Mô hình giá trị + đe dọa = bảo tồn
Nước Anh là một quốc gia đa văn hóa có nguồn gốc chủng tộc, tôn giáo và văn hóa khác nhau. Trong nhiều thế kỷ, nhiều cộng đồng đã đến định cư và để lại những di sản văn hóa đậm đặc tại vùng đất này. Nước Anh nổi tiếng với các công trình kiến trúc cổ, các làng mạc yên bình, các thị trấn sống động, các điểm du lịch thiên nhiên hấp dẫn...
Cách hiểu về quản lý di sản đang thay đổi một cách nhanh chóng. Trong khi những di tích vật thể là quá khứ, như nhà cửa, danh lam thắng cảnh, đường phố, tư liệu từ quá khứ, đồ kỹ nghệ, những di tích lịch sử... là những thứ vô hình gắn kết con người trong cuộc sống hiện tại.
Với mô hình giá trị + đe dọa = bảo tồn, nước Anh đã đúc rút những kinh nghiệm quý báu trong chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hóa. Khái niệm tính nguyên bản giữa châu Âu và châu Á có nhiều điểm khác biệt. Di sản văn hóa của các triều đại ở châu Âu nói chung và nước Anh nói riêng thường được giữ nguyên trạng, nhưng ở châu Á lại khác, các triều đại mới thường phá bỏ di sản của triều đại cũ theo phương châm tống cựu nghênh tân. Nước Anh có bề dày kinh nghiệm bảo tồn các loại di sản, đặc biệt là di sản văn hóa lịch sử. Những thành quả lao động tiêu biểu của con người qua các thời kỳ đã được gìn giữ, bảo tồn, phát huy với tinh thần tự hào, trân trọng quá khứ và làm cho nó trở nên sống động trong cuộc sống hiện tại.
Phương châm bảo tồn để phát triển được áp dụng linh hoạt
Cách quản lý di sản khá chặt chẽ, được phân cấp, phát huy tốt vai trò của trung ương - địa phương, nhà nước và các tổ chức phi chính phủ. Nhà nước đóng vai trò hoạch định chính sách. Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao giữ vai trò chủ đạo trong xây dựng và phát triển văn hóa. Nhà nước quản lý các khoản trợ cấp của chính phủ đối với các hội đồng di sản, bảo tàng quốc gia, hội đồng nghệ thuật, thư viện... Ngoài ra, Bộ cũng quản lý ngành phim và âm nhạc, phát thanh truyền hình và báo chí, xổ số quốc gia, đánh bạc, cấp phép xuất khẩu các sản phẩm văn hóa... Cơ quan quản lý nhà nước thành lập các hội đồng vùng và sẽ chuyển giao trách nhiệm của chính phủ trung ương cho các cơ quan; giao cho các địa phương quản lý (trường hợp TP Bath, Oxford...); giao cho gia đình quản lý di sản văn hóa của thế giới tại Anh (lâu đài Blenheim). Có 400 tổ chức phi chính phủ ở lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa, khảo cổ… hoạt động khá sôi động, đồng hành cùng nhà nước. Với cách quản lý đó, chính phủ đã huy động sự tham gia của các địa phương, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng nhân dân.
Là đất nước của di sản, bảo tồn và phát triển vừa theo quy chế nghiêm ngặt, nhưng đồng thời lại theo hướng mở. Anh quốc có chính sách gắn kết di sản với du lịch rất hiệu quả đạt đến tính chuyên nghiệp, hài hòa. Gắn kết với du lịch với di sản, không quá chạy theo du lịch để phá bỏ di sản, nhưng cũng không quá giữ khư khư để di sản biến thành thứ đồ cổ xa lạ với con người. Với phương châm di sản sống với cuộc sống hiện tại, bảo tồn để phát triển bền vững, nước Anh đã có chính sách, kế hoạch đầu tư những điểm du lịch bao quanh di sản, hoặc vùng để đón du khách theo lối phân tán, chia nhỏ không tập trung số lượng quá lớn tạo ra áp lực đối với cán bộ làm công tác bảo vệ di sản và người dân địa phương. Vì thế, hàng năm, nước Anh đón hàng trăm nghàn khách du lịch từ nhiều quốc gia trên thế giới và khi có điều kiện du khách vẫn muốn trở lại.
Di sản thế giới Stonehenge, Avebury và Associated nằm trong số hàng trăm công trình bằng đá mà người Anh kế thừa từ thời tiền sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 1986. Cụm di tích Stonehenge và Avebury chính là nơi thực hành tang lễ và nghi lễ từ thời đại đồ đá mới cho đến thời kỳ đồ đồng. Bãi đá cổ Stonehenge là nhóm tượng đài bằng đá hùng vĩ nổi tiếng nhất thế giới, với những khối đá có kích thước khổng lồ (nặng 45 tấn) mang hình dạng bí hiểm trông như những chiếc nanh lớn, hoặc như chiếc đàn đá. Suốt hơn 8 thế kỷ nay, các nhà khoa học đã dày công nghiên cứu, nhưng đến nay, Stonehenge vẫn luôn là điều bí ẩn, chưa được giải mã về cách vận chuyển những khối đá khổng lồ cách xa hơn 20km ấy để dựng lên một kiệt tác của nhân loại. Nếu vòng tròn đá Stonehenge được bảo vệ rất nghiêm ngặt, du khách đi xung quanh chụp ảnh, quay phim, nhưng tuyệt nhiên không được chạm tới gần hiện vật, thì ở quốc lộ đá ở Avebury, du khách được đi lại tự do, nông dân vẫn chăn thả gia súc. Tiến sĩ Peter Walton, giảng viên Đại học Oxford Brookes cho biết: “Cùng trong một khu di sản, nhưng cách quản lý Avebury khác với Stonehenge. Nếu Stonehenge bảo vệ nghiêm ngặt, thì Avebury quản lý theo hướng mở. Bởi nếu không để nhân dân cùng tham gia chăn thả cừu, gia súc để chúng ăn những thứ cây ngoài cỏ, thì ở đây sẽ biến thành những cánh rừng lớn, rậm rạp, chứ không thể trở thành những đồng cỏ cho du khách đến thăm”. Những làng cổ trong vùng Avebury được bảo tồn trong dân, trở thành điểm du lịch thân thiện. Hệ thống dịch vụ quà lưu niệm phát triển mạnh, nâng cao mức sống của nhân dân khi đến thăm khu di sản.
Nhận thấy di sản có nguy cơ bị biến dạng, ngay lập tức Hội đồng Di sản Anh chỉ đạo địa phương hướng xử lý. Trường hợp ở Silbury Hill, gò đất cao nhất thời tiền sử ở châu Âu do con người sáng tạo nên, là một ví dụ. Trước đây, du khách tham quan tự do, được đi vòng quanh lên đỉnh gò đất, nhưng khi thấy di sản có nguy cơ bị phá, Hội đồng di sản Anh đã yêu cầu địa phương phải bảo vệ khẩn cấp. Nhà nước đề xuất nắn con đường chạy qua xa khu gò để có thể bảo tồn nguyên trạng di sản.
Lâu đài Blenheim, một trong những dinh thự đẹp nhất nước Anh, tọa lạc trên một ngọn đồi ở Woodstoxk cách TP Oxfordshire 8 dặm Anh. Đây là công trình mang tính lịch sử, là món quà của Hoàng hậu Anne tặng cho Công tước Marlborough sau chiến thắng quân Pháp năm 1704. Lâu đài đã hơn 300 năm tuổi, nằm trong vườn quốc gia rộng lớn hơn 200 mẫu với khung cảnh lãng mạn hài hòa của vườn cây, vườn hoa, đồng cỏ, cánh rừng, hồ nước… tạo nên một khối kiến trúc quý tộc độc đáo và hoàn mỹ ở thế kỷ XVIII theo trường phái nghệ thuật cung điện gắn kết với tự nhiên của Pháp. Tất cả các tác phẩm điêu khắc và vật trang trí nội thất trong lâu đài Blenheim đều rất tinh xảo. Trong mỗi phòng đều có treo tranh sơn dầu, tranh thảm, trần nhà được trang trí bằng nhiều bộ sưu tập gốm sứ, được khảm vàng bạc... Trong lâu đài còn có căn phòng của Winston Churchill - thủ tướng Anh thời chiến tranh thế giới thứ II. Lâu đài còn là bảo tàng nghệ thuật của châu Âu và là bảo tàng lịch sử của nước Anh, do kiến trúc sư John Vanbrugh thiết kế và được công nhận là di sản thế giới vào năm 1987. Hiện nay, hậu duệ của công tước, gia tộc Churchill vẫn đang sống trong lâu đài Blenheim và đón du khách đến thăm 10 tháng trong năm. Thời gian còn lại dành cho tu sửa, chỉnh trang để đón du khách đến thăm trong năm tới.
TP Bath Spa thanh lịch đậm đặc những di tích cổ mang phong cách kiến trúc La Mã. Sau khi thôn tính nước Anh vào những năm đầu tiên sau CN, người La Mã đã xây dựng thành phố này thành một khu nghỉ dưỡng kết hợp spa cho quân lính. Năm 1987, Bath được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hàng năm, thành phố tổ chức sự kiện World Heritage Day (ngày di sản thế giới) với nhiều lễ hội hấp dẫn, trong đó tái hiện doanh trại, cảnh diễu binh và đánh trận của quân lính La Mã, khung cảnh chuẩn bị các bữa ăn cho quý tộc thời vua George TK XVIII, XIX. Trong thành phố, các nghệ sĩ đường phố biểu diễn nhiều tiết mục nghệ thuật đặc sắc, như: đi dây trên không, chơi vĩ cầm, đánh trống hang, đi xe đạp tung hứng đuốc, song tấu đàn dây, nghệ sĩ opera hát những bài cổ điển… Bảo tàng hiện lưu giữ rất nhiều hiện vật hàng ngàn năm tuổi, như: những pho tượng bằng đá của hoàng đế và tướng lĩnh La Mã, pho tượng người đàn bà và vò nước bên hông ở nhà thờ tu viện Bath, chiếc đầu nữ thần Silus Minerva bằng đồng, dụng cụ sinh hoạt của người xưa, chiếc hồ cầu nguyện có hơn 12.000 đồng tiền La Mã linh thiêng… Độc đáo nhất vẫn là hồ nước nóng, nơi spa và những video clip diễn lại cảnh spa của lính La Mã ngày xưa, bên bể tắm tái hiện trang phục lính La Mã cổ đại. Hiện Roman Baths không dùng để tắm vì hồ đã bị nhiễm hóa chất, nhưng gần đó - Thermae Bath Spa có hơn 50 gói dịch vụ trị liệu, làm đẹp với giá từ 65 - 175 bảng. Bảo tàng ở Bath cũng như phần lớn các bảo tàng ở Anh đều có cách hướng dẫn du khách rất hiện đại, lịch sự. Khách được hướng dẫn qua thiết bị như điện thoại cầm tay với 8 thứ tiếng (không có tiếng Việt), khách sử dụng tiếng Anh.
Ngành khảo cổ hàng hải phát triển
Tổ chức khảo cổ học hàng hải ở Anh phát triển sớm, có nghiên cứu chuyên sâu nhờ có hệ thống máy móc hỗ trợ hiện đại và kinh nghiệm hàng hải. Sử dụng phụ quét sonar, họ đã khảo sát được độ sâu chi tiết, độ phân giải cao; sử dụng penetrating radar khảo sát địa vật lý, khảo sát magnetometry dưới nước, phân tích geoarchaeological dưới nước, cơ sở dữ liệu chụp ảnh và quay phim dưới nước… Trên cơ sở đó, họ đã tiến hành khảo cổ học dưới nước và di sản, điều tra cơ bản biển đa dạng sinh học, thực hiện dự án xây dựng và cố vấn cho nhiều quốc gia có biển trong việc quản lý các di sản dưới nước và tài nguyên môi trường…
Những bài học qua kinh nghiệm quản lý di sản văn hóa của nước Anh
Một là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa; xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ta theo quan điểm phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững; coi trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc; nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, tổ chức hệ thống quản lý và điều hành chính sách văn hóa, xây dựng, hoàn thiện các văn bản, quy phạm pháp luật tạo điều kiện để quản lý văn hóa đồng bộ và hiệu quả, đồng thời cần bổ sung những văn bản phù hợp; xây dựng và ban hành các chính sách văn hóa và chú ý phân cấp tăng cường vai trò của chính quyền địa phương.
Khảo cổ hàng hải còn rất mới với Việt Nam. Nhưng nước ta là một quốc gia biển, có đường bờ biển dài (3.260km), diện tích biển lớn (1.000.000km²), nên kinh nghiệm bảo tồn di sản biển của nước Anh cũng là điều chúng ta cần phải suy nghĩ và tính tới trong tương lai.
Hai là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa: đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với thế giới; mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa; xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài; tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng Việt Nam; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả các sản phẩm văn hóa; xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hóa sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng, nhất là thế hệ trẻ.
Cần tăng cường những hoạt động ngoại giao nhân dân, ngoại giao văn hóa (giao lưu văn hóa, tổ chức ngày văn hóa Việt Nam, tuần lễ phim Việt Nam, hội họa, nhiếp ảnh Việt Nam tại Anh, dịch và giới thiệu tác phẩm văn học Việt Nam, các cuộc thi…); trao đổi đoàn, nghiên cứu trên lĩnh văn hóa… theo chiều rộng, bề sâu để chú trọng quảng bá văn hóa Việt tới cộng đồng người Việt tại Anh, đặc biệt thế hệ thứ hai, du học sinh Việt Nam. Tiếp nối mạch nghiên cứu đó, tiếp tục đưa những đoàn nghiên cứu học tập cách quản lý văn hóa của các nước có kinh nghiệm tốt trên lĩnh vực này như Pháp, Ý, Mỹ, Úc...
Ba là, tăng cường chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa, chú trọng nâng cao đời sống văn hóa ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn.
Bốn là, chú trọng, nâng cao công tác đào tạo nhân lực quản lý văn hóa, tăng cường nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học các chuyên ngành văn hóa học để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực văn hóa góp phần cho hoạt động trên lĩnh vực văn hóa phong phú hơn.
Năm là, chú trọng giáo dục ý thức tự hào dân tộc, trân trọng giá trị quá khứ qua di sản văn hóa cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt cho thiếu niên nhi đồng ở các cấp học.
Trong thời kỳ hội nhập, học tập kinh nghiệm quản lý văn hóa ở các nước trên thế giới rất cần thiết và bổ ích. Vấn đề đặt ra là từ kinh nghiệm đó tùy từng trường hợp mà áp dụng cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện tại và tương lai của Việt Nam. Những di sản văn hóa lịch sử ở Hà Nội, Huế, Thanh Hóa, Ninh Bình... sẽ áp dụng rất tốt kinh nghiệm bảo tồn và phát huy giá trị di sản của nước Anh. Vừa qua, Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao của Vương quốc Anh đã có chương trình hợp tác, giúp đỡ thủ đô Hà Nội trong việc bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa...
TK XXI là thế kỷ của văn hóa, sự hợp tác, giao lưu, đối thoại văn hóa sẽ góp phần tôn vinh giá trị của các nền văn hóa, đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Trong xu thế hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng và thời đại toàn cầu hóa hiện nay, cùng với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa được xác định là một trong ba trụ cột của ngoại giao hiện đại. Ngoại giao văn hóa được ví như quyền lực mềm vừa có khả năng lan tỏa bền bỉ, vừa có tác dụng thẩm thấu lâu dài. Vì vậy, hội nhập, học hỏi kinh nghiệm để quản lý và bảo tồn tốt hơn di sản văn hóa Việt Nam là một nhu cầu cấp thiết và chính đáng.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 338, tháng 8-2012