổ chức điều tra, thống kê, xác định giá trị và phân loại các sưu tập tư nhân để bước đầu nắm được số lượng và chất lượng của các di sản cổ vật không thuộc sở hữu nhà nước, bởi theo tôi, muốn khai thác các sưu tập cổ vật tư nhân có hiệu quả thì cả cơ quan quản lý nhà nước về cổ vật và cả các nhà sưu tập cần phải biết và phải hiểu rõ thực trạng của các sưu tập đó. Để xác định được giá trị của các sưu tập tư nhân nên có sự tham gia của Hội đồng thẩm định với sự huy động rộng rãi “chất xám” của các các chuyên gia và các nhà khoa học, trong đó nên có cả những nhà sưu tập nếu xét thấy họ có trình độ và có bề dầy kinh nghiệm về các lĩnh vực liên quan. Việc làm trên vừa góp phần xác định được giá trị của từng sưu tập, vừa tạo cơ sở cho các nhà sưu tập “công khai hóa”các sưu tập của mình và đồng thời, qua đó hiểu được những khó khăn, vướng mắc của họ để kịp thời giải quyết nhằm tạo điều kiện để chủ sở hữu các sưu tập tư nhân có thể khai thác hoặc tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu cũng như các cơ quan hữu quan làm công việc trên nhằm phát huy một cách hữu hiệu nhất các di sản cổ vật mà họ đang sở hữu.
3.2.2. Sở nên chỉ đạo và tạo điều kiện cho các phòng chức năng và các bảo tàng trực thuộc tăng cường hơn nữa mối quan hệ với các nhà sưu tập tư nhân trên địa bàn thành phố, nhất là các hội viên của Hội Cổ vật TP HCM, qua đó, giúp họ hiểu rõ hơn về cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với các bảo tàng và sưu tập tư nhân, vì theo tôi, nhiều nhà sưu tập do chưa hiểu rõ cơ chế, chính sách của Nhà nước về vấn đề họ đang quan tâm nên vẫn còn có sự e ngại chưa muốn đăng ký và “công khai hóa” sưu tập của mình, điều đó không những ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước đối với DSVH mà còn ảnh hưởng đến việc khai thác giá trị của nguồn di sản đang được các tư nhân gìn giữ. Đồng thời, nên kịp thời động viên, khen thưởng các tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động khai thác và phát huy giá trị di sản cổ vật trên địa bàn thành phố.
3.2.3. Để các DSVH (trong đó có các di sản cổ vật của các chủ sở hữu tư nhân) được công chúng biết đến, ngoài cơ quan chủ quản thuộc ngành Văn hóa, rất cần đến vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng. Việc “luật hóa” vai trò đó trong Điều 11 của Luật DSVH thông qua quy định: “Các cơ quan văn hoá, thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài các giá trị di sản văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá trong nhân dân” sẽ tạo thuận lợi cho các cơ quan hữu quan trong công việc này, vì vậy, Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM nên phối hợp với các cơ quan truyền thông (đài truyền hình, đài tiếng nói nhân dân, báo chí,…) tổ chức các chương trình quảng bá giá trị của các di sản cổ vật, trong đó có đề cập đến các sưu tập cổ vật tư nhân, qua đó góp phần giáo dục, nâng cao ý thức trân trọng và bảo vệ DSVH nói chung, di sản cổ vật nói riêng cho công chúng, nhất là thế hệ trẻ. Lý tưởng nhất là làm sao để các cơ quan truyền thông có một kênh riêng thực hiện công việc trên. Bên cạnh đó, cần tạo được sự gắn kết giữa các cơ quan du lịch và các bảo tàng ngoài công lập cũng như các nhà sưu tập tư nhân để tạo điều kiện cho lực lượng này phát triển và tham gia đóng góp nhiều hơn cho việc phát huy giá trị DSVH, lại tạo được sự đa dạng các sản phẩm văn hóa - du lịch. Nếu được phát triển đúng hướng, đây sẽ là một một loại hình văn hóa – du lịch rất có tiềm năng của TP HCM trong tương lai.
3.2.4. Sở nên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các bảo tàng trực thuộc thường xuyên phối hợp với các nhà sưu tập (có cổ vật phù hợp với bảo tàng) tổ chức trưng bày tại bảo tàng cũng như những nơi có nhu cầu.
Có thể nói, đây là cách thức tốt nhất trong việc các bảo tàng nhà nước hỗ trợ các nhà sưu tập “đưa” các di sản cổ vật đến với công chúng, hay nói cách khác, các bảo tàng nhà nước đã tạo điều kiện cho các nhà sưu tập sử dụng một cách hữu hiệu nhất các di sản mà họ sở hữu vì mục đích phục vụ cộng đồng. Tuy nhiên, ở TP HCM tính đến thời điểm hiện tại, mới chỉ có 2 cá nhân có điều kiện xây dựng bảo tàng để giới thiệu các sưu tập của mình, còn hàng trăm sưu tập vẫn chỉ được lưu giữ “tại gia” theo đúng nghĩa đen của từ này.
Trong lúc các nhà sưu tập chưa có điều kiện thành lập bảo tàng và Hội Cổ vật TP HCM chưa có nơi trưng bày định kỳ các chuyên đề về cổ vật để luân phiên giới thiệu các di sản của hội viên, theo tôi, cơ quan quản lý nhà nước về di sản văn hóa (Sở Văn hóa – Thể thao TP HCM) và các bảo tàng có chức năng sưu tầm và gìn giữ cổ vật vẫn cần tiếp tục tạo điều kiện cho các nhà sưu tập giới thiệu cổ vật thông qua việc phối hợp trưng bày. Tuy nhiên, công việc đó nên được tiến hành một cách thường xuyên hơn nữa vì thực tế cho thấy, với cả trăm nhà sưu tập mà chỉ có một số ít bảo tàng thực hiện công việc đó và thường thì một năm chỉ có 2 lần, mỗi lần trung bình trên, dưới 10 nhà sưu tập tham gia. Công bằng mà nói, trong những năm qua, các bảo tàng đã rất cố gắng làm công việc trên, song, “lực bất tòng tâm” bởi do hạn chế về diện tích trưng bày và kinh phí nên công việc trên không thể tiến hành một cách thường xuyên hơn và điều đó cũng có nghĩa là còn một số lượng rất lớn các di sản cổ vật của tư nhân ở TP HCM vẫn chưa có điều kiện “đến” với công chúng.
Để đáp ứng được nhu cầu của các nhà sưu tập và để thể hiện sự quan tâm của Sở đối với việc xã hội hóa lĩnh vực hoạt động này, không phải chỉ các bảo tàng mà đôi khi Sở cũng nên chủ động phối hợp với một bảo tàng hoặc một cơ quan nào đó (tùy tính chất của từng đợt) tổ chức các cuộc trưng bày cổ vật tư nhân hay cổ vật của bảo tàng công lập cùng cổ vật của tư nhân như một số nơi đã làm. Có thể nêu lên một số cuộc trưng bày tiêu biểu trong vài năm qua để thấy được sự lan tỏa của cách làm này. Chẳng hạn, vào tháng 10/2014, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương đã tổ chức trưng bày chuyên đề: “Cổ vật tỉnh Đông và các sưu tập cổ vật tư nhân tiêu biểu” với hơn 1.000 cổ vật đa dạng về loại hình, phong phú về chất liệu thuộc nhiều thời kỳ lịch sử được lựa chọn từ các bộ sưu tập cổ vật của Bảo tàng tỉnh và sự đóng góp của gần 40 nhà sưu tập tư nhân tiêu biểu đến từ nhiều tỉnh, thành phố như Hải Dương, Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phú Thọ, TP HCM,… Đó không chỉ là cơ hội để công chúng tiếp cận với các cổ vật của tư nhân, là dịp để các nhà sưu tập cổ vật chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, mà còn là hoạt động rất có ý nghĩa, thể hiện tinh thần hợp tác giữa các nhà sưu tập với cơ quan nhà nước trong việc xã hội hóa hoạt động bảo tàng. Hoặc, mới cách đây hơn 3 tháng (vào dịp 30/4/2017), Sở Văn hóa, Thể thao Đà Nẵng và Bảo tàng Đà Nẵng đã tổ chức triển lãm lần thứ 2 chuyên đề: “Sưu tập cổ vật người Đà Nẵng” (lần I tổ chức vào tháng 11/2012) giới thiệu trên 60 cổ vật tiêu biểu với những loại hình và chất liệu khác nhau, có niên đại từ thời văn hóa Sa Huỳnh cho đến thời Nguyễn. Cuộc triển lãm đã quy tụ được nhiều nhà sưu tập cổ vật đến từ Hội sưu tập cổ vật Đà Nẵng, Hội Di sản văn hóa sông Hàn, Hội Di sản Quảng Ngãi và các nhà sưu tập cổ vật tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, v.v. Và, để việc phát huy giá trị các di sản cổ vật thuộc sở hữu tư nhân trên địa bàn thành phố được đều đặn và thường xuyên hơn nữa, Sở nên chủ động tạo điều kiện và giao nhiệm vụ cho các bảo tàng thích hợp hỗ trợ các nhà sưu tập luân phiên giới thiệu các sưu tập cổ vật của từng cá nhân hoặc tập hợp các sưu tập của nhiều cá nhân theo các chuyên đề phù hợp định kỳ 3 tháng 1 lần tại Nhà triển lãm trong khuôn viên của Bảo tàng TP HCM, hay một phòng nào đó trong tòa nhà Bảo tàng Mỹ thuật TP HCM tiếp nhận từ Trung tâm thông tin triển lãm thành phố hoặc một địa điểm nào đó.
Tôi được biết, trong Mục d, Phần III. “Tổ chức thực hiện” của Chỉ thị số 84/2008/CT – BVHTTDL của Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch “Về tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thức đẩy sự ra đời, phát triển của các bảo tàng và sưu tập tư nhân” đã xác định trách nhiệm của các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch như sau: “Chỉ đạo và tạo điều kiện cho bảo tàng trực thuộc Sở thường xuyên phối hợp tổ chức trưng bày tại bảo tàng các sưu tập của bảo tàng và sưu tập tư nhân. Trong trường hợp các bảo tàng trực thuộc Sở được đầu tư xây dựng mới hoặc chỉnh lý, nâng cấp nội dung trưng bày, cần chỉ đạo việc thiết kế để có một không gian hợp lý dành cho trưng bày chuyên đề ngắn hạn và triển lãm, đảm bảo cho bảo tàng có điều kiện sẵn sàng tiếp nhận, phối hợp tổ chức trưng bày sưu tập của các bảo tàng và sưu tập tư nhân trên địa bàn”. Như vậy là, Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch đã cho phép các Sở Văn hóa, Thể thao, trong đó có Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM chỉ đạo các bảo tàng thiết kế một không gian hợp lý dành cho việc trưng bày sưu tập của các bảo tàng và sưu tập tư nhân trên địa bàn khi các bảo tàng được đầu tư xây dựng mới hoặc chỉnh lý, nâng cấp nội dung trưng bày. Vấn đề quan trọng là Sở có quyết tâm thực hiện việc đó hay không?
3.2.5. Sở nên tổ chức các lớp tập huấn nhằm trang bị những kiến thức cần thiết không những liên quan đến vấn đề khai thác di sản cổ vật mà còn cả những kiến thức cần thiết về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của chúng cho các nhà sưu tập và cả những người yêu mến cổ vật, bởi việc bảo tồn và khai thác để phát huy giá trị di sản văn hóa (trong đó có di sản cổ vật tư nhân) luôn gắn kết và hỗ trợ nhau, hay nói cách khác, đó là hai mặt của một vấn đề.
3.3. Đối với các bảo tàng trực thuộc Sở Văn hóa - Thể thao TP HCM
3.3.1. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và điều kiện thực tế của mình, các bảo tàng nên tăng cường hơn nữa việc hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là những kinh nghiệm thực tế trong việc khai thác di sản cổ vật để các nhà sưu tập tư nhân trên địa bàn thành phố (có đối tượng, nội dung hoạt động phù hợp với đối tượng, nội dung hoạt động của bảo tàng) có thể khai thác tốt các di sản cổ vật mà họ đang gìn giữ, góp phần thiết thực cho việc phát huy giá trị của sưu tập.
3.3.2. Hàng năm, các bảo tàng nên chủ động phối hợp với Hội cổ vật TP HCM và cả các nhà sưu tập tư nhân có tiềm năng về cổ vật (tuy chưa phải là Hội viên của tổ chức trên) để xây dựng kế hoạch hợp tác tổ chức trưng bày các sưu tập có nội dung phù hợp với bảo tàng mình, đồng thời, triển khai theo đúng kế hoạch đã đề ra. Nếu thực hiện được như vậy thì sẽ tạo được sự chủ động cho cả bảo tàng, cho Hội cổ vật TP HCM, cho cả các nhà sưu tập và như vậy, công việc trên sẽ đạt kết quả mỹ mãn hơn nữa. Và, theo tôi, trong thời gian tới, các bảo tàng nên chủ động “nâng cấp” hoạt động trên, cụ thể là nên động viên và tạo điều kiện cho các nhà sưu tập tham gia với tư cách là một thành viên tổ chức cuộc trưng bày chứ không phải chỉ với tư cách là chủ sở hữu cổ vật cho bảo tàng mượn để trưng bày. Nếu có sự “nâng cấp” như vậy sẽ giúp các nhà sưu tập có thêm những hiểu biết không chỉ về di sản của mình, mà cả di sản của bảo tàng cùng tham gia trưng bày, đồng thời, cũng có được những kinh nghiệm trong công tác trưng bày bảo tàng. Tôi cho rằng, những hiểu biết và những kinh nghiệm đó sẽ giúp ích cho các nhà sưu tập cổ vật tư nhân khi họ là thành viên của “Đại gia đình bảo tàng Việt Nam”.
3.3.3. Để việc khai thác các di sản cổ vật trong các sưu tập tư nhân mà cụ thể là, để việc phát hiện và sử dụng những giá trị tốt đẹp còn tiềm ẩn trong di sản đạt được hiệu quả như mong muốn và để những giá trị đó thấm sâu và lan tỏa trong cộng đồng xã hội thì ngoài sự nỗ lực của bản thân các nhà sưu tập, rất cần sự hỗ trợ của các bảo tàng nhà nước thông qua việc phối hợp nghiên cứu để tìm ra những giá trị tiềm ẩn trong các cổ vật và nếu các nhà sưu tập có điều kiện, các bảo tàng nên giúp họ xuất bản thành sách để quảng bá cho sưu tập. Theo tôi, các bảo tàng vừa có nhân lực, vừa có kinh nghiệm trong công việc trên, do vậy, nếu được sự trợ giúp của các bảo tàng, các nhà sưu tập sẽ vững tâm hơn khi thực hiện công việc đó.
Cuối cùng, tựu trung lại, có thể nói, các sưu tập cổ vật của Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân đều là nguồn tài sản văn hóa quý giá của dân tộc ta. Chính vì vậy, việc khai thác để phát hiện các giá trị tiềm tàng của chúng và sử dụng những kết quả của công việc trên để phục vụ cho sự phát triển của đất nước là việc rất cần làm. Riêng đối với sở hữu tư nhân, tôi cho rằng, nếu vai trò của các DSVH (trong đó có di sản cổ vật) thuộc loại sở hữu trên được nhận thức một cách đúng đắn, được tạo điều kiện khai thác một cách thuận lợi thì nguồn DSVH đó sẽ rất hữu ích đối với xã hội, nhất là trong công tác giáo dục truyền thống, nghiên cứu khoa học, giao lưu văn hóa, v.v. đồng thời làm phong phú, đa dạng thêm kho tàng DSVH nước nhà. Tôi cũng tin rằng, nếu chúng ta đến với nhà sưu tập tư nhân với sự tôn trọng, chu đáo và cảm thông thì các nhà sưu tập sẽ sẵn sàng hợp tác với chúng ta môt cách dài lâu và có hiệu quả nhằm thực hiện mục đích chung cao cả là cùng chung lo cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch, 2008, Chỉ thị số 84/2008/CT – BVHTTDL “Về tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thức đẩy sự ra đời, phát triển của các bảo tàng và sưu tập tư nhân”.
2. Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch, 2004, Quy chế tổ chức và hoạt động của bảo tàng tư nhân.
3. Gary Edson và David Dean 2001, Cẩm nang bảo tàng (bản dịch của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam), Hà Nội.
4. Luật Di sản văn hóa (2002).
5. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (năm 2009).
6. Nghị định số 92/2002/NĐ - CP của Chính phủ ngày 11 tháng 11 năm 2002 “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa”.
7. Viện Ngôn ngữ học, 2005, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
8. Vương Hoàng Quận (cb), 2001, Cơ sở bảo tàng học Trung Quốc (bản dịch của Cục Di sản Văn hóa) Hà Nội, 2008.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”