1. Khái niệm văn hóa quản lý
Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt của con người trong quá trình lao động để đạt mục đích chung mà các bên tham gia cùng mong đợi sự chia sẻ kết quả hay sản phẩm của quá trình đó. Hoạt động quản lý sẽ không diễn ra nếu các bên tham gia hoạt động không cần thiết phải tổ chức một hoạt động chung. Bản chất của quan hệ người thể hiện ở tính cộng đồng xã hội, trong đó tính xã hội ngày càng phát triển và hoàn thiện. Sự phát triển xã hội được biểu hiện ở một trình độ sản xuất xã hội hay tổ chức xã hội nào đó. Nói cách khác, trình độ sản xuất và tổ chức xã hội là chất liệu cơ bản của văn hóa. Khi nói tới nội dung của nền văn hóa, người ta phải đề cập đến cấu phần cơ bản của nó như: những biểu trưng, ngôn ngữ, giá trị, các điều luật, tập tục, chuẩn mực xã hội, hệ tư tưởng. Văn hóa do xã hội tạo ra và nó quay trở lại phục vụ xã hội. Do đó, khi nói tới văn hóa quản lý là nói tới một dạng văn hóa của một loại hoạt động đặc thù thuộc bản chất của con người. Trong mỗi con người đều mang hai bản năng là sinh học và xã hội. Hai bản năng này là cơ sở tạo ra sức mạnh cho con người trong quá trình hoạt động xã hội. Dựa trên nền tảng hai bản năng đó con người học tập và xã hội hóa để biến các di sản và thành tựu văn hóa do loài người sáng tạo ra thành sản phẩm riêng cho từng cá nhân và để gia nhập vào các cộng đồng xã hội trước hết là các cộng đồng dòng họ, cộng đồng cư trú, rồi cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tinh thần. Khi không gian xã hội càng mở rộng ra, nhận thức của con người cũng được mở rộng theo. Tuy nhiên không gian xã hội và không gian tự nhiên là vô hạn so với nhận thức hữu hạn của con người. Vì vậy, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một loại hình văn hóa quản lý đó là một dạng văn hóa đặc thù do người quản lý và người bị quản lý sáng tạo ra đồng thời họ lại tự giam mình vào trong “cái lồng sắt” đó. Nói cách khác, văn hóa quản lý là sản phẩm của hoạt động quản lý. Muốn hiểu văn hóa quản lý chúng ta đồng thời phải hiểu quản lý là gì? Trong xã hội học, quản lý được hiểu là quá trình tác động có chủ định của chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu nào đó . Trong một tổ chức xã hội hay một cơ quan, khái niệm quản lý được hiểu như là “sự tác động liên tục cá tính tổ chức, có ý thức,hướng mục đích của chủ thể vào đói tượng nhằm đạt mục tiêu tối ưu so với yêu cầu đặt ra”. Quản lý trong tổ chức là khái niệm chung phản ánh mối quan hệ giữa những thành viên trong việc chia sẻ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Tuy nhiên, tính giai cấp, tính lợi ích bộc lộ rất khác nhau trong các loại hình tổ chức. Do vậy, việc phân loại các tổ chức, các doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đói với hiệu quả của hoạt động quản lý. Trong một quốc gia, một dân tộc, chúng ta thường nói tới nền văn hóa chung. Trong khi đó, nói tới văn hóa doanh nghiệp, chúng ta thường đề cập tới các tiểu văn hóa. Do vậy, văn hóa quản lý trong các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập với thế giới hiện nay, là các tiểu văn hóa doanh nghiệp trên nền tảng chung của văn hóa Việt Nam thời hội nhập. Các tiểu văn hóa doanh nghiệp dù có những nét đặc thù, nhưng nó vẫn là một bộ phận, một khía cạnh của văn hóa Việt Nam, vì thế các tiểu văn hóa doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với những đặc trung chung của văn hóa Việt Nam thời hội nhập.
2. Hai loại hình chủ đạo của văn hóa quản lý trong các doanh nghiệp hiện nay
Dựa vào việc sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta có thể phân chia doanh nghiệp thành hai loại là doanh nghiệp nhà nước và phi nhà nước. Trong loại hình doanh nghiệp nhà nước, chúng ta thấy hình thức sở hữu là nhà nước. Trong khi đó loại doanh nghiệp phi nhà nước có các hình thức sở hữu khá đa dạng và phức tạp. Các loại doanh nghiệp phi nhà nước có thể liệt kê như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các hợp tác xã; các trường đại học, các trung tâm, các viện nghiên cứu tư nhân, và các tổ chức phi chính phủ…
Các hình thức tổ chức của các loại doanh nghiệp cũng rất đa dạng. Các doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu bộ máy quản lý, lãnh đạo theo mô hình của các bộ máy thuộc hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của tổ chức đảng. Trong doanh nghiệp nhà nước có tổ chức chính quyền, đảng, đoàn thể chính trị. Hoạt động quản lý trong doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế “thủ trưởng”, nghĩa là người chủ tài khoản doanh nghiệp đồng thời là người đứng đầu bộ máy quản lý chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy cơ sở và vận hành theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm. Xu hướng tập trung quyền lực cho chủ doanh nghiệp đang trở nên phổ biến. Cụ thể là, chủ doanh nghiệp đồng thời là bí thư chi bộ hay đảng bộ cơ sở.
Trong khi đó, các doanh nghiệp phi nhà nước hoạt động hầu như độc lập không dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cơ sở đảng. Có doanh nghiệp có tổ chức đảng, công đoàn, tuy nhiên vai trò của chi bộ đảng cơ sở hoặc tổ chức công đoàn cơ sở không đủ mạnh để lãnh đạo các chủ doanh nghiệp tư nhân nói riêng và phi chính phủ nói chung. Quyền quyết định tối cao trong các loại doanh nghiệp phi nhà nước thuộc về chủ doanh nghiệp là các chủ tịch hội đồng quản trị. Trong nhiều doanh nghiệp phi chính phủ, chủ tịch hội đồng quản trị đồng thời kiêm luôn giám đốc hoặc tổng giám đốc doanh nghiệp. Quan hệ sản xuất trong loại doanh nghiệp này là quan hệ chủ doanh nghiệp và người làm thuê. Mối quan hệ trong loại doanh nghiệp này phản ánh quan hệ giai cấp rất rõ ràng. Trong khi đó mối quan hệ sản xuất trong doanh nghiệp nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa người quản lý và người làm công ăn lương. Về cơ bản, khi nào doanh nghiệp còn tồn tại thì các thành viên của nó còn tồn tại. Mặc dù trong doanh nghiệp nhà nước, người lao động cũng được trả lương và tiền thưởng do việc hoàn thành nhiệm vụ của họ, tuy nhiên giám đốc doanh nghiệp cũng khó có thể cắt giảm được biên chế khi dư thừa lao động bởi hiện tượng thiếu việc làm và khủng hoảng tài chính như hiện nay.
Các doanh nghiệp phi nhà nước không thực hiện chính sách hợp đồng vĩnh viễn mà chỉ hợp đồng công việc, do vậy áp lực lên người lao động rất lớn và cuộc đấu tranh để sinh tồn cũng rất khốc liệt. Điều này dẫn tới hệ quả của sự độc quyền và độc tài trong quan hệ sản xuất và phân phối sản phẩm cũng như phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, mối quan hệ chủ - thợ theo con đường đấu tranh sinh tồn khốc liệt này có thể tạo ra những người thợ giỏi và cán bộ giỏi, trung thành với công ty. Sự tồn tại của doanh nghiệp phi nhà nước phụ thuộc vào năng lực kinh doanh,sản xuất của chính các thành viên có sở hữu tư liệu sản xuất hay tài chính của doanh nghiệp. Do đó họ phải bằng mọi cách vượt qua khó khăn để cứu vớt doanh nghiệp của mình trước bờ vực phá sản. Họ không thể sa thải những thợ giỏi vì qui luật cạnh tranh tự nhiên cần thiết phải có những người thợ giỏi, những nhà quản lý tài ba.
Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước phụ thuộc nhiều vào tài năng của giám đốc hay chủ doanh nghiệp. Khi gặp khó khăn họ thường cầu cứu sự hỗ trợ của nhà nước. Nếu buộc phải phá sản các thành viên doanh nghiệp là biên chế nhà nước lại được chuyển tới các cơ quan khác để làm việc. Do vậy, sự tồn tại của doanh nghiệp không nhất thiết là sự tồn tại của ban lãnh đạo doanh nghiệp và các thành viên của nó. Trong doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải có tinh thần tự giác và trách nhiệm cá nhân cao mới có thể có sự hợp tác hành động hiệu quả. Việc phân công lao động trong doanh nghiệp nhà nước thiên về quan hệ “cùng làm chủ và đồng trách nhiệm”. Mặc dù có khác biệt giữa cán bộ quản lý với người cán bộ không quản lý trong doanh nghiệp ở mức độ trách nhiệm, nhưng sự khác biệt đó chưa đến mức trở thành quan hệ giai cấp và phụ thuộc lẫn nhau về mặt chức năng như trong quan hệ ở tổ chức phi nhà nước.
Có thể nói, hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước và phi nhà nước khác nhau cơ bản bởi nhân tố sở hữu và phân công lao động trong doanh nghiệp.
3. Văn hóa quản lý của các loại hình doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập thế giới
Văn hóa quản lý nói chung là sản phẩm của hoạt động quản lý. Hoạt động quản lý phụ thuộc vào mối quan hệ cấu trúc và chức năng trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một loại hệ thống có cấu trúc phù hợp với chức năng sản xuất, kinh doanh. Mức độ phù hợp giữa cấu trúc và chức năng phản ánh độ ổn định và tính bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên độ ổn định này phụ thuộc nhiều vào các nhân tố nội lực và ngoại lực. Những nhân tố nội lực như vốn tài chính, vốn xã hội, vốn con người của doanh nghiệp. Những nhân tố ngoại lực như hệ thống chính sách, luật pháp, môi trường kinh doanh, thị trường khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực kinh tế thương mại,những nhân tố thị trường và hệ thống chính sách là vô cùng quan trọng và nó có tính chất quyết định đối với cơ cấu doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng thị trường trong nước cũng như ngoài nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cơ cấu doanh nghiệp và ngược lại. Ví dụ: Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ cuối năm 2008 đến nay đã ảnh hưởng mạnh đến cơ cấu lao động tại Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp đã phải sa thải một tỷ lệ lớn công nhân. Số người mất việc làm từ đầu năm 2009 đến nay đã lên tới 80.000 người. Những người mất việc chủ yếu rơi vào khu vực phi nhà nước và bị sa thải. Trong khi đó những người công nhân trong biên chế thuộc khu vực doanh nghiệp nhà nước có thể mất việc làm nhưng họ vẫn có thể tồn tại bởi mức lương tối thiểu. Trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, khi Việt nam đã là thành viên của WTO, doanh nghiệp Việt nam trở thành một bộ phận trong hệ thống thương mại thế giới. Do vậy sự suy thoái kinh tế thế giới không thể không ảnh hưởng tới doanh nghiệp Việt Nam. Mức độ ảnh ảnh phụ thuộc vào mối liên kết giữa thị trường cung và thị trường cầu. Vì thế, một số mô hình kinh doanh có thể phù hợp với tính cơ động, linh hoạt, đa dang của thị trường có thể tồn tại đễ dàng hơn so với mô hình kinh doanh bảo thủ và cứng nhắc. Mặt khác khi bàn tới văn hóa quản lý trong lĩnh vực kinh doanh chúng ta không thể bỏ qua các nhân tố có tính truyền thống và các nhân tố mới.
Những nhân tố truyền thống về mặt văn hóa kinh doanh ở Việt Nam gắn với một nền văn hóa tiểu thương và văn hóa hậu chiến. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong suốt chặng đường lịch sử dân tộc, chúng ta đã có hơn một nửa thời gian chịu đựng những cuộc chiến tranh. Không ai còn nghi ngờ về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, về thành tựu kinh tế, chúng ta chưa thoát khỏi một nước nghèo đang trên đường phát triển. Chúng ta đang phấn đấu đến 2020 sẽ trở thành nước công nghiệp. Hiện tại, chúng ta đang sở hữu một nền sản xuất tiểu nông và tiểu thương là chính. Do đó những nhân tố của nền văn hóa tiểu thương và tiểu nông vẫn còn khá đậm nét trong mô hình hành vi kinh tế của các nhà doanh nghiệp. Khi gia nhập vào thế giới thương mại, chúng ta gặp những nền kinh tế khổng lồ và kinh tế hậu công nghiệp với kỹ thuật và công nghệ cao. Do vậy, “một chú bé tý hon đi bên một gã khổng lồ” sẽ không thể cân sức nếu có một cuộc chơi sòng phẳng. Thế là, một mô hình văn hóa chiến tranh lại được áp dụng trong thương mại, đó là “thương mại kiểu du kích”, một mô hình thương mại mùa vụ và thiếu tính kế hoạch. Một ví dụ cho hiện tượng này đó là trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hóa nông nghiệp. Vụ kiện của thương mại Mỹ về việc bán phá giá cá tra, cá ba sa; vụ kiện của phòng thương mại Nhật Bản về tôm không đúng tiêu chuẩn xuất khẩu vào Nhật... Đối với người nông dân, việc sản xuất chạy theo thị trường “sớm nắng, chiều mưa”. Ví dụ: mặt hàng xuất khẩu chính trong nông nghiệp như gạo, hạt điều, cà phê, cao su…vv…, cũng luôn thay đổi. Người nông dân sẽ còn gặp rất nhiều rủi ro và khó khăn trong sản xuất và thương mại do môi trường thời tiết biến đổi và bệnh dịch liên tục xuất hiện. Khả năng thích ứng của các doanh nghiệp qui mô nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn, tuy nhiên sự phá sản của nó cũng nhanh hơn để chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác. Ví dụ: Mặc dù nhiều doanh nghiệp đã phải đóng cửa trước sự suy giảm kinh tế toàn cầu, nhưng từ cuối 2008 đến đầu năm 2009, đã có 21.000 doanh nghiệp mới được thành lập ở nước ta. Ở giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay, nhu cầu sản xuất đang rất lớn do dư thừa nhân công lao động giản đơn, do đó mức thuê sức lao động rất thấp. Điều này rất thuận lợi cho kiểu kinh doanh “thời vụ” hay kinh doanh kiểu “chộp - giật”. Trong khi đó công nghiệp chế biến có tính chiến lược lâu dài mới đang bắt đầu hình thành. Nhà nước đang phải đối đầu với nạn thất nghiệp và các tệ nạn xã hội. Những gói kích cầu đang cố gắng khôi phục lại nền sản xuất nhỏ và tập trung vào khu vực nông thôn để trợ giúp người nông dân thoát khỏi nạn đói và tăng cường chính sách xóa đói giảm nghèo. Đó là những nỗ lực lớn của nhà nước và được dư luận hoan nghênh, ủng hộ. Vai trò của nhà nước vẫn đặc biệt quan trọng đối với việc ổn định và phát triển đất nước.
Những mặt thuận lợi của quá trình hội nhập cũng rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Những thuận lợi cần đề cập đầu tiên là hệ thống chính sách kinh tế mở trong điều kiện chính trị ổn định đã tạo ra một thị trường và môi trường kinh doanh tương đối ổn định. Việc phối hợp và liên doanh với các đối tác nhờ vào sự khôn khéo, mềm dẻo và chung thủy của văn hóa Việt đã tạo được lòng tin với nhiều bạn hàng và đối tác lớn. Điều đó đã giúp cho doanh nghiệp Việt nhanh chóng nhân đôi, nhân ba sức mạnh cần cù, tinh thần dũng cảm của mình thành sức mạnh kinh tế. Có một số doanh nghiệp đã rất thành công trong việc đấu thầu các dự án lớn đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và các khu công nghiệp trên cơ sở liên danh với các công ty nước ngoài.
Trong hai loại doanh nghiệp mà chúng ta phân tích, doanh nghiệp nhà nước có nhiều lợi thế hơn trong quá trình cạnh tranh, tuy nhiên hiệu quả lại kém hơn các doanh nghiệp phi nhà nước. Điều này khẳng định rằng, cơ cấu và chức năng của chính doanh nghiệp chưa phù hợp. Có nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mặt hàng này, nhưng thực tế lại kinh doanh mặt hàng khác. Quá trình “rối loạn chức năng” kinh doanh tất yếu sẽ dẫn tới hiện tượng vi phạm luật kinh doanh và phải “chạy chọt” để tồn tại. Mặt khác, các lãnh đạo doanh nghiệp không chỉ có con đường thăng tiến trong lĩnh vực tài chính mà còn có nhiều khả năng thăng tiến trong con đường chính trị. Do vậy, các nhà doanh nghiệp nhà nước có thể đi bằng cả hai chân. Trong khi đó các nhà doanh nghiệp phi nhà nước phải đứng trên đôi chân “kinh tế của chính mình” do đó nếu họ tiến lên được là tiến lên bằng chính sức lực của mình. Tuy nhiên, cả hai nhà doanh nghiệp đều muốn tìm các cơ hội để tiếp cận các nhà hoạch định chính sách để tìm kiếm cơ hội làm ăn với chi phí ít nhất mà thu lợi cao nhất. Những mầm mống của tham nhũng cũng từ đó mà có cơ hội xuất hiện.
4. Một số bệnh lý trong quản lý
Chúng ta đi lên từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp với thói quen “xin-cho” đã gắn sâu vào tiềm thức xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế mở, các “đường vào” càng rộng và nhiều hơn, các mạng lưới quan hệ kinh tế xã hội cũng đa dạng và nhiều chiều hơn. Do đó khả năng tự phát triển và các quan hệ cá nhân, liên cá nhân, liên nhóm được thiết lập. Nhiều nhóm quan hệ được thiết lập ngầm không thể ngăn chặn nổi do sự hấp dẫn của các quan hệ lợi ích và thậm chí quyền chức. Sự kiểm soát các chuẩn mực có nguy cơ lơi lỏng do sự không tương thích của một số chức năng xã hội do những phần tử cá nhân chủ nghĩa và thoái hóa biến chất thao túng. Tâm lý gia trưởng vẫn còn khá đậm nét trong một số chủ doanh nghiệp. Trường hợp này có ảnh hưởng tiêu cực tới các loại hình doanh nghiệp vốn nhà nước hơn các doanh nghiệp phi nhà nước. Mâu thuẫn giữa các cấp quản lý trong nội bộ doanh nghiệp không thể tránh khỏi do tâm lý “chỉ có được mà không có mất”. Mặt khác cơ cấu và khoảng cách bất bình đẳng xã hội ngày càng rộng, làm cho mâu thuẫn giữa các nhóm lợi ích trong doanh nghiệp cũng như giữa các doanh nghiệp ngày càng tăng.
Ngoài ra, lối sống văn hóa ngoại lai với tư tưởng hưởng lạc có xu hướng tăng mạnh do khả năng tự chủ kinh tế của một số chủ doanh nghiệp.
5. Một số kiến nghị và dự báo
Trong điều kiện hội nhập, nhiều nhân tố văn hóa và kinh tế tác động mạnh đến sự phát triển của các doanh nghiệp. Do vậy việc phát huy những nhân tố văn hóa truyền thống tích cực như tinh thần dũng cảm, tính cộng đồng, tính tự trọng, tự tôn dân tộc, tính mềm dẻo bền bỉ, cùng với những giá trị đạo đức như: trọng tài, trọng đức, biết ơn và chung thủy với bạn bè đối tác… vv…, sẽ là những nhân tố tích cực giúp các nhà doanh nghiệp thích ứng và thành công trong môi trường rộng mở trên toàn thế giới.
Mặt khác việc trau dồi tri thức nâng cao hiểu biết, nhận thức sâu rộng về các nền văn hóa của các nước, các dân tộc và đặc biệt là các đối tác truyền thống và tiềm năng.
Cần nhanh chóng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tính tự chủ sáng tạo của cá nhân khi gắn họ với lợi ích của chính mình. Đồng thời thành lập một số doanh nghiệp nhà nước có đủ vốn và năng lực điều hành để duy trì một số lĩnh vực kinh tế then chốt giữ thế ổn định cho kinh tế nhà nước.
Tập trung và tăng cường đầu tư cho công nghiệp chế biến và dịch vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp. Với vài điểm nhận xét và phân tích trên đây, có thể hy vọng vào nền doanh nghiệp Việt Nam sau năm 2025 và một nước công nghiệp phát triển sau năm 2030.
Tài liệu tham khảo
1. Xem “The Sociological of Max Weber” trong cuốn: Clasical sociological theory edited by Craig Calhoun, Blackwell Publishing, 2006, P:223-235
2. Vũ Hào Quang, Xã hội học quản lý, ĐHQGHN, 2004, tr.17-18
3. Phan Huy Lê, Chủ nghĩa yêu nước từ truyền thống đến hiện đại, KHXH 01-10, Năm 2002
4. Báo cáo của chính phủ tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 12, ngày 20 tháng 5 năm 2009
5. Leadership and the new science, 1994, Margaret J.Wheatley, Berett-Koeler Publishers.
6. Principles of Operations. Research for Management, 1988, Frank S.Budnick and the othes, Irwin.
7. Principles of Management, 1981, Louis E.Boone and David L.Kurtz, Radom house
8. Contemporary sociological theory, 2002, Craig Calhoun, Josheph Gerteis, Blacwell Publishing
9. Xã hội học tổ chức, 2001, S.S .Phơ-rô-lôp, NXB.Garơđaricki. Matxcơva
_____________________
Chú thích: GS.TS Vũ Hào Quang hiện công tác tại Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội – Ban tuyên giáo Trung Ương. Đây là bài tham luận của Ông tại Hội thảo về Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam trong toàn cầu hóa tổ chức tại Hà Nội ngày 21/5/2009 vừa qua. Được sự đống ý của tác giả, chúng tôi xin giới thiệu trên trang web.vanhoahoc.edu.vn.
Nguồn: Tác giả