Trước hết, tầng lớp thương nghiệp thời bấy giờ là những ai? Họ hoạt động như thế nào? Theo Toan Ánh, họ là “những người buôn bán, mua chỗ này bán chỗ khác, đi xa về gần hoặc buôn bán tại chỗ. Có những đại thương mở hàng buôn bán, buôn tàu bán đò, có những tiểu thương chỉ buôn bán nhỏ, lời lãi chẳng bao nhiêu. Lại có những người buôn thúng bán mẹt, quang gánh bán hàng, tuy gọi là đi buôn, nhưng chính là dùng sức lao động đổi bát mồ hôi lấy bát cơm, mua hàng của người ở nơi này, gánh đi bán nơi khác, tiền lời lãi chỉ vào tiền công, và ta hằng nói lấy công làm lời”.
Như vậy, thương nghiệp Việt Nam trước đây đã có diện mạo khá rõ nét. Về hình thức, nền thương nghiệp đó có những thương gia cỡ đại thương và tiểu thương cùng những người buôn bán nhỏ. Về tính chất, thương nghiệp truyền thống thể hiện đúng bản chất của ngành này, đó là: “mua chỗ này bán chỗ khác” hoặc “buôn bán tại chỗ”. Tuy vậy, trừ số ít các đại thương, phần đông thị dân đều buôn bán “lời lãi chẳng bao nhiêu” hoặc “lấy công làm lời”. Nói cách khác, đó là một nền thương nghiệp kém hiệu quả. Có mấy nguyên nhân đưa đến tình trạng này.
Thứ nhất, nhà nước phong kiến với cơ chế tập trung, bao cấp hướng hẳn nền kinh tế vào nông nghiệp, xem việc thu thuế trong nông nghiệp là nguồn thu chủ yếu và ổn định nhất. Từ thời Trần, thuế thân và thuế ruộng đã có những quy định cụ thể. Các triều đại sau đổi thành thuế đinh, thuế điền và vẫn cứ tiếp tục chú trọng thu hai loại thuế ấy. Đến nhà Hồ, việc thu thuế buôn bán mới được quy định rõ. Nhà Hồ quy định: “Những thuyền đi buôn bán phải chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan”. Khi họ Trịnh lên cầm quyền thì có quy định đánh thêm các thứ thuế như: thuế thổ sản, thuế mỏ, thuế đò , thuế chợ, v.v... “nhưng mà những thuế ấy, khi đánh khi thôi, không nhất định” . Triều Gia Long có thêm thuế đánh vào các thuyền buôn nước ngoài. Việc định thuế tuỳ theo thuyền lớn hay nhỏ. Dưới triều Minh Mạng, với chính sách “bế quan toả cảng”, vua không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Thuế lại chú vào việc bán nha phiến! Như vậy, nguồn thu thuế từ thương nghiệp dưới các triều đại phong kiến vừa không có tính hệ thống vừa không ổn định. Lại nữa, khoản thuế thu được thì nộp vào kho để cho vua tiêu dùng! Rõ ràng chính sách thuế như vậy không nhằm khuyến khích thương nghiệp phát triển. Điều này dẫn đến chỗ thương nghiệp không có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước nhà.
Thứ hai, nền giáo dục phong kiến Việt Nam chỉ nhằm đào tạo kẻ sĩ là những ông quan có trình độ hiểu biết thời thế nhân sự hơn là những kẻ sĩ biết cách làm giàu cho dân cho nước. Kẻ sĩ học sách thánh hiền để giữ mình thánh thiện, nếu cần thì phải “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”. Đạo học là chủ đề xuyên suốt trong những cuốn sách gối đầu giường các kẻ sĩ. Khó tìm thấy một cuốn sách bàn về thương nghiệp chứ đừng nói đến sách dạy về thương nghiệp. Như vậy, rõ ràng thương nghiệp Việt Nam ra đời có tính tự phát và bị "thả nổi" suốt một thời gian dài hàng mấy thế kỉ. Trong tình hình đó, thương nhân phải tự xoay xở, tự lo liệu để tồn tại. Điều này dẫn đến hệ quả là thương nghiệp Việt Nam không có sự đúc kết thực tiễn nghề nghiệp do đó không có cơ sở lí luận lẫn thực tiễn để hình thành môn kinh tế học nhằm giáo dục kinh nghiệm cũng như đạo đức kinh doanh.
Thứ ba, ở các làng xã, cơ chế tự cung tự cấp - sản phẩm của lối sống khép kín theo địa bàn cư trú - đã làm cho thương nghiệp không có chỗ đứng. Nông dân tiêu thụ những sản phẩm mà trong làng xã tự làm ra được chứ không có nhu cầu tiêu thụ thêm những sản phẩm được làm từ những nơi khác mang đến. Nếu có chăng thì đó phải là những thứ mà trong làng không làm ra được và là những mặt hàng thiết yếu nhất như: dao, rựa, màn, chiếu, dầu thắp, ... Với những mặt hàng này, có khi hàng tháng, hoặc hàng năm trời người dân mới có nhu cầu tiêu thụ. Người sản xuất phải tính đến khả năng này nên không ai dại gì sản xuất hàng loạt rồi chất đống hoặc để xó trong nhà. Thử hỏi trong bối cảnh đó, thương nhân lặn lội “về làng” để buôn gì, bán gì?
Thứ tư, như đã nói, cả nông thôn miền Bắc trước đây là “một biển tiểu nông”. Thế nhưng các tiểu nông không dễ dàng trở thành các tiểu thương. Nông dân tham gia vào nghề buôn phổ biến dưới hình thức buôn bán nhỏ, chỉ mong “lấy công làm lời” và xem đó là một nghề phụ, nghề tay trái. Cuộc sống của họ chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp. Vì vậy, trong tư duy của các tiểu nông này khó có thể xuất hiện hình ảnh của những cửa hàng, cửa tiệm hoạt động một cách chuyên nghiệp và có bài bản. Những người sống hẳn với nghề buôn thường phải thoát li nông nghiệp và như thế họ mới có thể đi đây, đi đó để trao đổi hàng hoá. Và nếu chỉ ở tầm tiểu thương thì “lời lãi chẳng bao nhiêu” vì nhu cầu người dân hạn hẹp, sức mua yếu. Các mặt hàng trao đổi chẳng có gì , thường là những thứ phục vụ cho sinh hoạt của nông dân như đã nêu. Rốt cuộc, do sức cung và cầu yếu, do thiếu quản lí, do tâm lí tiêu dùng hạn hẹp v.v.. thương nghiệp dưới thời phong kiến tuy có diện mạo nhưng không có đẳng cấp. Sở dĩ nói như vậy là vì, một khi không có nền thương nghiệp bề thế thì không thể có những đại gia. Bằng chứng là đã có nhiều người quyết chí ra đi, tìm cách làm giàu bằng thương nghiệp nhưng thất bại, trở về với đôi bàn tay trắng và phải quay lại con đường cày cuốc. Từ thực tế này, người Việt có câu: “Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện”. Nông dân ăn dè hà tiện lại hơn người buôn bán tầm cỡ đại thương! Đó là điều có thật trong xã hội Việt Nam trước đây.
Thứ năm, lẽ thường, muốn thương nghiệp hoạt động theo hướng tích cực cần có sự quản lí, điều phối của nhà nước. Muốn hạn chế tiêu cực trong thương nghiệp phải có điều luật. Điều này hầu như thiếu hẳn trong hệ thống luật pháp thời phong kiến. Thời Hồng Đức, trong 24 điều luật do vua Lê Thánh Tông đưa ra chỉ có mỗi điều thứ 14 có đề cập đến những người hoạt động thương nghiệp: "Kẻ thương mãi phải tuỳ thời giá mà buôn bán với nhau, không được thay đổi thưng đấu, và tụ tập đồ đảng để đi trộm cướp; nếu phạm điều ấy thì trị tội rất nặng". Với lối răn đe nặng về giáo hoá phong tục, điều luật ấy khó có thể ngăn chận được những tiêu cực trong lĩnh vực thương nghiệp vốn bị buông lỏng quản lí hàng mấy thế kỉ?
Thứ sáu, rõ ràng về mặt khách quan, thương nghiệp truyền thống Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn không dễ gì vượt qua được. Tuy nhiên, do quy luật cung cầu, xã hội cần có nghề buôn và tất nhiên cũng cần có những thương nhân sống bằng nghề này. Đã gọi là sống với nghề thì nghề phải nuôi sống bản thân và gia đình. Muốn vậy, việc làm ăn mua bán phải có lãi. Mua ít, bán ít, muốn có lãi, lãi nhiều, lấy đâu ra? Đó là vấn đề mấu chốt mà về mặt chủ quan thương nghiệp truyền thống phải tự tìm cách giải quyết.
Nói rằng thương nghiệp truyền thống phải tự tìm cách kiếm ra nhiều lãi trong tình hình cung cầu yếu, thiếu sự quản lí của nhà nước về mặt luật pháp vị tất phải nói đến mặt trái của ngành này. Có hai cách mà thương nghiệp truyền thống dùng để kiếm được nhiều lãi trong điều kiện số lượng hàng hoá lưu chuyển thấp.
Cách thứ nhất: thay đổi số lượng và chất lượng hàng hoá khi mua bán. Thay đổi về số lượng có nhiều cách: hoặc tráo đổi trọng lượng quả cân của những chiếc cân dùng mua bán, hoặc thay đổi kích thước vật đem đo, đem đong như: thước, thưng, đấu,... hoặc tệ hơn nữa là cố ý đếm sai số lượng có thực. Có người đem hàng để vào chỗ ẩm ướt hoặc đem ngâm nước, hoặc cho thêm những thứ khác vào như cát, sạn, ... để tăng trọng lượng. Thay đổi chất lượng cũng có nhiều cách: hoặc trộn thêm hàng có chất lượng thấp vào hàng có chất lượng cao, hoặc cố ý "đưa nhầm” hàng khác chất lượng so với hàng mẫu. Cách này đã tạo nên một thuộc tính không tốt trong thương nghiệp truyền thống là GIAN.
Cách thứ hai: làm thay đổi giá trị của hàng hoá. Với lối nói thách, người bán đã làm sai lệch giá trị mua bán thực tế của hàng hoá lên gấp hai, ba, hoặc bốn năm lần. Người mua có kinh nghiệm dẫu đã trả giá đến phân nữa cũng bị "hớ". Đã vậy, khi biết mình mua " hớ" cũng phải ngậm đắng nuốt cay mà mang về chứ khó mà đổi, trả gì được. Mà làm sao đổi, trả lại được khi người bán cố tình lừa dối. Chính vì thế, dân gian có câu “mua nhầm chứ không ai bán nhầm”. Cách này đã tạo thêm một thuộc tính không tốt thứ hai trong thương nghiệp truyền thống là DỐI.
Gian và dối là hai thuộc tính thể hiện mặt trái của thương nghiệp truyền thống. Những yếu tố tiêu cực này duy trì trong suốt thời phong kiến, và nó còn ảnh hưởng cho đến tận bây giờ. Đây là một trong những lí do mà trước đây, tầng lớp thương nhân bị xã hội coi thường. Và đến nay, do ảnh hưởng của cách nhìn cũ, cũng còn có người coi thường thương nghiệp, ngại giao tiếp với những người hoạt động trong lĩnh vực này.
Thứ bảy, ở góc nhìn khác, thương nghiệp truyền thống chủ yếu gắn với lợi ích của một bộ phận giai tầng trong xã hội. Thời phong kiến, thương nghiệp không giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Nếu thương nghiệp mất đi thì chỉ một bộ phận giai tầng trong xã hội mất lợi ích chứ không phải cả toàn xã hội. Dưới thời Pháp thuộc, thương nghiệp có phát triển nhưng phát triển theo xu hướng có lợi cho thực dân, đế quốc. Các đầu mối quan trọng trong thương nghiệp do các “trùm” tư bản Pháp nắm giữ. Thành phần quan lại tay sai có điều kiện gắn kết với tư bản Pháp đã dần dần chuyển từ vị thế địa chủ sang vị thế những nhà tư sản mại bản. Lợi ích cá nhân của tầng lớp này gắn liền với lợi ích của các nhà tư bản đế quốc. Xu hướng này tiếp tục duy trì ở miền Nam dưới thời Mĩ chiếm đóng.
Chính bảy lí do nêu trên đã kìm hãm thương nghiệp Việt Nam, kéo vị thế thương nhân xuống hàng dưới cùng trong xã hội cũ.
Từ sau cách mạng tháng Tám, Đảng và nhà nước chủ trương xây dựng nền thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Tuy còn non trẻ, lại phát triển trong điều kiện có chiến tranh nhưng nền thương nghiệp mới đã có những đóng góp to lớn trong suốt thời kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Thành tựu lớn nhất có ý nghĩa chính trị - xã hội là Việt Nam đã chuyển hướng thương nghiệp vào lợi ích của nhân dân, phục vụ kháng chiến. Theo đó, nền thương nghiệp được tổ chức lại. Ngành nội thương bảo đảm luân chuyển hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong xã hội và chuyển ra cho tiền tuyến. Ngành ngoại thương làm tròn nhiệm vụ trao đổi, tiếp nhận hàng hoá từ các nước bạn, kịp thời đáp ứng tình hình kinh tế đất nước trong thời chiến. Hình ảnh các cô mậu dịch viên trở thành thân quen đối với mọi người dân thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Tuy vậy, do hạn chế có tính lịch sử, thương nghiệp trước 1975 vẫn còn mang nặng cơ chế tập trung, bao cấp. Từ sau 1975, khi cả nước chuyển sang giai đoạn xây dựng, phát triển và hoà nhập vào kinh tế thế giới thì cơ chế đó bộc lộ rõ những nhược điểm của nó. Nhược điểm quan trọng là quan hệ phân phối không phù hợp với trình độ sản xuất và lực lượng sản xuất hiện có của chúng ta. Quá trình đẩy quan hệ sản xuất đi trước một bước khi lực lượng sản xuất chưa cho phép đã làm cho nền thương nghiệp chựng lại và có chiều hướng tuột dốc. Thêm vào đó, hai nhược điểm cơ bản của thương nghiệp truyền thống (GIAN và DỐI) vốn chưa được chú ý khắc phục thì, nay lại có cơ hội trỗi dậy, đẩy nhanh sự suy thoái của thương nghiệp và cả nền kinh tế nước nhà.
Nhân đề cập đến hai nhược điểm của thương nghiệp truyền thống, chúng tôi có đôi điều trao đổi thêm về chữ tín và lối kinh doanh của Hoa Kiều ở miền Nam trước đây. Cần thấy rằng bộ phận thương nhân người Hoa, vì phải “li hương”, xa xứ làm ăn, từng đi từng biết, và vì phải sống chết với nghề buôn bán nên họ đã sớm nhận thức được rằng chữ "TÍN" có tầm quan trọng đặc biệt đối với thương nghiệp. Đối với thương nhân người Hoa, việc bán được hàng vừa là động lực vừa là áp lực. Nói áp lực bởi lẽ, nếu không bán được hàng thì chỉ có … chết vì sau lưng họ không có một đám ruộng nào để đắp đổi qua ngày như các thương nhân-tiểu nông Việt Nam. Giữ chân khách hàng, níu kéo khách hàng, coi khách hàng như người nhà, như “thượng đế” là phong cách buôn bán của thương nhân người Hoa. Phong cách ấy đối lập hoàn toàn với thái độ bất cần, làm eo, coi thường khách hàng của các thương nhân-tiểu nông Việt Nam. Mặt khác, cơ chế thị trường ở miền Nam thời Mĩ chiếm đóng đã cung cấp cho thương nhân Hoa kiều những kiến thức căn bản về khoa học quản trị kinh doanh, về dự báo kinh tế,... nên họ đã thành công trên thương trường và trở thành nổi tiếng thành đạt về lĩnh vực kinh doanh. Dù dưới hình thức nào, để phục vụ lợi ích cá nhân và lợi ích các nhà tư sản có thế lực (thường là người nước ngoài), các thương nhân Hoa kiều cỡ lớn trong các thời kì này sẵn sàng thao túng, làm lũng đoạn thị trường mặc cho đời sống của đại đa số nhân dân lao động gặp nhiều khốn khó. Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, các thế lực tư sản nước ngoài bị đánh đuổi, việc duy trì bộ phận thương nhân Hoa kiều hoạt động theo cơ chế bảo đảm lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân gắn liền với lợi ích chung là cần thiết cho nền thương nghiệp nước nhà.
Từ sau đổi mới, thương nghiệp nước nhà đã có những chuyển biến tích cực. Đảng chủ trương “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Để thực hiện được chủ trương đó, chúng ta đang ra sức xây dựng những luật định cần thiết cho lĩnh vực kinh doanh và xây dựng hành lang pháp lí để các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam hoạt động có hiệu quả. Các điều luật về kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực thương nghiệp phải tập trung vào việc hạn chế tối đa những nhược điểm có tính truyền thống của thương nghiệp Việt Nam. Có như vậy, chúng ta mới giữ được chữ “TÍN” với khách hàng trong bối cảnh kinh tế nước nhà đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Sự chiến thắng hoàn toàn của phương cách kinh doanh khoa học, có đạo đức đối với lối làm ăn cẩu thả, gian dối là sự sống còn của nền thương nghiệp Việt Nam trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lí nhà nước phải có thái độ kiên quyết, cứng rắn trong quá trình xử lí các sai phạm của gian thương và những doanh nhân muốn nhanh chóng làm giàu bằng con đường bất chính.
Qua hơn 20 năm đổi mới, thương nghiệp Việt Nam đã có diện mạo mới và từng bước khẳng định đẳng cấp trong nền kinh tế thế giới. Việc khởi xướng phong trào tôn vinh doanh nhân thành đạt đã tạo đà cho thương nghiệp phát triển đồng thời khuyến khích doanh nhân vươn lên làm giàu một cách chính đáng. Các doanh nhân đã có nhiều đóng góp tích cực cho nền kinh tế nước nhà. Trong thực tế, chính hiệu quả kinh doanh và những hoạt động xã hội của giới doanh nhân đã làm thay đổi cách nhìn của xã hội về tầng lớp thương nhân nói chung. Do có sự thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế và vai trò của các thành phần kinh tế, trong xã hội hiện đại sẽ không còn sự “xếp hạng” giai tầng như trước đây; và thương nhân với tư cách là những “chiến sĩ” trên thương trường quốc gia và quốc tế, đã và đang được cả xã hội quan tâm, khuyến khích.
Có thể nói rằng, hiện nay, thương nghiệp đang từng ngày, từng giờ góp phần tích cực vào quá trình làm cho “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tuy còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ nhưng, nhìn đại thể, thương nghiệp Việt Nam đã có những bước đi vững chắc và đang tiếp tục phát triển trong một môi trường xã hội – chính trị có nhiều thuận lợi nhất so với trước đây.
Nguồn: Tác giả