“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” [Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa 2009: Điều 1].
Theo quy định tại Thông tư 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc Quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thì di sản văn hóa phi vật thể bao gồm 07 loại hình. Trong đó, Nghề thủ công truyền thống là một loại hình di sản văn hóa phi vật thể.
Trong khuôn khổ bài viết này, Nghề nuôi tôm được hiểu là một nghề thủ công truyền thống. Nghề là một danh từ “chỉ việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội” [Hoàng Phê (cb) 1997: 676]; thủ công là “lao động sản xuất bằng tay với công cụ giản đơn, thô sơ” [Hoàng Phê (cb) 1997: 659]; truyền thống là “thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác” [Hoàng Phê (cb) 1997: 1053]. Như vậy, nghề thủ công truyền thống là một công việc được làm theo thói quen chỉ bằng những công cụ đơn giản và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nghề nuôi tôm có lẽ là một nghề thủ công truyền thống được phát kiến muộn nhất trong các loại hình nghề thủ công truyền thống. Nó được xem là nghề thủ công truyền thống bởi lẽ nó chỉ được thực hiện bằng những công cụ thô sơ, đơn giản. Đặc biệt, để nuôi tôm thành công và đạt năng suất tốt, người nuôi tôm không chỉ dựa vào kiến thức khoa học mà còn phải am tường những tri thức dân gian, kinh nghiệm được truyền thừa từ những người đi trước. Bên cạnh đó, những lễ nghi, nghi thức dân gian, kiêng kỵ (hèm) là những miền giao thoa giữa văn hóa trồng lúa nước, chăn nuôi,… được người thực hành nuôi tôm ứng dụng và luôn có ý thức gìn giữ.
Cà Mau là một vùng đất trẻ mới được khai phá. Vùng đất này có hai cảnh quan môi sinh văn hóa đặt hữu là cảnh quan văn hóa vùng ngập mặn (vùng nước mặn) bao gồm một số huyện như Năm Căn, Ngọc Hiển, một phần huyện Phú Tân... và cảnh quan văn hóa vùng ngập úng phèn (vùng nước ngọt) bao gồm các đơn vị hành chính cấp huyện còn lại. Tuy nhiên thời gian gần đây, do biến đổi khí hậu và giá trị kinh tế đặc biệt của con tôm mang lại nên đa phần các vùng đất ngập úng phèn với những nghề truyền thống như trồng lúa, nuôi cá nước ngọt, trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, gia cầm,… đã được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy hải sản như huyện Đầm Dơi, Cái Nước, Phú Tân,... Trong đó, con tôm là vật nuôi đặc hữu chiếm phần lớn diện tích. Sự chuyển đổi đó không làm mất đi cảnh quan văn hóa vốn có của vùng đất ngập úng phèn mà nó còn tạo nên một vùng giao thoa văn hóa đặc biệt với những biểu hiện đặc trưng của các lớp giao lưu, tiếp biến. Nó liên tục kế thừa và tiếp tục, thường xuyên duy trì, phát huy những giá trị văn hóa, văn nghệ dân gian của vùng đất ngập úng phèn để những giá trị văn hóa, văn nghệ dân gian đó vẫn trường tồn trên nền của cảnh quan văn hóa vùng ngập mặn.
Khi nói đến Cà Mau, nhiều người thường liên tưởng ngay đến cánh rừng bạt ngàn tràm, đước. Nhưng Cà Mau không chỉ có đước, có tràm. Cà Mau còn có hơn ba trăm ngàn hecta mặt nước nuôi tôm. Diện tích đó đã mang lại cho Cà Mau gần 159 ngàn tấn sản lượng tôm các loại trong năm 2016 [PV và TTXVN 2017]. Có người ví von: Cà Mau là mỏ tôm của cả nước, con tôm ở Cà Mau cũng giống như than đá ở Quảng Ninh. Nhận định này xem ra cũng có thể chấp nhận được.
Sản lượng tôm ở Cà Mau nhiều đến nỗi người xưa đã kiến tạo nên một địa danh để ghi dấu. Địa danh Bảy Háp được hình thành từ câu chuyện của một người làm nghề đóng đáy trên khúc sông này. Năm đó, chỉ với hai miệng đáy mà người chủ của nó đã thu hoạch được 7 háp tôm khô. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng háp là một đơn vị đo lường trọng lượng (phân, chỉ, lượng, cân, yến, tạ, đàm, háp). Theo đó thì 10 tạ (1 tạ = 60 kg) = 1 đàm, 10 đàm = 1 háp, như vậy 7 háp = 42.000 kg [Nghê Văn Lương 1972]; nhưng cũng có một cách giải thích khác háp là đơn vị trọng lượng tương đương 50kg: 1 háp là 10 yến, 1 yến là 10 nan, 1 nan thì phỏng chừng 1 livre (= nửa ký) (P. de Béhaine) [Lê Trung Hoa 2015]. Vậy 7 háp tương đương 350kg. Dù Háp được hiểu theo cách giải thích nào thì bản thân nó cũng đã tạo nên một dấu ấn đặt biệt để sản sinh ra một địa danh đặc thù cho vùng đất này.
Nghề nuôi tôm ở Cà Mau không biết xuất hiện từ khi nào nhưng chắc là sau mùa thu hoạch bảy háp tôm khô của người làm nghề đóng đáy kể trên (khoảng đầu thế kỷ XX) và phát triển trong khoảng vài mươi năm trở lại đây. Tôm được nuôi trong vuông gọi là vuông tôm. Vuông tôm là diện tích dùng để nuôi tôm được bao bọc xung quanh bởi một bờ vuông rộng khoảng 0,5m. Phía trong là một hệ thống kênh chạy dọc theo bờ, rộng khoảng 1,5m, sâu khoảng 1,8m. Đây là nơi để con tôm sinh sống và phát triển. Ở giữa là một trảng đất bằng phẳng, thấp hơn bờ vuông khoảng 0,7m. Trảng đất này có thể được trồng lúa, bồn bồn, đước để tạo môi sinh và thức ăn cho tôm. Nước dùng để nuôi tôm thường là nước mặn hoặc nước lợ. Nước được đưa từ sông/kênh vào gần đầy mặt vuông, thấp hơn bờ vuông khoảng 0,2m. Mặt nước dùng để nuôi tôm là toàn bộ diện tích bên trong bờ vuông, kể cả trảng đất ở giữa vuông.
Nghề nuôi tôm ở Cà Mau ban đầu chỉ là nuôi quảng canh. Quảng canh là một hình thức nuôi tôm dựa hoàn toàn vào thức ăn tự nhiên trong vuông tôm. Mật độ tôm trong vuông thường rất thấp do dựa hoàn toàn vào nguồn giống tự nhiên, diện tích vuông tôm thường phải lớn để có được năng suất cao. Cách nuôi này thường tốn rất ít vốn, chủ yếu là cải tạo, sên vét vuông tôm, nhân công cũng không cần phải nhiều lắm trong một diện tích nuôi tôm nhất định. Hình thức nuôi tôm này đòi hỏi diện tích vuông tôm phải có ít nhất là một mặt tiền tiếp giáp với sông, kênh. Nối liền giữa sông/kênh với vuông tôm là một miệng cống để lấy nước vô, ra. Cống hay miệng cống thường được làm bằng gỗ hoặc bê-tông có hai vách, khoảng giữa hai vách là nơi để dòng nước lưu thông giữa vuông tôm và sông/kênh có khẩu độ khoảng trên/dưới 1,2m. Để chặn dòng nước sau khi đã lấy nước đầy vuông, người ta dùng một miếng ván có chiều ngang phù hợp với khẩu độ của miệng cống, miếng ván này được thiết kế treo trên một ròng rọc để có thể nâng lên hoặc hạ xuống khi cần thiết. Thông thường, mỗi tháng đều có một đợt lấy nước vô (1 – 2 ngày) vào lúc triều cường (độ giữa tháng âm lịch) và một đợt xổ vuông (thu hoạch) cũng khoảng 1 – 2 ngày vào những ngày triều kém (độ cuối tháng âm lịch).
Khi xổ vuông, người nuôi tôm dùng một chiếc lú có miệng rộng phù hợp với miệng cống, đặt ở phía ngoài miệng cống (nơi tiếp giáp trực tiếp với sông/kênh). Việc làm này sẽ có tác dụng giữ con tôm lại trong lú khi tấm ván chặn dòng nước được nâng lên để nước trong vuông thoát ra sông/kênh. Lú là một công cụ bằng lưới, được thiết kế đặc biệt để có thể cho tôm chui vào mà không thể ra.
Về sau còn có hình thức nuôi quảng canh cải tiến. Đây là hình thức nuôi dựa trên nền tảng của hình thức nuôi quảng canh nhưng có bổ sung hoặc là con giống ở mật độ thấp (0,5 - 2 con/m2) hoặc là thức ăn theo tuần, đôi khi bổ sung cả con giống và thức ăn.
Đối với một hộ bất kỳ nào nuôi tôm bằng hình thức quảng canh hay quảng canh cải tiến thì công việc quan trọng nhất là đặt miệng cống. Cống được xây dựng xong thì trước khi đặt cống vào vị trí đã được định trước phải được thiết một lễ cúng để cầu mong việc nuôi tôm của mình được thuận lợi.
Lễ này được phỏng theo lễ cúng ông chuồng, bà chuồng (là những vị thần phù hộ trong việc chăn nuôi). Cũng có ý kiến cho rằng đây là lễ cúng Bà Thủy Long Thần nữ hay còn được gọi là Bà Thủy, một vị thần cai quản sông nước. Ông chuồng, bà chuồng hay Bà Thủy đều là những phiếm thần. Người dân Cà Mau sinh sống ở cảnh quan văn hóa vùng ngập úng phèn thường tôn thờ để được phù hộ trong việc chăn nuôi hay bảo hộ trong quá trình sinh hoạt, thường xuyên đi lại và sinh sống trên mặt nước. Nhưng đối với người dân sống ở cảnh quan văn hóa ngập mặn, họ thường chỉ thấy thờ Cá Ông (mà hình tượng là cá voi) để bảo hộ những người thường xuyên đánh bắt trên biển. Đến khi người Hoa đến với vùng đất này, họ lại mang theo một vị nhân thần để tôn thờ nhằm phù hộ cho những người đi biển, đó là Bà Thiên Hậu (còn được gọi là A Phò) [Huỳnh Thăng 2016]. Đây là một nét giao thoa, tiếp biến rất rõ giữa hai cảnh quan văn hóa ở Cà Mau.
Nhưng không phải ngày nào cũng có thể đặt cống, để chọn được ngày lành tháng tốt, người nuôi tôm phải nhờ thầy phong thủy coi ngày cụ thể để xác định. Thậm chí một số người còn đến ngôi Miếu Bà Thủy gần đó để xin keo chọn ngày, giờ. Lễ cúng được chuẩn bị từ trước, sáng sớm, trước khi đặt miệng cống, chủ vuông bày biện lễ vật trên một chiếc bàn kế bên nơi miệng cống sẽ được đặt. Lễ vật thông thường là bánh mức, trà, quả, hương đăng, giấy tiền vàng mã,…
Kế bên bàn lễ cúng chính, đặt thấp hơn hoặc có thể bày trực tiếp xuống đất là mâm lễ cúng cô hồn (có người gọi là kiếng cô hồn). Do theo quan niệm dân gian, nghề nuôi tôm là một nghề hạ bạc, nghề bà cậu nên cần phải cúng các loại cô hồn các đảng, những người hữu danh vô vị, hữu vị vô danh để khỏi bị quấy phá. Lễ vật dùng để cúng cô hồn thông thường là bộ tam sên (tam sanh) đại diện cho ba loài chúng sinh (thấp sinh, noãn sinh, thai sinh), thông thường được đại diện là một miếng thịt heo, một quả trứng, một con tôm (hoặc cua, mực) và các loại giấy tiền vàng mã…
Ở phía đầu đất hoặc hậu đất, nơi có ngôi miếu Thổ công của gia đình, người ta cũng bày một mâm lễ cúng đất đai dân trạch. Đây thực chất là lễ cúng Thổ địa gia gia, một vị thần chăm lo cho con người sinh sống trên thuộc đất của mình. Thức cúng cũng giản đơn là những loại đồ ngọt: bánh, trái, hoa, quả, giấy tiền vàng mã,…
Đặc biệt khi cúng đất đai thì không thể không có rượu trắng (không sử dụng rượu thuốc hoặc rượu tây, rượu có màu) bởi theo quan niệm dân gian, thổ địa gia gia đã từng bị hạ độc bởi rượu thuốc. Nên mặc dù rất thích rượu nhưng thổ địa gia gia tuyệt đối không dùng rượu thuốc hoặc các loại rượu có màu. Thông thường, vật phẩm cúng thổ địa gia gia chỉ là một nải chuối chín, nhưng khi cúng, người cúng phải lột vỏ một trái và ăn trước nữa trái để minh chứng với Thổ địa gia gia rằng nải chuối này không có độc, có như vậy ông mới chứng cho.
Sau khi cúng, kiếng xong thì những người thợ hoặc anh em bà con, chòm xóm đặt cống xuống vị trí đã được xác định. Tiếp theo, chủ vuông tôm thiết lễ mời những người tham gia một bữa tiệc nhỏ gọi là cảm ơn những người đã giúp đỡ công việc đặt cống hoàn thành.
Song song đó, người dân làm nghề nuôi tôm ở Cà Mau còn nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh và thâm canh. Hình thức bán thâm canh là hình thức nuôi tôm nhưng có dùng phân bón hữu cơ rải xuống vuông tôm để gia tăng thức ăn tự nhiên trong trong vuông và bổ sung thức ăn từ bên ngoài như thức ăn tươi sống, cám gạo,... giống được thả nuôi ở mật độ tương đối cao (10 - 15 con/m2) trong diện tích ao nuôi nhỏ (2000 - 5000 m2). Hình thức thâm canh là hình thức nuôi dựa hoàn toàn vào thức ăn bên ngoài (thức ăn viên có bán sẵn trên thị trường hay kết hợp với thức ăn tươi sống), thức ăn tự nhiên không quan trọng. Mật độ thả cao (15 - 30 con/m2). Diện tích vuông tôm từ 1.000m2 - 1 ha, tối ưu là 5.000 m2. Nuôi tôm theo hình thức này thì người nuôi tôm không phụ thuộc vào con nước (triều cường hoặc triều thấp), do đó vai trò của cống/miệng cống không còn quan trọng. Trong quá trình nuôi, người nuôi tôm theo dõi mức độ phát triển của con tôm, khi phát hiện tôm chạy thì người nuôi tôm sẽ dùng lú đặt trực tiếp dưới lòng kênh (không đặt lú ở miệng cống như hình thức nuôi tôm quảng canh hay quảng canh cải tiến) để thu hoạch tôm, việc thu hoạch này có thể kéo dài từ 3 – 5 ngày/đợt hoặc đến khi hết tôm trong vuông. Sau đó họ lại bơm nước mới vào vuông, thả tôm giống, chăm sóc và đợi đến đợt thu hoạch tiếp theo.
Hiện nay, ở Cà Mau còn có một hình thức nuôi tôm khác là nuôi tôm công nghiệp. Hình thức này khác hoàn toàn với các hình thức nuôi tôm đã nói ở trên. Người nuôi tôm ứng dụng các công nghệ hiện đại trong việc việc nuôi tôm nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao nhất.
Tuy nhiên, dù nuôi tôm bằng hình thức nào thì mỗi tháng âm lịch, vào ngày mùng 2 và ngày 16, mỗi chủ vuông tôm đều thiết một lễ nhỏ để cúng cô hồn. Đặc biệt là ngày Rằm tháng Bảy, ngày cúng cô hồn chính thức trong dân gian, người nuôi tôm thường thiết lễ cúng thịnh soạn hơn các ngày khác trong năm. Có người làm cỗ để cúng, nhưng cũng có người làm thịt chó để cúng bởi họ quan niệm cúng chó = có trúng. Trúng đây là được mùa tôm bội thu. Đây là cách nói ví von cốt để cho vui nhưng cũng có một số người áp dụng thực hành.
Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Thăng (nhật ký điền dã – TG) thì bên cạnh việc dùng thịt chó để cúng vuông, dân gian Cà Mau còn dùng trứng/hột vịt lộn để làm vật cúng. Việc dùng trứng/hột vịt lộn để làm vật cúng là thể hiện ước muốn con tôm trong vuông mau chóng lột xác, lớn nhanh. Cũng có người cho rằng lễ vật cúng vuông bằng trứng/hột vịt lộn là để cầu mong con tôm có sức “lộn” mạnh, có nghĩa là cầu mong con tôm có sức khỏe tốt. Nhìn chung, đây là một ám thị tâm lý với mong muốn con tôm mạnh khỏe, lớn nhanh.
Trong quá trình nuôi tôm, nếu có tiệc tùng hay tổ chức cuộc nhậu bên vuông tôm thì nhất thiết không được có món tôm nướng. Theo quan niệm dân gian của người nuôi tôm, tôm nướng có mùi rất đặc trưng. Nếu nướng tôm bên bờ vuông thì con tôm dưới vuông sẽ bắt được mùi mà không dám lớn, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và năng suất tôm. Nhưng cũng có quan niệm cho rằng tôm nướng thường là loại tôm lớn, việc kiêng kỵ này cốt là vì tiếc của, để hạn chế việc bắt tôm đang nuôi làm mồi nhậu.
Bên cạnh việc thực hành các nghi thức tín ngưỡng, kiêng kỵ đó thì người nuôi tôm ở Cà Mau cũng cần có những tri thức dân gian nhất định để việc nuôi tôm đạt được năng suất cao. Những kiến thức dân gian được tích lũy kinh nghiệm nhiều đời từ việc quan sát quy luật thiên nhiên để định được ngày, giờ lấy nước; quan sát màu nước để biết được chất lượng nước, nguồn thức ăn tự nhiên cho con tôm mà bổ sung phân bón hữu cơ, bổ sung thức ăn; quan sát quá trình phát triển và sinh hoạt của con tôm để biết được thời điểm tôm chạy để tiến hành thu hoạch;… tất cả những tri thức dân gian đó là một nguồn tư liệu vô cùng quý giá cần được kiểm kê, lưu giữ.
Ngày nay, nghề nuôi tôm ở Cà Mau còn sản sinh ra một nghề phụ nhằm đáp ứng nhu cầu con giống cho người nuôi tôm, bởi con tôm giống ngoài tự nhiên rất khó tìm. Đó nghề ép tôm giống, làm cho con tôm sinh sản. Con tôm bố mẹ được các ngư phủ đánh bắt từ biển khơi mang về bán cho chủ cơ sở hành nghề ép tôm giống. Sau khi tôm giống được ép sinh sản thành công thì sẽ bị cắt bỏ đôi mắt rồi thả về biển cả. Nhất thiết không được sử dụng tôm bố mẹ để làm thức ăn, việc kiêng kỵ này như một lời cảm ơn con tôm đã giúp đỡ mình trong việc sản xuất kinh doanh. Việc cắt bỏ mắt tôm để thả xuống biển cũng là một lời nhắc nhở, một hành vi mang tính ám thị cho các ngư phủ đánh bắt tôm biết rằng đây là con tôm bố mẹ đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, không còn khả năng sinh sản và người ngư phủ khi bắt được con tôm bị mất đôi mắt thì cũng phải thả trở lại biển khơi, tuyệt đối không dùng nó làm thức ăn.
Như vậy, nghề nuôi tôm ở Cà mau, căn cứ vào khái niệm di sản văn hóa phi vật thể (đã dẫn ở trên) có thể khẳng định rằng đây là một di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu ở Cà Mau. Nó là một sản phẩm được phát kiến trong quá trình lịch sử của người dân Cà Mau và nó gắn liền với cảnh quan môi sinh chứa đựng nó. Nghề nuôi tôm ở Cà Mau đã mang trong mình nhiều yếu tố giá trị văn hóa đặc trưng của vùng miền. Những giá trị văn hóa đó thể hiện tâm lý ứng xử của con người với thiên nhiên. Giá trị văn hóa đó còn mang dấu ấn của sự giao lưu tiếp biến, giao thoa của nhiều tín ngưỡng dân gian trong từng nếp nghĩ của những người thực hành. Những giá trị đó mang tính nhân văn sâu đậm của sự hàm ơn đối với con người, thiên nhiên, vật nuôi. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện những tri thức dân gian phổ quát trong nghề nuôi tôm ở Cà Mau có khả năng áp dụng rộng rãi, lâu dài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hoàng Phê (cb), 1997, Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn Ngữ học và Trung tâm từ điển học, NXB Đà Nẵng, Hà Nội – Đà Nẵng, 1997.
- Huỳnh Thăng, 2016,““Hỗn dung văn hoá” trong tín ngưỡng dân gian”, Báo Cà Mau, 16/7/2016.
- Lê Trung Hoa, 2015, “Một số địa danh Việt Nam đáng chú ý”, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/ngon-ngu-hoc/5330-mt-s-a-danh-vit-nam-ang-chu-y.html.
- Luật Di sản văn hóa, 2001, Luật Di sản văn hóa. Số: 28/2001/QH10, thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2001.
- Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa 2009, Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật Di sản văn hóa. Số: 32/2009/QH12, thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009.
- Nghê Văn Lương, 1972, Cà Mau xưa và An Xuyên nay, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục.
- PV và TTXVN, 2017,“Cà Mau tập trung khai thác, nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản”,http://www.nhandan.com.vn/kinhte/thoi_su/item/32233302-ca-mau-tap-trung-khai-thac-nuoi-trong-che-bien-xuat-khau-thuy-san.html.
Nguồn: Sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời kỳ hội nhập”