- Cổ vật và những vấn đề chung
Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Hàng ngàn năm ấy là cả một bề dày lịch sử đầy vẻ vang chói lọi và những lúc thăng trầm. Tổ tiên đã để lại cho các thế hệ chúng ta ngày nay những di sản vô cùng quý báu, đó là những di sản vật thể hay phi vật thể hoặc các di sản tự nhiên hùng vĩ, hấp dẫn nhân loại. Không những vậy, các di sản ấy ngày càng có vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, khẳng định sự sáng tạo trong truyền thống, ghi dấu nền văn minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, đấu tranh gìn giữ và bảo vệ tổ quốc của các thế hệ Việt Nam trước đây. Không những vậy, di sản còn góp phần quan trọng trong việc khích lệ tinh thần và là niềm tự hào của các thế hệ cùng chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước ngày càng tươi đẹp, vững chắc. Chính vì thế, trong lời mở đầu của Luật Di sản văn hóa 2001 cho rằng: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [Luật Di sản văn hóa 2001]. Trong các loại hình di sản quý giá, rất nhiều người trên thế giới đặc biệt quan tâm đến loại hình cổ vật bởi nó có nhiều đặc trưng khá đặc biệt. Cổ vật là những vật thật, có thể cầm nắm, di chuyển, cân đo đong đếm và có giá trị trong việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa của một thời đại của một dân tộc hay riêng cá nhân nào đó tạo ra chúng. Cổ vật phản ánh lịch sử, cuộc sống, văn hóa của nhân loại, hay một địa phương, tộc người. Văn minh nhân loại, trình độ kỹ thuật cũng có thể phản ánh qua cổ vật. Cổ vật còn có giá trị kinh tế rất cao, thu hút nhiều người sưu tầm, nghiên cứu, buôn bán và cả trộm cắp cổ cổ vật ở nhiều nơi trên thế giới.
Có nhiều khái niệm hay quan niệm khác nhau về cổ vật. Trên thế giới, cổ vật được con người nhận biết khá sớm và thường tiến hành các biện pháp kể cả khoa học hay không khoa học thậm chí trộm cắp hay lợi dụng chiến tranh, các cuộc tranh chấp để có được việc sở hữu những món đồ cổ quý giá. Họ cho rằng, những đồ vật xưa, hình dáng lạ lẫm, thậm chí thấy hình dáng lạ kỳ, “kỳ cục” từ những bộ tộc, cộng đồng nào đó có sự khác biệt văn hóa với mình tạo nên cảm giác thích thú. Cổ vật còn là những đồ lưu niệm, kỷ niệm hay các đồ vật tạo ra bởi nhiều chất liệu khác nhau như gỗ, gốm, đá, kim loại, giấy, vải, da, xương, sừng,… miễn là thỏa mãn được tính hiếu kỳ của mình. Hàng vạn cổ vật từ châu Âu, châu Á, đặc biệt các loại cổ vật từ văn hóa Hy-La cổ đại rất được ưa chuộng. Nhiều đồ tùy táng quý giá trong các kim tự tháp của người Ai Cập cổ đại bên cạnh các Paraon đã bị khai quật, đào bới để lấy cổ vật vì đem lại nguồn lợi lớn siêu lớn cho những kẻ trộm, người buôn bán cổ vật. Các cổ vật thu được có thể đem trưng bày, trao đổi, qua nhiều thế kỷ đã hình hành các chợ buôn bán cổ vật rất sớm ở một số nơi trên thế giới hay các trung tâm đấu giá cổ vật, đặc biệt là vùng Địa Trung Hải. Các nước trên thế cũng giống như Việt Nam, họ cho rằng, những đồ cổ, đồ xưa do con người hoặc thiên nhiên tạo ra đều có giá trị về lịch sử, văn hóa và khoa học hay chứng minh cho sự hình thành và phát triển hoặc thay đổi của tự nhiên, môi trường sống của con người.
Ở Việt Nam, từ xưa cổ vật hay những cổ tích khác đều được cha ông chúng ta gìn giữ, bảo quản bằng nhiều hình thức khác nhau. Mặc dù các bảo tàng nước ta ra đời khá muộn so với thế giới nhưng các cổ vật thường được gắn với các di tích như đình, chùa, miếu mạo, lăng tẩm hay được cất giữ thật kỹ trong nhà, đặt trang trọng trên bàn thờ tổ tiên như là đồ quý hiếm, đồ gia bảo,… Những người sưu tầm, lưu giữ cổ vật được coi là những người có hiểu biết, có tri thức về lịch sử tự nhiên và xã hội. Họ luôn coi chơi cổ vật là một thứ chơi văn hóa, tao nhã. Mỗi khi rảnh rỗi hay sau lúc làm lụng mệt nhọc, họ lấy cổ vật ra xem xét, đánh giá, tìm thú vui trong mỗi món đồ. Thậm chí, trong một địa phương nhưng có nơi hình thành nhóm các nhà sưu tập, trong lúc đàm trà, họ đưa những cổ vật thường ra phân tích, mổ xẻ chúng để tìm ra những nét đẹp, giá trị của chúng. Các hình họa trên cổ vật gợi ra cho họ những nhớ về những tích xưa, những trận đánh oai hùng trong lịch sử hay phong cảnh thiên nhiên tuyệt vời thông qua bàn tay khéo léo của các họa sĩ, nghệ nhân tạo tác ra chúng. Những câu thơ, áng văn bất hủ được viết trên gốm sứ, tạc trên bia đá là những thông điệp của thế hệ trước trao truyền gửi gắm cho các thế hệ sau. Mỗi món đồ họ sưu tầm được là những câu chuyện thú vị về quá trình sưu tầm, mua bán, những gian truân, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng lại hiện ra. Những hình dáng, chất liệu, hoa văn, kỹ thuật sản xuất và nhiều giá trị khác về lịch sử, văn hóa, mỹ thuật,… hiện ra lung linh trước mắt làm say đắm lòng người.
Các nhà sưu tập cổ vật có nhiều cách thức chơi, sưu tầm và gìn giữ cổ vật. Tùy theo hoàn cảnh, tùy theo sở thích mà họ mà họ lựa chọn cho mình một hoặc vài hay nhiều loại hình cổ vật để thỏa mãn việc thưởng lãm của mình. Qua thời gian dài, liên tục, bền bỉ và không ngừng nâng cao khả năng, nhận thức cổ vật mà hình thành nên các sưu tập cổ vật quý giá cho mình.
Ông Vương Hồng Sển (1902-1996) bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, là một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng. Ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật ở miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Trước khi qua đời, ông đã hiến tặng ngôi nhà cổ (Vân Đường Phủ) và toàn bộ bộ sưu tập cổ vật của mình cho Nhà nước với gần một ngàn món đồ quý hiếm chủ yếu là gốm sứ và số lượng lớn sách cổ, sách quý viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau[1]. Là người có kiến thức uyên thâm, thấu hiểu về cổ vật, đồng thời truyền đạt, chỉ bảo cho thế hệ sau chuyên về về kiến thức cổ vật, hiện có một số học trò cũng khá nổi tiếng, giỏi giang trong nghề sưu tầm và nghiên cứu cổ vật. Quan điểm của Vương Hồng Sển cho rằng cổ vật có thể chia thành một số hạng như sau: (a) Trân ngoạn[2] là những cổ vật rất quý, nó còn lành lặn và nguyên vẹn, không bị sứt mẻ, nứt, hay các tỳ vết và có giá trị rất nhiều. (b) Cổ ngoạn là đồ cổ hay đồ xưa có thể có ít nhiều tỳ vết hay không thực sự nguyên vẹn như đồ trân ngoạn, đôi khi chúng bị méo mó, rạn nứt, sứt mẻ do tự nhiên, con người vô ý tác động vào hay trong quá trình sản xuất tạo ra chúng. (c) Kỳ ngoạn là những món đồ xưa cũ, có đặc điểm khá thú vị là nhìn chúng lạ lẫm, có hình dáng kỳ quái không như những đồ vật bình thường cùng loại, những loại này thường kích thích sự tò mò, gây thú vị cho người thưởng lãm, từ đó chú tâm vào việc nghiên cứu nhiều vấn đề về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán hay kỹ thuật sản xuất của một cộng đồng cư dân nào đó thông qua loại hình hiện vật này. (d) Hảo ngoạn là những món đồ đẹp, tốt, có hình dáng, hoa văn cầu kỳ, tinh xảo, đôi khi chúng chưa phải là cổ vật (chưa đủ tuổi) nhưng có giá trị về văn hóa, mỹ thuật cao. (e) Những mảnh vỡ nhưng có niên đại cổ, lịch sử rõ ràng, đẹp, lạ mắt… thường giúp ích rất nhiều cho việc nghiên cứu các cổ vật khác cùng loại; chúng thường được các nhà khảo cổ học và bảo tàng học đánh giá như là các loại tiêu bản dùng để so sánh. Tuy nhiên, loại này đối với những người sưu tầm cổ vật thuần túy thì thường không chú ý sưu tầm, có khi gặp nhưng lại bỏ qua vì không đúng mục đích của họ [Vương Hồng Sển 1971: 15-17].
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, chúng ta đã có một số quy định mang tính pháp luật về quản lý, gìn giữ các di sản văn hóa của đất nước như Sắc lệnh 65/SL ngày 23/11/1945 của Chủ tịch nước về bảo tồn cổ tích trong toàn cõi Việt Nam; Nghị định số 159/TTg ngày 29/10/1957 về bảo tồn di tích; Pháp lệnh số 14/LCT/HĐNN về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh được thông qua ngày 31/03/1984;… Tuy nhiên, văn bản có giá trị và khá đầy đủ và hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay đó là Luật Di sản văn hóa. Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã thảo luận và thông qua Luật Di sản văn hóa. Đây là một công cụ pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người trong lĩnh vực di sản văn hóa. Luật Di sản văn hóa gồm 7 chương, 79 điều. Chương I quy định các điều khoản chung, chương VI quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm, chương VII quy định về các điều khoản thi hành, còn lại 4 chương của Luật là những quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa. Về cổ vật, Luật quy định:
* Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
* Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
* Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học. [Luật Di sản văn hóa 2001: Điều 4].
Như vậy, trong các khái niệm hay định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng, khi một hiện vật nào đó để trở thành, hay được xem là cổ vật thì phải hội tụ được những yếu tố nhất định như hiện vật ấy có giá trị gì tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học không? Và điều quan trọng là có đủ tuổi (mà tuổi của nó có từ một trăm năm trở lên) hay không?... Đó là những quy định trong văn bản pháp luật. Thế nhưng, bên ngoài, những người chơi, sưu tầm cổ vật, tùy theo mỗi người, mỗi suy nghĩ, quan niệm khác nhau, thậm chí hình thành những “trường phái” khác nhau về cổ vật. Từ xưa, nhiều người có quan niệm: “Nhất dáng, nhì da, tam toàn, tứ tuổi”; hay nói về gốm sứ cổ cũng có những tiêu chí nhất định để đánh giá về giá trị của một cổ vật như: “Nhất dáng, nhì da, tam hoa, tứ cốt”; “Thanh như thiên, Minh như kính, Bạc như chỉ, Thanh như khánh”;… Ngoài ra, còn có tiêu chí “độc” nữa, độc ở đây chỉ nghĩa là hiện vật “độc bản”, chỉ duy nhất một hiện vật mà thiên hạ không ai có… Không những vậy, cổ vật càng có giá trị khi chúng có lai lịch hay “tiểu sử” rõ ràng, nghĩa là rõ về nguồn gốc, xuất xứ, niên đại, kỹ thuật sản xuất, sự di chuyển hay được bảo quản kỹ lưỡng trong nhiều hoàn cảnh khó khăn phức tạp như chiến tranh, phá hoại từ tự nhiên hay con người: bão lụt, động đất, cháy, nổ, tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng, hay lưu bạt qua nhiều nơi… mà phải được kiểm chứng khoa học. Hơn nữa, những hiện vật ấy lại được coi là độc đáo nhiều mặt, được nghiên cứu nhiều, thậm chí được trưng bày, triển lãm nhiều lần, nhiều nơi trong và ngoài nước. Các loại cổ vật của vua quan từng sử dụng, hay của các danh nhân, nhà giàu đặt làm hoặc mua, tặng… thường có giá trị hay trị giá kinh tế cao hơn hẳn so với món cùng loại của dân chúng bình thường sử dụng. Đặc biệt đồ gốm đồ gốm cổ ở Trung Quốc và Việt Nam trước đây thường có 2 loại lò: lò quan và lò dân để sản xuất ra những sản phẩm có đẳng cấp khác nhau.
Về tiêu chí, trong dân dã thường xếp, phân loại và coi trọng về yếu tố giá trị, ví dụ tiêu chí “Nhất dáng, nhì da, tam hoa, tứ cốt” chẳng hạn, đây là tiêu chí áp dụng cho đồ gốm sứ, nhưng cũng có thể áp dụng cho nhiều loại hình cổ vật với các chất liệu khác nhau cũng phù hợp.
Về dáng, tiêu chí này thường được người sưu tầm hay nghiên cứu cổ vật đặt lên vị trí số 1 bởi vì, bất cứ món đồ nào, chất liệu gì về dáng dấp ban đầu người ta nhìn vào rất dễ nhận được cảm tình hay không cảm tình với chúng. Dáng còn khẳng định món đồ đó có đẹp, có giá trị thẩm mỹ cao hay chỉ là những món cổ bình thường.
Về da, được xếp thứ hai để nhà sưu tầm xem xét phần kỹ thuật, mỹ thuật tạo ra từ quá trình tạo tác. Da có hoàn hảo hay không, có dấu vết thời gian để lại trên hiện vật, ví dụ với hiện vật đá, lớp da do phong hóa từ đá dày hay mỏng còn phản ánh thông tin về thời gian tồn tại của chúng; đồ gốm ngoài men rạn (tự nhiên) còn có nhiều loại men rạn do kỹ thuật sản xuất để tạo ra sản phẩm tuyệt mỹ (rạn trong men);… thì chúng còn thể hiện lớp sơn, hay mạ bên ngoài của nhiều chất liệu khác; hay lớp “áo” của loại đất nung.
Về hoa văn (tam hoa), thực sự, nhiều món đồ là những bức họa tuyệt vời của các họa sĩ và thường có sự kết hợp với các nghệ nhân hay người thợ có tay nghề cao để tạo ra sản phẩm. Nhìn vào cổ vật dù chất liệu gì (gỗ, đá, gốm, xương, sừng, vải, giấy, kim loại,…) chúng ta thấy trước mặt là những bức tranh có nội dung về cảnh đẹp của thiên nhiên, có núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình, mặc dù thể hiện trên một hiện vật có khi rất nhỏ bé nhưng về bố cục, hoa văn, họa tiết, nét chạm khắc, nét vẽ, nét bút đậm nhạt (thư pháp) của từng con chữ trên món đồ và đặc biệt có nhiều hiện vật còn thể hiện màu sắc, không gian hợp lý và rất logic, hoàn hảo trong một tác phẩm mỹ thuật. Giá trị mỹ thuật của cổ vật được thể hiện thông qua các nội dung của họa tiết hoa văn trang trí, màu men, dòng chữ đề trên cổ vật,… tạo ra những nét đặc trưng riêng của từng thời đại khác nhau.
Về cốt, chỉ về thành phần, chất liệu để tạo nên một hiện vật là gì? Chúng có đặc trưng gì? Công dụng để làm được những loại sản phẩm gì phục vụ cho đời sống của cộng đồng dân cư thời trước?… Nếu là gốm thì chỉ các loại thành phần đất sét, cao lanh, bột đá, bã thực vật,… được hòa trộn với nhau theo tỷ lệ nhất định tùy theo mục đích sử dụng của sản phẩm sau khi tạo tác. Nếu là đồ gỗ, việc xem xét loại hay nhóm gỗ tạo ra hiện vật cũng khá quan trọng bởi chúng quyết định thời gian tồn tại của cổ vật. Hay các loại gỗ đặc trưng thường được ưa thích tạc tượng ở Việt Nam như gỗ mít, gỗ vàng tâm, gỗ gáo,… ngoài những tiêu chí được phân tích sơ bộ trên, còn nhiều tiêu chí khác cũng rất được quan tâm như toàn vẹn, không bị sứt mẻ.
Về tuổi cổ vật phải đủ như quy định, song càng cao càng tốt. Các nước trên thế giới cũng có những quy định về tuổi của cổ vật khác nhau: Ở Pháp, tuổi của cổ vật là 100 năm; Không cấm xuất khẩu đồ vật có dưới 100 tuổi; Các tác phẩm của nghệ sĩ sáng tạo lại quy định sau năm thứ 20 khi nghệ sĩ từ trần. Philipines quy định cổ vật là các tài sản văn hóa ít nhất 100 tuổi; Hoặc, tuổi có thể không cao lắm nhưng việc làm ra nó đã ngừng, và đang hiếm hoặc trở thành hiếm. Indonesia quy định các di tích văn hóa cần được bảo trợ có ít nhất 50 tuổi, có tầm quan trọng về lịch sử, khoa học hoặc văn hóa. Ai Cập quy định cổ vật có trên 100 tuổi. Ả rập Xê út quy định cổ vật do con người xây dựng, làm ra, sản xuất, tu chỉnh hoặc suy nghĩ ra đã được trên 200 năm… [Nguyễn Thị Minh Lý (cb) 2004: 23-24]; hay các tiêu chí khác mà mỗi nhà sưu tầm đặt ra cho mình để thỏa mãn nhu cầu thưởng lãm, mục đích của mình.
Trên thế giới, việc quan tâm đến cổ vật từ khá sớm và sự xuất hiện của cổ vật gắn liền với sự hình thành, phát triển của những nền văn minh cổ xưa. Ở Việt Nam tuy có muộn hơn đôi chút và cũng đặc biệt được chú ý, và trong nhiều chục năm trở lại đây đã hoạt động khá sôi nổi. Tuy còn một số quan điểm khác nhau trên thế giới cũng như tại Việt Nam, chúng ta đã thông qua các công ước, điều ước quốc tế để gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị của cổ vật. Đi cùng sự tác động của nền kinh tế thế giới, một loại thị trường mới xuất hiện đó là thị trường cổ vật với những đặc điểm đặc biệt so với những loại thị trường khác.
- Cổ vật hiện đang ở đâu
Trước hết xin khẳng định cổ vật thuộc các di tích lịch sử văn hóa rải rác khắp trong nước. “Di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học” [Luật Di sản văn hóa 2001: Điều 4, Khoản 3]. Mỗi di tích lịch sử văn hóa thường hàm chứa giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Về vật thể, chúng được cấu thành bởi 3 yếu tố chính: bản thân công trình kiến trúc; hệ thống các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia có trong di tích và môi trường, cảnh quan xung quanh di tích. Ba chủ thể này có quan hệ chặt chẽ, gắn kết với nhau tạo thành một thể thống nhất không thể tách rời trong một di tích. Các di tích lịch sử văn hóa ở nước ta thường là những địa điểm gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của tổ tiên. Các di tích như đình, chùa, miếu mạo, nhà thờ dòng tộc, họ, nhà thờ hay thánh đường của các tôn giáo… có khá nhiều cổ vật quý hiếm, độc đáo. Chúng là những vật trang trí bên trong, bên trên gắn với công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng… Các di vật, cổ vật trong các di tích tôn giáo, tín ngưỡng rất phong phú, đa dạng về loại hình và chất liệu: tượng thờ, đồ thờ, chuông, khánh, bát bửu, kiệu rước, sắc phong, hoành phi, câu đối, bia, bài vị,…; nhiều chất liệu khác nhau: đồng, gỗ, giấy, đá, gốm sứ; chất liệu quý hiếm như vàng, bạc, đá quý; Các di vật, cổ vật hàm chứa nhiều giá trị khác nhau lịch sử, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và giá trị cao về kinh tế, là những động sản nhưng về ý nghĩa thì không thể tách khỏi kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng. Nếu tách chúng ra khỏi công trình kiến trúc thì chắc chắn rằng, cả hai đều suy giảm ý nghĩa. Tuy nhiên, bảo vệ và bảo quản như thế nào lại là vấn đề khác.
Các di tích, địa điểm khảo cổ học mang tính đặc thù. Khảo cổ học có nhiệm vụ thu lượm, miêu tả, nghiên cứu di tích, di vật quá khứ của con người còn lại đến nay. Khảo cổ học phục dựng lại mọi mặt đời sống của con người trong quá khứ hầu như tồn tại trong lòng đất, dưới nước,… Khi cuộc khai quật khảo cổ được tiến hành cũng đồng nghĩa việc chúng ta xóa đi một địa điểm hay di tích. Dù vậy, để nghiên cứu lịch sử, hoặc cứu một di tích, địa điểm bị xâm hại nhằm mục đích xấu (trộm cắp cổ vật), trong quá trình lao động làm xuất lộ di vật, di tích,… chúng ta buộc phải tiến hành khai quật khảo cổ nhằm nghiên cứu và bảo tồn, phát huy giá trị. Sau khai quật các hiện vật lại thường chuyển đi và được lưu giữ, bảo quản ở một nơi khác không còn ở di tích (khá phổ biến). Mỗi cuộc khai quật khảo cổ, nhiều di vật, cổ vật, bảo vật được thu thập.
Để làm sáng tỏ hơn vùng đất phía Nam và có những hiện vật cần thiết cho việc nghiện cứu lịch sử, chúng ta cần có những cuộc khai quật khảo cổ học tại một số vùng ở Nam Bộ nhằm tiếp tục nghiên cứu những yếu tố của văn hóa “Tiền Óc Eo”; Tìm kiếm và khai quật các di tích thời kỳ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI để giải quyết vấn đề và chắp nối những “đứt gãy” trong lịch sử mà hiện nay còn đang thiếu tư liệu và cũng cần chú trọng hơn nữa việc khai quật các di tích từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX. Đầu tư cho việc khai quật khảo cổ học dưới nước ở vùng biển, hải đảo và các sông rạch Nam Bộ.
Trong hệ thống bảo tàng của nước ta hiện nay, tính đến tháng 6/2015 cả nước có tổng số 147 bảo tàng, trong đó có 123 bảo tàng công lập và có 24 bảo tàng ngoài công lập [Cục Di sản Văn hóa 2015]. Trong số bảo tàng trên, bảo tàng có chức năng, nhiệm vụ sưu tầm, bảo quản, lưu giữ cổ vật và phát huy giá trị cổ vật chiếm đa số. Số lượng cổ vật trong cả nước chúng tôi chưa có số liệu cụ thể, tuy nhiên, theo giới thiệu từ các website của hai bảo tàng lớn nhất trong cả nước thì bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 37.000 hiện vật mà tất cả là cổ vật và có nhiều bảo vật quốc gia được công nhận [Bảo tàng Lịch sử Việt Nam]. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (gồm bảo tàng Lịch sử Việt Nam và bảo tàng Cách mạng Việt Nam sáp nhập lại) có số lượng lưu trữ hơn 150.000 hiện vật; có hơn 10.000 hiện vật, tư liệu thường xuyên trưng bày [Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam]. Bảo tàng là những nơi có số lượng cổ vật nhiều nhất, được bảo quản gìn giữ khá bài bản, khoa học cho các loại hiện vật có chất liệu khác nhau. Hàng năm, số lượng khách tham quan, nghiên cứu, thưởng lãm cổ vật tại các bảo tàng lên đến nhiều triệu lượt. Tuy nhiên, một số bảo tàng ngoài công lập còn có những hạn chế nhất định trong một số mặt liên quan đến cổ vật như hệ thống kho bảo quản, thiếu nhân lực có chuyên môn cao…
Một số lượng khá lớn cổ vật đang hiện diện tại các nhà sưu tập tư nhân. Hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi nơi có hàng trăm nhà sưu tập và có vài Hội cổ vật (cả chính thức và chưa chính thức). Rất ít sưu tập tư nhân đã làm thủ tục đăng ký cổ vật theo quy định của Luật Di sản văn hóa nên không thể biết được số lượng cổ vật của loại hình này (vì nhiều lý do khác nhau nên họ chưa đăng ký). Theo tiếp cận thực tế tại một số sưu tập tư nhân, chúng tôi thấy rằng, hiện nay chỉ có ít sưu tập được quản lý, bảo quản và khai thác như bảo tàng, đa số chỉ xếp cổ vật vào một nơi nào đó vì số lượng nhiều, nhà cửa chật hẹp và cũng không có chuyên môn về bảo quản hiện vật.
Một lượng cổ vật không nhỏ mà chúng ta khó có thể nhìn thấy, đôi khi là những cổ vật rất có giá trị (bảo vật quốc gia) hay trị giá rất lớn về kinh tế được thu gom từ những nguồn bất hợp pháp của những người buôn bán cổ vật. Từ hàng chục năm nay, nạn “chảy máu” cổ vật ra nước ngoài ngày càng trầm trọng. Số vụ mà các cơ quan chức năng bắt giữ được khi có hành vi vận chuyển cổ vật trái phép ra nước ngoài là rất ít mà người ta ví von chỉ là “phần nổi của tảng băng”. Chỉ khi nào bắt được những vụ như vậy thì chúng ta mới biết được những loại hình cổ vật cụ thể nào bị xâm phạm.
Như vậy, cổ vật của chúng ta, kể cả đã quản lý và chưa biết còn là tiềm năng hay một ẩn số. Tuy nhiên chúng ta có thể khẳng định rằng, dân tộc Việt Nam đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước chúng ta thừa hưởng một gia tài khổng lồ, quý báu của cha ông vô cùng phong phú và đồ sộ.
- Thực trạng quản lý và khai thác cổ vật hiện nay
Luật Di sản văn hóa và Nghị định 98/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định: mọi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ở trong lòng đất thuộc đất liền, hải đảo, ở vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều thuộc sở hữu nhà nước và do Nhà nước thống nhất quản lý. Di sản văn hóa phát hiện được, không xác định được chủ sở hữu là thuộc sở hữu nhà nước.Vì vậy, tổ chức, cá nhân khi phát hiện được cổ vật phải thông báo kịp thời địa điểm phát hiện và giao nộp cổ vật do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tổ chức, cá nhân kịp thời thông báo và tự nguyện giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền… [Luật Di sản văn hóa 2001: Điều 41].
Luật cũng quy định nghiêm cấm các hành vi như: (a) Chiếm đoạt, làm sai lệch di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; (b) Hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa; (c) Đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; (d) Mua bán, trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia có nguồn gốc bất hợp pháp; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài… [Luật Di sản văn hóa 2001: Điều 13].
Trước hết về quản lý cổ vật trong các bảo tàng: Hoạt động quản lý và khai thác cổ vật được các bảo tàng hết sức quan tâm và coi trọng vì luôn xác định nếu không hiện vật thì không có bảo tàng. Mặc dù còn nhiều khó khăn, song nhiều năm qua, hệ thống các bảo tàng trong cả nước đã ứng dụng kịp thời những kết quả nghiên cứu, thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho cổ vật. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu sắc, để quản lý, phát huy tốt nhất giá trị của hàng vạn hiện vật trong đó phần lớn là cổ vật ngày càng được tăng cường. Trong số vô vàn hiện vật ấy có nhiều hiện vật là bảo vật quốc gia, những di sản vô giá của dân tộc. Nhiều bảo tàng đã ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực hiện chương trình số hóa hiện vật để phục vụ ngày càng tốt hơn công tác chuyên môn của bảo tàng; Công tác nghiên cứu, tư vấn nghiệp vụ, bảo quản, phục chế hiện vật cũng như công tác gìn giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa phải luôn được thực hiện có bài bản, khoa học. Tuy nhiên hiện nay, trước tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn, đa số bảo tàng hoạt động dựa vào nguồn ngân sách của Nhà nước nên hệ thống kho, trưng bày, nhiều trang thiết bị cơ bản thiết yếu như máy điều hòa không khí, độ ẩm, hệ thống thông gió, thiết bị bảo quản cho những trường hợp hiện vật đặc biệt... không có. Đội ngũ cán bộ, nhân viên giỏi nghiệp vụ chuyên môn còn ít; nhân lực có trình độ, tay nghề cao thì rời xa bảo tàng vì thu nhập thấp... là những thực trạng khó giải quyết.
Về cổ vật trong các di tích, danh lam thắng cảnh có một thực trạng đáng buồn. Theo thống kê của Cục Di sản văn hóa, đến tháng 6/2015 cả nước có: 1.508 di tích lịch sử; 1.523 di tích kiến trúc nghệ thuật; 89 di tích khảo cổ; 138 di tích danh lam thắng cảnh. Về phân loại theo cấp độ quản lý: 62 di tích quốc gia đặc biệt; 3.258 di tích quốc gia; 7.535 di tích cấp tỉnh (Thông tin từ TS Trịnh Thị Hòa - UV BCH TW Hội Di sản văn hóa VN - Nguyên Giám đốc bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP HCM, cung cấp – 10/2015). Tại các di tích, các loại hình cổ vật có giá trị đã tạo nên sức hấp dẫn riêng và khiến chúng trở thành mục tiêu hay đối tượng của việc săn lùng, đánh cắp, trao đổi buôn bán bất hợp pháp của kẻ gian nhằm thu về siêu lợi nhuận. Một cổ vật trên thị trường nhiều khi trị giá bằng vài chục triệu USD; có những món được cho là vô giá. Do đó, việc quản lý cổ vật ở đây ngày càng khó khăn và phức tạp, đặc biệt là từ khi chúng ta mở cửa thị trường hàng hóa với các nước trên thế giới. Hàng trăm vụ mất cắp cổ vật trong các di tích bị mất mỗi năm; thậm chí có vị sư trụ trì chùa cũng lấy trộm cổ vật đem bán.
Một công trình nghiên cứu gần đây cho biết: từ năm 2000-2008 trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra hơn 300 vụ đột nhập, trộm cắp cổ vật với hơn 1.000 món cổ vật bị đánh cắp [Trần Đức Nguyên 2009: 36]. Theo tác giả, nạn đánh cắp di vật, cổ vật xảy ra ở nhiều nơi nhưng tập trung nhất vẫn là ở các di tích thuộc vùng đồng bằng và trung du Bắc bộ. Hai tỉnh bị mất cắp nhiều cổ vật nhất là tỉnh Hà Tây (cũ), từ năm 2000 đến năm 2004 đã xảy ra mất 298 cổ vật tại 40 di tích; tại Phú Thọ, từ tháng 5/2004 đến tháng 9/2004 đã xảy ra mất 33 cổ vật tại 4 di tích trên địa bàn [Trần Đức Nguyên 2009: 36].
Nhiều vụ trộm cắp cổ vật tại các di tích được các phương tiện thông tin đại chúng đề cập đến trong thời gian vừa qua tiêu biểu như: Tháng 6/2003, chùa Sàn (Lục Ngạn - Bắc Giang) bị kẻ gian lấy cắp 7 pho tượng; Tháng 7/2003, tại chùa xóm Bến (Lạng Giang - Bắc Giang) mất 4 pho tượng và 1 bát hương cổ; 7/2003, chùa Dương Quang Thượng (xã Dương Đức, huyện Lạng Giang) mất 7 pho tượng 300 tuổi; Ngày 24/7/2003, chùa Đức La (Yên Dũng – Bắc Giang) mất 06 pho tượng gỗ có niên đại hơn 300 tuổi. Tháng 8/2003 đền thờ Hai Bà Trưng ở xã Hát Môn - huyện Phúc Thọ - tỉnh Hà Tây (cũ), mất 6 thanh kiếm thờ, hai lư hương đồng và một số đạo sắc phong… [Trần Đức Nguyên 2009: 36].
Tình trạng mất trộm cổ vật cũng được nhắc đến hàng chục vụ ở nhiều di tích khác nhau từ năm 1990 đến năm 1992 và nhận định rằng: “mức độ vi phạm ngày càng trầm trọng, hình thành một số băng nhóm, đường dây ngầm hoặc có thể là “thị trường đen về cổ vật”. Việc mất cắp cổ vật tại các di tích xảy ra thường xuyên song chưa có vụ nào bị công an khám phá. Có những di tích bị kẻ gian đột nhập lấy cắp cổ vật liên tục mà vẫn không bị phát hiện. Có huyện hầu như di tích nào cũng bị kẻ gian thăm hỏi…” [Nguyễn Thị Minh Lý (cb) 2004: 429-432]. Qua xem xét nhiều vụ án trộm cắp cổ vật, thúng tôi thấy rằng, nếu như thời gian trước kia, kẻ gian thường đột nhập vào những di tích có vị trí hẻo lánh, vắng bóng người qua lại thì trong thời gian gần đây, kẻ gian đã thâm nhập vào các di tích gần dân và kể cả khu vực thành thị. Nếu trước kia, những hiện vật nhỏ bé thường bị lấy trộm, nay cả những hiện vật to lớn, nặng nề, kềnh càng như hoành phi, câu đối cũng mất. Điều này cho thấy, mức độ, thủ đoạn của loại tội phạm này ngày càng trắng trợn và hết sức tinh vi.
Về nạn buôn bán cổ vật trái phép cũng diễn ra ngày càng nhiều và gần như không thể ngăn cản được của các cơ quan chức năng. Việc buôn bán cổ vật là hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận rất lớn do vậy mà nó là động cơ thúc đẩy kẻ gian đánh cắp các di vật, cổ vật trong di tích. Những người buôn bán cổ vật chuyên nghiệp có hiểu biết chút ít về giá trị và trị giá của cổ vật nên coi cổ vật là hàng hóa, mua vào, bán ra với mục đích kinh doanh kiếm lời. Hơn nữa, trên thế giới việc buôn bán cổ vật vẫn sôi động và tác động đến thị trường “đen” ở nước ta. Từ thị trường trong nước đã mở rộng ra bên ngoài. Một hiện tượng khá rõ là khi có cầu ở nước ngoài thì thị trường ngầm trong nước rất hút hàng, nhiều đồ cổ bình thường được mua với giá rất cao. Khi thị trường không có, lập tức cổ vật giả, đồ nhái xuất hiện và việc lừa lọc nhau là điều không thể tránh. Không những vậy, người buôn bán cổ vật thường mua cổ vật bằng nhiều mánh khóe khác nhau như dụ giỗ, lừa gạt, đặc biệt lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân về giá trị cổ vật để mua với giá rẻ mạt. Một số hình thức mở các cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ hoặc các quầy bán đồ lưu niệm tráhình để tiêu thụ cổ vật trái phép. Đối tượng buôn bán cổ vật ra nước ngoài khá phong phú: nhân viên ngoại giao: 50%; khách du lịch nước ngoài: 25%; người nước ngoài vào Việt Nam buôn bán hay đầu tư: 10%; Việt kiều: 10%; công dân Việt Nam đi thăm thân nhân ở nước ngoài: 5%... [Trịnh Thị Hòa 2014: Bài 3, slides 64-74]. Có khá nhiều hình thức, thủ đoạn khi mang cổ vật ra nước ngoài: Giấu cổ vật trong các phương tiệnvận chuyển hàng hóa cùng loại nhưng là đồ mới; Giấu cổ vật trong các lô hàng của những người có quyền di chuyển tài sản khi hết hạn, đặc biệt là những người làm công tác ngoại giao. Đồ cổ làm thành đồ mới (khi ra nước ngoài thì “bóc” phần làm mới đi);… [Trịnh Thị Hòa 2014: Bài 3, slides 69].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chảy máu cổ vật , theo tôi thì có thể tập trung vào một vài nguyên nhân sau: Sự quản lý thiếu chặt chẽ của các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương chưa được tốt; Pháp luật không nghiêm trong thực hiện của người dân và cán bộ không chỉ Luật Di sản văn hóa mà còn thể hiện ở nhiều lĩnh vực hay các luật khác; Việc phân cấp quản lý nhà nước chưa được quy định cụ thể về trách nhiệm và quyền hạn cho từng cấp; Các cơ quan chức năng thuộc ngành văn hóa cũng như chính quyền chưa ngăn ngừa được việc mất mát cổ vật ở trong nước cũng như việc làm thất thoát cổ vật ra nước ngoài dẫn đến sự việc xấu liên tục xảy ra mà không có điểm dừng. Các bảo tàng công lập không có kinh phí để mua cổ vật, luôn đi sau nhiều bước các bảo tàng và sưu tập tư nhân về việc mua các cổ vật quý hiếm có giá trị cao. Hai trung tâm lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh không có trung tâm thẩm định và cũng không có cửa hàng có thẩm quyền mua, bán cổ vật, trong khi người dân lại có nhu cầu chính đáng về việc trao đổi, mua bán cổ vật; Trong thời gian qua, việc người phát hiện, giao nộp cổ vật cho Nhà nước chưa được khen thưởng kịp thời và thoả đáng nên chưa khuyến khích được mọi người tham gia bảo vệ cổ vật mặc dù đã được ghi rõ trong luật, cho nên tình trạng khi có được cổ vật tìm tìm cách lén lút đem bán rất phổ biến. Tại nhiều nơi, chính quyền địa phương giao các di tích cho các cụ cao tuổi hoặc sư trụ trì mà không tổ chức lực lượng trông coi di tích. Nhận thức của người dân về vấn đề bảo vệ di sản văn hóa còn chưa đầy đủ, đồng đều, chưa tạo được sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức quản lý di tích để làm nền tảng cho việc đấu tranh chống lại những hành động xâm hại di sản văn hóa… Ngành văn hóa các cấp chưa có kế hoạch và nhiều hình thức tuyên truyền, giới thiệu những quy định liên quan đến cổ vật để mọi tầng lớp nhân dân được biết và chấp hành…
4. Một số giải pháp về quản lý và khai thác cổ vật
Dưới góc độ nghiên cứu về quản lý di sản văn hóa và trước thực trạng cổ vật như đã nêu, chúng tôi xin đưa ra ý kiến hy vọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý và khai thác cổ vật ở nước ta như sau:
Chính quyền địa phương các cấp và cán bộ quản lý văn đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, thường xuyên tới các tầng lớp nhân dân về Luật Di sản văn hóa, chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước trong quản lý di tích, cổ vật;
Thực hiện kiểm kê, giám định, lập danh mục các cổ vật trong các di tích làm cơ sở cho việc quản lý. Đặc biệt chú ý các di tích như đình, đền, chùa, miếu mạo tại các địa phương (cả thành thị và nông thôn) vì việc mất trộm cổ vật thường xảy ra nhiều hơn so với các di tích lớn. Trên cơ sở kiểm tra, đề ra các biện pháp phòng ngừa chống mật trộm. Mỗi bảo tàng, di tích hay địa phương căn cứ vào tình hình đặc điểm của địa bàn để có kế hoạch bảo vệ cụ thể.
Thiết nghĩ cần có biện pháp đẩy nhanh việc thực hiện chương trình quản lý di vật, cổ vật tại các bảo tàng và di tích bằng công nghệ tin học vì đây là việc giúp cho công tác quản lý nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất.
Tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất; có quỹ mua hiện vật cho bảo tàng, di tích một cách chủ động để có nhiều hiện vật quý hiếm; Tăng cường đội ngũ cán bộ có chuyên môn cần thiết cho bảo tàng có đủ nhân sự cần thiết thực hiện được chức năng của mình;
Đối với các di tích hay bảo tàng có cổ vật quý hiếm, bảo vật quốc gia cần được đầu tư kinh phí, có biện pháp bảo quản khoa học, bảo vệ tuyệt đối an toàn theo quy định của Luật; Phối hợp chặt chẽ với công an, quân đội, lực lượng bán vũ trang,… lập phương án bảo vệ các di tích trên địa bàn có cổ vật.
Trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động quản lý cổ vật nói riêng, quản lý văn hóa nói chung cần tập trung một số vấn đề sau: Nâng cao trình độ tư duy, lý luận về quản lý cổ vật cho sinh viên và cán bộ, nhân viên làm trong lĩnh vực văn hóa ở các địa phương. Chú trọng vấn đề thực tiễn của công việc, mục tiêu đào tạo làm sao để sinh viên ra trường không bỡ ngỡ với công việc, không phải “đào tạo lại, đào tạo thêm”. Chú trọng khâu thực hành trong đào tạo, ví dụ: học ngành khảo cổ, hay bảo tàng phải biết thủ tục, cơ sở pháp lý, tiến trình khai quật, phương pháp bảo quản hiện vật, nghiên cứu hiện vật,...; Mở lớp tập huấn nhận biết cổ vật cho lực lượng thuộc các cơ quan chức năng như Hải quan, Công an, Biên phòng, Thuế vụ, Cảnh sát biển,... vì đây là những lực lượng quan trọng trong hoạt động đấu tranh với những hành vi buôn bán cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
Nhà nước đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong việc bảo vệ và phát huy giá trị cổ vật trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, chống “chảy máu” cổ vật.
Có các hình thức khen thưởng thỏa đáng những tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị các cổ vật, đồng thời xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có những vi phạm trong việc bảo vệ và phát huy giá trị các cổ vật theo quy định của pháp luật.
Một số biện pháp có thể làm ngay như: Tiến hành đánh dấu bằng hóa chất đặc biệt đối với cổ vật nhằm chống đánh tráo hiện vật; Nghiêm túc thực hiện chế độ bảo vệ, nội quy bảo tàng, trang bị hệ thống thiết bị bảo vệ tự động bằng các công nghệ cao;
Đạo đức của người làm công tác quản lý cổ cổ vật cần phải giỏi, kến thức sâu, rộng về những vấn đề lịch sử, văn hóa hay kiến thức liên quan đến cổ vật; Có trình độ nghiệp vụ giỏi; Nắm vững pháp luật; Có phương pháp làm việc đúng. Cuối cùng, vấn đề quản lý, khai thác cổ vật có lẽ không phải bàn nữa mà là việc có quyết tâm làm hay không của các cơ quan nhà nước và cán bộ có thẩm quyền.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
- Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, “Giới thiệu chung”, http://baotanglichsu.vn/portal/vi/Hinh-thanh-va-phat-trien/mid/29453A92/. Truy cập ngày 20/07/2017.
- Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, “Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh”, https://hochiminh.dulichvietnam.com.vn/diem-den/bao-tang-lich-su-viet-nam-ho-chi-minh/. Truy cập ngày 20/07/2017.
- Luật Di sản văn hóa, 2001, Luật Di sản văn hóa nước CHXHCNVN năm 2001, được sửa đổi và bổ sung năm 2009.
- Nguyễn Thị Minh Lý (cb), 2004, Đại cương về cổ vật ở Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tr. 429-432.
- Trịnh Thị Hòa, 2014, (UV BCH Hội Di sản văn hóa VN - Nguyên Giám đốc bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP HCM), Tập bài giảng tại Khoa Di sản văn hóa – Trường Đại học Văn hóa TP HCM; chuyên đề “Cổ vật Đại cương”, Bài 3 - Công tác quản lý cổ vật ở Việt Nam.
- Vương Hồng Sển, 1971, Thú chơi cổ ngoạn, NXB Xuân Thu, Sài Gòn.
- Trần Đức Nguyên, 2009, “Quản lí di vật, cổ vật trong các di tích lịch sử - văn hóa hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 302, tháng 8/2009, tr. 34-38.
[1] Năm 1996, tác giả may mắn được tham gia đánh giá và thực hiện việc tiếp nhận các hiện vật của ông Vương Hồng Sển theo di chúc tặng cho Nhà nước.
[2] Cổ ngoạn là từ dùng để chỉ nhũng món đồ cổ có giá trị thưởng thức rất cao nhiều mặt. Hay “Cổ ngoạn” là cách gọi văn vẻ của thú chơi đồ cổ – một thú chơi thanh tao, thi vị đã xuất hiện từ rất lâu đời mà nguồn gốc có lẽ bắt nguồn từ những vị vua chúa, giới quý tộc.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”