1. Văn hóa doanh nhân - một chủ đề vừa học thuật vừa thực tế
Trước hết, xin hoan nghênh Trung tâm văn hoá doanh nhân đã dấy lên được không khí vừa học thuật vừa thực tiễn xoay quanh chủ đề “văn hoá doanh nhân”, một chủ đề rất thời sự, rất “nóng” mà thực tiễn phát triển sôi động của đất nước sau 20 năm đổi mới đã đặt ra, cũng là chủ đề rất có ý nghĩa về mặt học thuật.
Sự thực, “văn hoá doanh nhân” là thuật ngữ khá quen thuộc với nhiều ngôn ngữ trong hàng trăm năm nay, nếu không muốn nói là hơn. Người ta đã tìm thấy các tài liệu nói về đạo đức nhà buôn ở Hi Lạp cũng như ở Trung Hoa ngay từ thời cổ đại(1). ở nước ta, thái độ nghi ngờ và bàn cãi về “xảo thuật”, “xảo trí” trong giao lưu buôn bán cũng đã xuất hiện vào những thế kỉ XVIII - XIX, khi các nhà Nho tiếp xúc với văn minh phương Tây. Tuy nhiên, việc thảo luận chỉ bắt đầu đi vào nội dung của vấn đề văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nhân khi chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường và cũng là lúc Việt Nam chủ động hưởng ứng “Thập kỉ quốc tế về văn hóa và phát triển, 1986 - 1995” do UNESCO tổ chức.
Đặc biệt, từ ba năm nay, khi Trung tâm văn hóa doanh nhân được thành lập, với việc coi Văn hóa doanh nhân là khái niệm công cụ (paradigm) để triển khai các hoạt động của mình, Trung tâm đã làm cho khái niệm này được xã hội biết đến như một vấn đề đáng quan tâm của bản thân đời sống xã hội trên đường thực hiện mục tiêu tối thượng của sự phát triển - dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trung tâm đã chủ động tổ chức nhiều hội thảo, bàn luận về vấn đề này. Và, văn hoá doanh nhân, do vậy, đã nổi lên như là một chủ đề vừa lí tưởng, mang dáng dấp một tầm nhìn vừa gần gũi, thiết thực. Câu hỏi: có nên và có thể xây dựng được một mẫu hình văn hoá doanh nhân chung cho mọi doanh nhân Việt Nam hay không đã trở thành cái ám ảnh tâm trí của không ít người. Đó là công lao của Trung tâm văn hoá doanh nhân. Từ nay, rõ ràng đây là vấn đề không dễ gì lãng quên trong sinh hoạt học thuật cũng như trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
2. Thực chất vấn đề - mẫu hình chung của văn hoá doanh nhân
Xin được nói về ý kiến hoài nghi sự tồn tại của khái niệm văn hóa doanh nhân. Đây là ý kiến của Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến(2). Ông nêu vấn đề, biết đâu sau khi thảo luận ngã ngũ thì khái niệm văn hóa doanh nhân sẽ không còn nữa và lúc đó người ta buộc phải hiểu với nhau rằng không có cái gọi là văn hoá doanh nhân. Không loại trừ đó cũng là một khả năng. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng, khi người ta bắt đầu nghi ngờ, thì đôi khi chính sự nghi ngờ lại cũng là một chỉ báo nói lên bản thân điều bị nghi ngờ đang tồn tại thực. Sự tiến triển của tri thức nhân loại không ít trường hợp đã đi theo con đường đó. Vả lại, với văn hóa và văn hóa của người tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh, tức là văn hóa doanh nhân, thì thật khó có cơ sở để phải nghi ngờ - cái phải bàn đã tồn tại như là một thực thể bằng xương bằng thịt trong đời sống xã hội, đã ít nhiều gắn vào tâm thức của con người, buộc người ta phải suy nghĩ.
Điều thú vị là ở chỗ, mặc dù nghi ngờ văn hoá doanh nhân, nhưng toàn bộ tham luận của GS. Hoàng Ngọc Hiến lại toát lên tinh thần ngược lại, tức là khẳng định có văn hoá doanh nhân. Chỉ có điều, vấn đề được nêu, thực ra không phải là có hay không có văn hoá doanh nhân. Mà là, có một mẫu hình chung về văn hoá doanh nhân cho các doanh nhân hay không? Hay cụ thể hơn, ở Việt Nam có thể xây dựng một mô hình chung nhất, phổ quát nhất làm mẫu cho tất cả các doanh nhân trong điều kiện đang mở cửa hội nhập hiện nay hay không? Nếu có thì mô hình chung nhất ấy gồm những tiêu chí nào? Và nếu không có thì tại sao: phải chăng việc xây dựng một mô hình như vậy là quá ngây thơ, hay sẽ không có doanh nhân nào hưởng ứng và đi theo một mô hình như vậy?
Rõ ràng, đây là chuyện mà chúng ta đang phải thảo luận, cũng là lí do tồn tại của Trung tâm văn hoá doanh nhân.
3. Văn hoá doanh nhân - cái có thực trong đời sống xã hội
Tôi đồng ý với nhiều ý kiến khẳng định sự tồn tại của khái niệm văn hóa doanh nhân và việc cần thiết phải xây dựng mô hình chung về văn hóa doanh nhân. Rất khó hoài nghi, văn hoá doanh nhân là một khái niệm phản ánh cái có thực trong đời sống xã hội. Trong hai thập niên đổi mới, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng; trong suốt 15 năm (1990 - 2003) tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,9%(3). Cùng với sự đi lên của đất nước, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đang sôi động hoạt động. Lớp người là chủ thể của các doanh nghiệp đó đang lớn dần và ngày càng đóng góp nhiều cho đất nước. Hoạt động của họ, dĩ nhiên, được phản ánh trong văn hóa, trở thành văn hóa, và là một dạng của văn hóa. Phẩm cách, lối sống, nếp tư duy, tác phong làm việc... của họ là cái cơ bản của dạng văn hóa ấy. Đó là văn hóa doanh nghiệp, nếu nhìn từ góc độ văn hóa hoạt động, hay văn hóa doanh nhân, nếu giới hạn cái nhìn chỉ bao gồm những gì thuộc văn hóa làm người.
Dù còn rất lâu nữa mới đạt tới quy mô và trình độ mong đợi của nhiều người, song lớp doanh nhân đã tồn tại một cách thực tế, thì không có lí gì lại không có những phẩm chất tinh thần, những chuẩn mực hành vi, những giá trị làm người, những khuôn thước ứng xử... mà lớp người ấy ghi dấu ấn vào đời sống tinh thần xã hội. Nghĩa là, về nguyên tắc, có dạng văn hoá của lớp người ấy. Còn văn hoá của lớp người cụ thể ấy có diện mạo thế nào, có cần phải được định hướng hay không, và có cần phải được xây dựng thành một khuôn mẫu chung để định hướng giá trị cho các doanh nhân và cho các tầng lớp xã hội khác hay không, thì điều đó cần thiết phải thảo luận thêm. Hiển nhiên, không ai phủ nhận, trong văn hóa đó có những thứ cần được gây dựng, có những thứ cần phải điều chỉnh, thậm chí có những thứ cần phải lọc bỏ (có người quan niệm văn hóa chỉ gồm toàn những giá trị tốt đẹp, nhưng ngay cả những cái tốt đẹp nhất đôi khi cũng không dùng được).
4. Đừng sách vở, cũng không nên thổi phồng văn hóa doanh nhân
Về việc định nghĩa khái niệm văn hóa doanh nhân, kinh nghiệm nghiên cứu nhiều năm nay, đặc biệt những năm tham gia vào Thập kỉ quốc tế về văn hóa và phát triển văn hoá 1986 - 1995 của UNESCO cho chúng ta thấy rằng, “lối duy danh định nghĩa” về văn hoá là con đường rất có thể không đi đến đâu. Thế giới đã nói đến hàng trăm định nghĩa văn hoá. Creber và Klukhon thống kê có 257 định nghĩa. Thậm chí PGS. Phan Ngọc nói có đến 1000 định nghĩa. Nhưng nhà nghiên cứu Bùi Thiết lại chỉ thừa nhận có khoảng 30 định nghĩa; ông coi việc nói tới hàng trăm định nghĩa văn hóa là không đáng tin cậy. Nghĩa là bản thân chuyện duy danh định nghĩa về văn hoá là có vấn đề, và vì vậy, đây chắc không phải là con đường mà chúng ta cần theo. Tôi hình dung, mặc dù việc đi tìm hiểu khái niệm văn hoá doanh nhân là hết sức cần và có ý nghĩa, song chỉ nên xác định nó như một khái niệm công cụ, tức là khái niệm có tính chất thỏa thuận để tiện thảo luận cho rõ vấn đề.
Trên con đường đi tìm nội hàm của văn hóa doanh nhân, có ý kiến cho rằng, cần phải coi văn hoá doanh nhân như là một phẩm chất đặc biệt của xã hội. Giá trị của dạng văn hóa này, bấy lâu nay do những nguyên nhân chủ quan và khách quan nào đấy, đã bị nhìn nhận không đúng và bây giờ cần phải tôn vinh, trả lại cho nó cái vị trí xứng đáng của nó. Tôi e rằng nếu đi theo hướng này thì việc xác định khái niệm văn hoá doanh nhân có thể lại sa vào thái cực khác.
Nếu như việc duy danh định nghĩa đến mức quá trừu tượng hoặc quá sách vở về khái niệm văn hoá doanh nhân là một hướng sai lầm, thì việc thổi phồng văn hoá doanh nhân, thần thánh hoá hoặc thi vị hóa văn hoá doanh nhân cũng là một sai lầm kiểu khác. Không nên quá thổi phồng văn hoá doanh nhân, không nên ngầm hiểu khái niệm văn hóa doanh nhân chỉ bao hàm những nét đặc trưng thượng lưu hoặc phi thường nào đó dành riêng cho một tầng lớp xã hội trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Một thái độ như vậy có thể chỉ làm hại chứ chưa chắc đã làm lợi cho tầng lớp doanh nhân.
5. Tâm lí định kiến với người giàu, với làm giàu
Quả thực cho đến nay, trong dư luận xã hội, trong bầu không khí xã hội nói chung, vẫn còn có những người mang thái độ định kiến, dị nghị, kì thị với tầng lớp doanh nhân và với “cái gọi là văn hoá doanh nhân”. Điều này không phải không có lí do của nó.
Đời sống xã hội với thương trường, ở thời nào cũng vậy, không ít người vẫn lên án đồng tiền. Nguyên do là thời nào cũng có những người sử dụng đồng tiền theo mục đích vụ lợi của nó, bất chấp đạo đức xã hội. Mặt trái của đồng tiền, từ Đông sang Tây, nói chung người ta đều ngại cả.
Hơn thế nữa, Việt Nam lại là một nước phương Đông, thấm đẫm văn hoá Nho giáo. Văn hoá Nho giáo, mặc dù đang được đánh giá là có nhiều ưu điểm, thậm chí là nguyên nhân làm cho một vài nước châu á “hóa rồng” (trở thành những nước công nghiệp mới - NICs), song không thể phủ nhận, văn hoá Nho giáo hằng nghìn năm nay luôn kì thị với buôn bán, không tôn vinh người giàu, người biết làm giàu. Giá trị cao của văn hoá Nho giáo không phải là “phú”. Ngay cả khi phương Tây đã bước vào xã hội tư bản thì ở phương Đông người ta vẫn chỉ biết tôn thờ “Phúc, lộc, thọ, khang, ninh”. “Phú” chỉ như một thứ phản tỉnh của dư luận xã hội chống lại văn hoá dạng văn hoá có tính chất chính thống. Vì vậy, tâm lí dị nghị, tâm lí định kiến, kì thị trong văn hoá Nho giáo là cái khó phủ nhận. ở Việt Nam, nét tâm lí ấy không phải là cái gì lạ. Gần đây, PGS. Phan Ngọc có viết rằng, kì thị với làm giàu, với người giàu là chuyện tưởng tượng, Khổng học không có thái độ đó(4). Nhưng nhiều người không đồng ý với ý kiến này.
Thêm vào đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa của chúng ta trong gần một thế kỉ qua thực hành cơ chế hành chính - bao cấp, phủ nhận cơ chế thị trường. Toàn bộ cơ chế này với quan điểm không gắn chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường, không thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên sự thực là xa lạ với văn hóa của sự giàu có. Hệ quả của điều đó là thái độ nghi kị, dèm pha, không tôn vinh văn hoá doanh nhân. Định kiến, thậm chí kì thị người giàu là chuyện có thật chứ không phải ngộ nhận. Tâm lí ấy hiện nay còn đầy rẫy trong xã hội, thậm chí cả trong giới học thuật, giới doanh nhân nữa.
Vì vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá doanh nhân như thế nào để tránh được định kiến ấy là hết sức cần thiết.
6. Doanh nhân - thuyền trưởng con thuyền doanh nghiệp
Vậy có thể xác định khái niệm văn hóa doanh nhân như thế nào.
Nên lưu ý rằng, văn hóa doanh nhân thuộc loại các phạm trù văn hóa của sự làm người, lĩnh vực mà lâu nay ta nghiên cứu chưa được bao nhiêu. Sau nhiều năm nghiên cứu, giới lí luận đã đạt được những thành tựu nhất định trong khám phá về vai trò, vị trí của văn hóa nói chung, về các loại hình hoạt động văn hóa, về đặc trưng văn hóa các dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng, miền, cộng đồng... tuy nhiên, về văn hóa làm người, chẳng hạn, văn hóa làm thày - văn hóa làm trò (học trò), văn hóa làm người lãnh đạo - văn hóa công dân, văn hóa bác sỹ - văn hóa người bệnh, v.v... cho đến nay vẫn hầu như chưa được nghiên cứu, mặc dù đây là lĩnh vực nổi cộm nhiều vấn đề cần mổ xẻ.
Trong bối cảnh của những vấn đề như thế, văn hóa doanh nhân lại càng là một chủ đề cần phải dụng công khám phá. Nói nôm na, văn hóa doanh nhân là văn hóa để làm người lãnh đạo doanh nghiệp. Tôi đồng ý với GS. Hoàng Vinh rằng, từ “doanh nhân” đang được sử dụng trong khái niệm văn hóa doanh nhân không hoàn toàn theo nghĩa đen của nó(5). Chúng ta sử dụng từ này chỉ với nghĩa là một bộ phận của tầng lớp doanh nhân nói chung. Đó là những thuyền trưởng đứng đầu con thuyền doanh nghiệp của mình.
Nếu không muốn duy danh định nghĩa thì thể coi hình tượng người thuyền trưởng đứng đầu con thuyền doanh nghiệp phản ánh chính xác thuật ngữ doanh nhân mà ta đang sử dụng. Vậy hình tượng thuyền trưởng nói lên những gì về con người doanh nhân.
Dễ thấy nhất là trách nhiệm của những thuyền trưởng này hết sức nặng nề. Con thuyền doanh nghiệp của họ (và của xã hội) chìm hay nổi, đứng lại hay tiến lên, đi đúng luồng lạch hay xô vào thác ghềnh, bươn chải được ở đại dương toàn cầu hoá hay quẩn quanh trong vùng gió chướng... tất cả - họ phải chịu trách nhiệm. Họ là thuyền trưởng, họ có vai trò rất lớn và trách nhiệm rất nặng.
Nhưng trách nhiệm nặng của người thuyền trưởng mà ta hiểu được thường vẫn chưa bao hàm hết những tai họa của sự rủi ro. Tôi muốn nhấn mạnh điều này. Có người nói rằng, kinh tế học chính trị mấy chục năm nay không tính đến rủi ro của người thuyền trưởng. Nói chính xác hơn, nội hàm của khái niệm giá trị thặng dư không có sự hiện diện của rủi ro. Vấn đề là ở chỗ, khi con thuyền doanh nghiệp gặp rủi ro, thuyền trưởng là người phải gánh chịu tất cả. Người làm thuê nhiều lắm cũng chỉ đến mất việc. Trong khi đó, ông chủ mất cả con thuyền, mất cả cơ nghiệp và thường là rất khó gượng dậy để làm lại từ đầu. Đây là điều mà một số doanh gia đã cố diễn tả nhưng chưa thoát ý khi bàn đến cái gọi là vinh nhục trong hoạt động của họ. Điều này cần thiết phải được nghiên cứu sâu hơn.
Quả thật, doanh nhân được hưởng vinh quang nếu doanh nghiệp ăn nên làm ra, nhưng cũng buộc phải chấp nhận những những rủi ro mà người khác không phải gánh chịu.
7. Văn hóa doanh nhân - nhân cách của người biết làm giàu
Về một đặc trưng khác của con người doanh nhân cần phải được tính đến khi xác định khái niệm văn hoá doanh nhân là, doanh nhân là một dạng nhân cách đặc thù - dạng nhân cách lấy làm giàu làm mục tiêu cao cả của mình.
Có vẻ khó nghe khi ai đó lại nói làm giàu làm mục tiêu cao cả của họ. Đây chính là tâm lí dị nghị và thái độ “cảnh giác quá cao” trước hoạt động làm giàu. Dĩ nhiên, đối với toàn xã hội, đối với mỗi cộng đồng và đối với từng con người, kể cả doanh nhân, thì có thể sẽ rất đáng phê phán nếu làm giàu được coi là mục tiêu duy nhất cuối cùng. Nhưng mục tiêu duy nhất cuối cùng với mục tiêu cao cả là hoàn toàn khác nhau. Liệu có gì đáng chê trách khi ai đó coi làm giàu là mục tiêu cao cả của mình, bởi đã ôm mộng doanh nhân thì cũng ít ai dám liều đến mức coi làm giàu là mục tiêu duy nhất cuối cùng của họ. Cùng với mục tiêu làm giàu còn là những mục tiêu khác của sự thành đạt, mà điểm khác biệt của doanh nhân là các mục tiêu khác này luôn gắn chặt với thành quả của sự làm giàu. Nói cách khác, nếu đối với nhà quản lí, người trí thức hoặc các chính khách... muốn thành đạt không nhất thiết phải làm giàu, thì đối với doanh nhân, làm giàu là tiền đề tối cần thiết cho sự thành đạt. Thành thử, nói làm giàu là mục tiêu cao cả của doanh nhân là cách nói bao hàm tất cả những giá trị văn hóa - đạo đức mà người ta có thể nghĩ ra được.
Vả lại, nếu có hiểu làm giàu theo nghĩa trần trụi của ngôn từ, thì cũng còn một câu hỏi nữa mà các doanh nhân buộc phải trả lời: việc làm giàu của doanh nhân chứa đựng bao nhiêu phần trăm là làm giàu cho cá nhân anh ta, bao nhiêu phần trăm là làm giàu chung cho doanh nghiệp, còn bao nhiêu là cho xã hội, cho đất nước. Đó là những tiêu chí định lượng cụ thể để đánh giá phẩm chất doanh nhân. Văn hóa doanh nhân là thước đo nhân cách của những người chủ doanh nghiệp biết làm giàu - trong khi làm giàu cho mình, họ đồng thời cũng làm giàu cho nhân viên của họ, cho doanh nghiệp của họ, cho xã hội và cho đất nước.
Một điểm khác về con người doanh nhân cũng cần phải được tính đến khi xác định khái niệm văn hoá doanh nhân là ý chí và phương pháp làm việc của tầng lớp doanh nhân. Quả thực, những người có chí làm giàu và biết cách làm giàu không nhiều. Có rất nhiều người muốn làm giàu hoặc đã thử làm giàu, song vì thiếu ý chí hoặc không biết tìm ra phương pháp hữu hiệu nên phải chịu thất bại. Người không có chí làm giàu, hoặc có chí làm giàu mà không dám thực hiện khát vọng của mình bằng những phương pháp thông minh thì cũng không thể thành doanh nhân được. Nghĩ như doanh nhân chắc có nhiều người, nhưng làm được như doanh nhân chắc chỉ có dăm bảy người. Vì thế có thể nói, có khát vọng làm giàu, biết dấn thân để làm giàu, dám chịu thua thiệt để làm giàu và biết cách làm giàu - đó mới là cái làm nên nhân cách doanh nhân.
8. Kết luận - định nghĩa văn hóa doanh nhân
Tóm lại, văn hoá doanh nhân là tập hợp của những giá trị căn bản nhất, những khuôn mẫu văn hoá xác lập nên nhân cách của con người doanh nhân. Đó là con người của khát vọng làm giàu, biết cách làm giàu và dám dấn thân để làm giàu, dám chịu trách nhiệm, dám chịu rủi ro đem toàn bộ tâm hồn, nghị lực và sự nghiệp của mình ra để làm giàu - làm giàu cho mình, cho doanh nghiệp và cho xã hội.
Xin định nghĩa khái niệm văn hóa doanh nhân như vậy.
Nguồn: Tạp chí văn hóa nghệ thuật
Chú thích:
(1) Xem: Alain Caille’, "Thị trường từ đâu đến", Người đưa tin UNESCO số 11/1996.
(2) Hoàng Ngọc Hiến. Tham luận tại Hội thảo Văn hóa doanh nhân. Hà Nội, 23/9/2005.
(3) Human Development Report 2005. Published for the United nations development Programme. c. 268. Theo Báo cáo này, GDP nước ta đạt 39,2 tỉ US$, tính theo đầu người là 482 US$ = 2490 US$ (PPP).
(4) Phan Ngọc. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Phần “Những hiểu lầm về Khổng học”, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2002, tr. 154-169.
(5) GS. TS. Hoàng Vinh. "Bàn về thuật ngữ văn hóa và văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân từ góc nhìn của văn hóa học xã hội". Tham luận tại Hội thảo Văn hóa doanh nhân. Hà Nội, 23/9/2005.