1. Đặt vấn đề
Sự chuyển biến quan trọng này gắn liền với sự hình thành và tồn tại của một “vùng đất mới", gắn liền với sự tồn vong của Nguyễn Hoàng và họ Nguyễn sau này. Đặc biệt, từ năm 1600, khi Nguyễn Hoàng bị Trịnh Tùng giữ chân ở Đàng Ngoài bằng cách cử đi dẹp dư đảng nhà Mạc đã giữa chừng bỏ về Đàng Trong, chính thức bắt đầu một cuộc đối đầu một mất một còn với họ Trịnh. Chính từ nguyên nhân sinh tử đó; kết hợp với các yếu tố: tự nhiên - xã hội của vùng đất mới, bối cảnh lịch sử của thương mại quốc tế lúc bấy giờ đã làm xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam sự thay đổi quan niệm truyền thống “trọng nông ức thương” của xã hội phong kiến, sang tư tưởng “trọng thương”, đặc biệt lấy giao thương quốc tế làm động lực phát triển kinh tế và tiềm lực quốc phòng của vùng.
2. Chính sách giao thương của Chúa Nguyễn - cơ sở hội nhập và phát triển của xứ Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII
2.1. Nhu cầu và điều kiện hình thành chính sách giao thương của Chúa Nguyễn
2.1.1. Nhu cầu phát triển nhanh chóng vùng đất mới để đối đầu với chúa Trịnh, đảm bảo sự tồn tại của họ Nguyễn
Nguyễn Hoàng vào vùng đất Phương Nam từ năm 1558, năm 1570 được vua Lê Anh Tông sắc phong làm Tổng trấn xứ Thuận - Quảng thay thế cho Nguyễn Bá Quýnh. Khi đồng ý cho Nguyễn Hoàng vào vùng Thuận Hoá - một vùng biên giới xa xôi, Trịnh Kiểm nghĩ rằng đã đày người em vợ của mình vào vùng “ô châu ác địa” để tống khứ địch thủ nhưng thực tế, Trịnh Kiểm đã “cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc” [1].
Trong 8 năm bị cầm chân ở Bắc Hà (1593 - 1600), Nguyễn Hoàng đã nhận thức được nhu cầu phải có tiềm lực kinh tế - quốc phòng của một quốc gia riêng biệt đủ mạnh có khả năng đối kháng với họ Trịnh. Vì vậy, ông đã dong buồm âm thầm vuợt cửa Đại An về thẳng đất Đàng Trong. Để đối kháng với Đàng Ngoài, dù xứ Thuận - Quảng “đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” nhưng nếu không có sự chuẩn bị vượt bậc, họ Nguyễn khó tồn tại so với tiềm lực kinh tế - quốc phòng của Đàng ngoài. Đây chính là nguyên nhân sinh tồn của Nguyễn Hoàng và họ Nguyễn. Để có được tiềm lực kinh tế một cách nhanh chóng, Nguyễn Hoàng đã chọn đúng hướng đi có tính chiến lược: phát triển giao thương cả trong nội địa lẫn với bên ngoài trên cơ sở đó thúc đẩy sản xuất nội địa. Mặt khác, miền đất Thuận - Quảng nguyên là một vùng đất đã được Ấn Độ hóa với một nền văn hóa và truyền thống khác với người Việt - văn hóa Chăm pa. Việc quản lý để sống trong bình yên đã là một việc khó chưa nói đến khai thác để phát triển tiềm lực kinh tế - quốc phòng cho chủ nhân mới của vùng đất Đàng Trong. Bên cạnh đó, trong thành phần dân cư, ngoài cư dân bản địa còn có các lưu dân người Việt. Chính với nền tảng xã hội như vậy, việc mở rộng, khuyến khích hoạt động thương mại nội địa ngoài mục tiêu phát triển kinh tế một cách nhanh chóng còn là một cách để yên dân nhằm tập trung vào nhiệm vụ chiến lược: chuẩn bị nhân vật lực cho cuộc đối đầu với họ Trịnh. Cũng với nhu cầu tồn tại và phát triển, vùng Thuận - Quảng tuy trù phú nhưng vẫn chỉ là vùng đất nhỏ so với Đàng Ngoài. Vì vậy, việc “mở cõi” về phương Nam đã giúp các chúa Nguyễn trở thành những người tiên phong thực hiện hiệu quả nhất hoạt động này. Trên cơ sở đó, hoạt động giao thương của Đàng Trong đã mở mang đến tận Châu Đốc, Hà Tiên và cả các hải đảo như Côn Lôn, Phú Quốc,… Như vậy, việc mở cõi về Phương Nam đã thực sự đem lại cho các Chúa Nguyễn nhiều thuận lợi cơ bản không chỉ trong nhiệm vụ chiến lược trước mắt là chống Trịnh mà còn là cơ sở để hình thành một vương quốc riêng ; đồng thời cũng để mở rộng địa bàn sản xuất, khai thác sản vật, cung cấp nguồn hàng phục vụ cho hoạt động giao thương quốc tế.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng đất mới - cơ sở “thiên tạo” cho việc thực hiện chính sách giao thương
Xứ Đàng Trong, ngoài những ưu điểm về tài nguyên, sản vật, … còn có một yếu tố vô cùng quan trọng cho việc phát triển giao thương quốc tế mà thiên nhiên mang lại cho miền đất này đó là bờ biển trải dài theo lãnh thổ. Đặc biệt, vào thời điểm hình thành miền đất Đàng Trong của Chúa Nguyễn, tuyến thương mại “tam giác ba châu lục”: châu Âu - châu Phi - châu Á được hình thành đã giúp các nước phương Đông tiếp giáp với biển có điều kiện tiếp cận và tham gia vào luồng thương mại quốc tế.
Điều kiện tham gia hoạt động thương mại quốc tế, giữa các quốc gia, chủ yếu thông qua đường bộ và đường biển. Trong đó đa phần đều dựa vào đường biển, và nếu xem đó là điều kiện tiên quyết để phát triển thì miền đất Đàng Trong có một bờ biển trải dài, nhiều nơi có thể mở được thương cảng. Đây chính là một lợi điểm có tính “thiên thời, địa lợi” mà các chúa Nguyễn được thừa hưởng để có điều kiện thực thi chính sách giao thương của mình. Nhận xét về điều kiện tự nhiên của Đàng Trong cho việc phát triển thương cảng, một người phương Tây đã viết: “chỉ trong khoảng hơn 100 dặm một chút, người ta có thể đếm được hơn 60 cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền” [2]. Trên cơ sở tiềm năng này, để thực hiện chủ trương phát triển giao thương với bên ngoài, ngay từ những ngày đầu đặt chân lên đất Quảng Nam, chúa Nguyễn đã thiết lập Dinh Trấn Thanh Chiêm (đóng vai trò như một thủ phủ thứ hai của xứ Đàng
Trong, sau Thuận Hóa. Nhiều thế tử như Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Kỳ, Nguyễn Phúc Anh, Nguyễn Phúc Tần trước khi lên ngôi chúa Nguyễn đều được đưa vào Dinh trấn Thanh Chiêm để thực tập điều hành chính sự. Dinh trấn Thanh Chiêm cũng là trung tâm điều hành hậu cần kinh tế, xây dựng quân đội, trung tâm quan hệ quốc tế và văn hóa của xứ Quảng và của Đàng Trong) trong trục các thương cảng sẽ mở sau này như Hội An, Thành Hà, Nước Mặn. Nơi đảm bảo yếu tố: hội nhân, hội thủy, cận giang, cận thị để tập trung và lưu thông hàng hóa phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với thương nhân nước ngoài. Với lẽ thường, giao thương là để làm giàu. Với các chúa Nguyễn, làm giàu và làm giàu một cách nhanh nhất là để tồn tại và xác lập một vương triều mới trên vùng đất mới. Vì vậy, với điều kiện tự nhiên và xã hội của Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã biết khai thác triệt để nhằm thực thi một cách có hiệu quả chính sách giao thương của mình.
2.1.3. Sự năng động, tư tưởng tự do của “người đi mở cõi” với chủ trương “mở cửa” trong giao thương của Chúa Nguyễn
Ý thức hệ và phương thức sản xuất phong kiến luôn đặt hoạt động thương mại ở hàng thứ yếu. Tuy nhiên, với các chúa Nguyễn, hoạt động thương mại (cả nội và ngoại thương) ngay từ đầu đã được chú trọng. Sau khi đi tuần du vùng đất Quảng Nam (1602), chúa Tiên đã cho thiết lập Dinh trấn Quảng Nam sau là Dinh Trấn Thanh Chiêm và luôn cắt cử một trong các hoàng tử của mỗi đời chúa trực tiếp nắm giữ. Dinh trấn này có vị trí nằm ven sông Thu Bồn, trên đường thiên lý Bắc - Nam, gần với các địa điểm có thể mở thương cảng biển; vì vậy việc tổ chức, quản lý, phát triển chính sách giao thương nội địa và quốc tế của các chúa Nguyễn có nhiều thuận lợi. Điều này không chỉ thể hiện sự năng động, chủ động thực thi chính sách giao thương mà còn là bước đi đầu tiên nhằm thực thi chính sách giao thương các chúa Nguyễn. Hoạt động này là điều mới mẻ trong một chế độ xã hội phong kiến với quan niệm truyền thống: “trọng nông, ức thương”.
Khi đã có điều kiện mở thương cảng, chủ động tạo ra những mối quan hệ buôn bán với bên ngoài; việc mời gọi thương nhân nước ngoài đến buôn bán và làm ăn đã đưa các chúa Nguyễn trở thành những người đầu tiên có những quan hệ giao thương quốc tế rộng nhất. Có thể thấy được điều này qua quốc tịch của những thương nhân đến buôn bán và làm ăn lâu dài ở Đàng Trong như Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Hà Lan, … (trong đó đặc biệt là người Nhật, sau là người Hoa). Sự chủ động “mời gọi” này là một bước đi cụ thể trong chính sách giao thương của các chúa.
Như vậy, nhờ sự năng động, nhạy bén (có thể xuất phát từ nhu cầu sống còn trong cuộc đối đầu Trịnh – Nguyễn) các chúa Nguyễn đã thực thi tư tưởng “trọng thương” và thực tế hóa tư tưởng đó bằng chính sách giao thương ; đặc biệt là giao thương quốc tế cởi mở, thông thoáng. Thêm vào đó còn là thái độ đối xử hiếm có của các nhà quản lý phong kiến thời bấy giờ đối với thương nhân. Chính sách, hổ trợ, ưu đãi, tạo mọi điều kiện đã khuyến khích thương nhân thuộc các quốc tịch khác nhau đến Đàng Trong ngày một nhiều, hoạt động giao thương càng trở nên tấp nập. Có thể coi đây là biểu hiện của “chính sách mời gọi đầu tư nước ngoài” của thời hiện đại. Ở thế kỷ XVII - XVIII, chính sách đó đã tạo ra tính ổn định (bền vững) cho hoạt động giao thương thời bấy giờ.
(Người Đàng Trong ở Đà Nẵng thời Tây Sơn-Tranh của họa sĩ người Anh William Alexander)
2.1.4. Những yếu tố bên ngoài tác động đến việc hình thành chính sách giao thương “mở cửa” của Chúa Nguyễn
Tác giả Li Tana, một chuyên gia nghiên cứu về Đàng Trong đã nêu yếu tố thời cơ mà các chúa Nguyễn có được như sau: “Đàng Trong đã ra đời đúng thời đúng buổi, trong một thời đại thương nghiệp” [3]. Đây chính là nhân tố bên ngoài, một “thiên cơ” có tác động rất lớn đến chính sách giao thương của các chúa Nguyễn. Nó xuất hiện đúng lúc các chúa Nguyễn cần có cơ hội, có môi trường để mở rộng giao thương quốc tế nhằm đẩy nhanh tiềm lực kinh tế, quốc phòng đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Đất Đàng Trong giàu có về tài nguyên thiên nhiên nhưng nếu không có nguồn tiêu thụ, trao đổi sẽ không thể có được sự phát triển kinh tế. Vì vậy, chỉ có giao thương quốc tế mới giúp các chúa Nguyễn tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên được khai thác và sản phẩm sản xuất trong nước với số lượng lớn mang lại lợi nhuận nhanh, nhiều cho nền kinh tế trên vùng đất mới.
Yếu tố “thời cơ” nói trên còn thể hiện ở việc xuất hiện tuyến thương mại “tam giác ba châu lục”: châu Âu - châu Phi - châu Á khi Đàng Trong hình thành và đang có nhu cầu giao thương quốc tế. Đàng Trong sở hữu đường biên giới ở phía Đông là một bờ biển dài nằm trên “tuyến đường tơ lụa trên biển”. Vị trí địa lý và điều kiện thiên nhiên ưu đãi có thể mở nhiều thương cảng ấy đã giúp các chúa Nguyễn có cơ hội tận dụng thời cơ vô cùng quý báu này để thực thi một cách thành công chính sách giao thương quốc tế của mình. Mặt khác, trong cuộc chiến sinh tồn với chúa Trịnh, tiềm lực kinh tế mạnh là chưa đủ mà đi kèm với nền kinh tế ấy phải là một nền quốc phòng đủ mạnh. Nhu cầu này các chúa Nguyễn cũng chỉ có thể tìm được qua giao thương quốc tế. Đặc biệt là với thương nhân phương Tây ; đối tượng có thể cung cấp hàng hóa là vũ khí và cả kỹ thuật sản xuất vũ khí: súng - loại vụ khí quan trọng nhất có tính quyết định trong cuộc giao tranh Trịnh - Nguyễn. Điều này có thể thấy được một cách rõ nét qua nhận xét của những người phương Tây về tâm trạng của các chúa Nguyễn khi họ: “rất lo lắng làm sao để có được súng từ xưởng đúc súng nổi tiếng của Bocarro ở Macao” [4]. Xưởng đúc súng này được thiết lập đúng vào thời gian xảy ra cuộc chiến Trịnh- Nguyễn phân tranh.
Như vậy có thể thấy, ngay từ thế kỷ 17 - 18, các chúa Nguyễn đã tìm mọi cách để “hội nhập” như cách nói bây giờ của nền kinh tế thị trường. Một sự “hội nhập” hoàn toàn mang tính chủ động. Và trong quá trình tham gia giao thương quốc tế, tiếp cận và chấp nhận quy luật mua bán, trao đổi với thương nhân nước ngoài; ở Đàng Trong ngoài nguồn lợi kinh tế mang về, ngoại thương đã trở thành đòn bẩy thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển vừa đáp ứng yêu cầu của ngoại thương, vừa nâng cao sức mạnh quân sự để tồn tại. Đây chính là yếu tố đảm bảo tính bền vững, cân đối của một nền kinh tế phát triển mà chúng ta đang hướng tới.
2.2. Những chủ trương và biện pháp chủ yếu thể hiện chính sách giao thương của Chúa Nguyễn
2.2.1. Chú trọng sản xuất và giao thương nội địa làm cơ sở để giao thương với nước ngoài
Ngoài những hoạt động sản xuất có tính truyền thống của nền kinh tế phong kiến thông thường, các chúa Nguyễn đã bước đầu thoát khỏi nền kinh tế “tự cung tự cấp”, hình thành một nền kinh tế hàng hóa. Để có hàng hóa trao đổi, mua bán với thương nhân nước ngoài, các chúa Nguyễn vừa đẩy mạnh khai thác các sản vật do thiên nhiên ưu đãi như trầm hương, quế, yến sào, … vừa đẩy mạnh sản xuất tơ lụa, đường và đặc biệt là gạo.
Hoạt động giao thương quốc tế, tự bản thân nó đòi hỏi phải có lượng hàng hóa lớn, có tính tập trung cao theo thời điểm giao dịch tại các thương cảng. Vì vậy, một trong những đặc điểm quan trọng trong chính sách nội thương của các chúa Nguyễn khác với truyền thống của hoạt động kinh tế phong kiến là:
- Cho phép và khuyến khích người dân tham gia hoạt động giao thương.
- Các chúa Nguyễn cử các hoàng tử trực tiếp tham gia hoạt động thương mại.
Việc cho phép và khuyến khích người dân tham gia hoạt động thương nghiệp là một chủ trương rất thông thoáng và rất mới trong xã hội phong kiến. Đã góp phần tạo nên một tầng lớp thương nhân người Việt khá đông đảo, đóng vai trò tích cực trong việc điều khiển thị trường Đàng Trong. Việc hình thành một tầng lớp thương nhân bản địa hùng hậu sẽ là lực lượng thu gom, vận chuyển, trao đổi hàng hóa từ các địa phương đến tay thương nhân nước ngoài và ngược lại: phân phối hàng hóa nhập khẩu đến các địa phương. Chính việc hình thành tầng lớp thương nhân bản địa đã bước đầu hình thành mạng lưới lưu thông hàng hóa nội địa, làm cơ sở tạo ra một nền kinh tế hàng hóa phục vụ cho hoạt động thương mại quốc tế đã có tác dụng kích thích sản xuất trong nước. Đây chính là mối quan hệ tương tác tạo ra tính bền vững của hoạt động giao thương mà các chúa Nguyễn đã đạt được hiệu quả rất đáng khâm phục.
Kết quả từ một vùng đất mới in đậm dấu ấn một nền văn hóa không phải của người Việt nhưng chỉ trong vài thập kỷ đầu thế kỷ XVII, nền kinh tế Đàng Trong đã phát triển một cách mạnh mẽ để có thể theo đuổi cuộc đối đầu Trịnh – Nguyễn phân tranh suốt mộtb thời gian dài và cao nhất là hình thành một “vương quốc mới” song song tồn tại với Đàng Ngoài. Chủ trương và những biện pháp cụ thể trong việc phát triển nội thương phục vụ ngoại thương, dùng ngoại thương làm đòn bẩy phát triển sản xuất nội địa thực sự là những chủ trương, biện pháp mang tính phát triển bền vững như cách hiểu và cách nói hiện nay.
2.2.2. Chính sách buôn bán với thương nhân nước ngoài
Đây chính là trọng tâm của chính sách giao thương của các chúa Nguyễn. Với tư tưởng của người đi mở cõi, các chúa Nguyễn chủ động mời gọi thương nhân nước ngoài đến buôn bán với Đàng Trong. Động thái này hoàn toàn khác với thái độ “đóng cửa” của các triều đại phong kiến phương Đông lúc đó. Chính vì vậy, những người phương Tây khi đến Đàng trong đã nhận xét: “chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc” trái với nhận xét về vua Nhà Thanh: “ông này sợ tất cả” [5]. Kết quả của việc chủ động “mở cửa” giao thương quốc tế của các chúa Nguyễn là một sự phát triển vượt bậc: “số thương thuyền tới buôn bán với Đàng trong vào đầu thế kỷ 17 đã vượt xa số thương thuyền tới buôn bán với Xiêm và Cao Miên” [6].
Chính sách giao thương có tính chủ động của các chúa Nguyễn thể hiện rõ nét nhất ở việc viết thư, tặng quà gây thiện cảm, ký các hiệp ước tạo điều kiện hay bảo hộ thương nhân và hoạt động thương mại của thương nhân, … Có thể thống kê một số thư gửi thương nhân nước ngoài tiêu biểu mà các chúa Nguyễn đã thực hiện:
- Năm 1601 gửi thư cho Nhật Bản. Mối quan hệ qua thư từ này còn được thực hiện hàng năm cho đến 1606 và các năm: 1611, 1628, 1634, 1635, … [7].
- Năm 1617 viết thư cho Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Malacca mời họ đến buôn bán ở Hội An. Năm 1624 gửi thư cùng quà tặng cho Toàn quyền Hà Lan tại Indonexia (Nam Dương) để mới thương nhân Hà Lan đến giao thương tại Hội An và Đà Nẵng. Sau thời gian gián đoạn việc giao tiếp qua thư lại tiếp tục vào năm 1650.
Các thư từ mời gọi nêu trên không chỉ thể hiện tính chủ động rất rõ ràng trong chính sách giao thương quốc tế của các chúa Nguyễn mà còn góp phần xác lập vị thế của chính quyền Đàng Trong trong quan hệ quốc tế. Nó chứng tỏ nhận thức quốc tế của các chúa Nguyễn trước thời đại mới đã được nâng lên ; đồng thời nêu rõ thiện chí trong hoạt động ngoại thương. Hệ quả tất nhiên là tự nó đã có tác dụng thu hút hoạt động buôn bán của thương nhân nước ngoài vào Đàng Trong ngày càng nhiều. Đây chính là điều kiện cần có quan trọng của một đất nước khi muốn tiếp cận và thiết lập quan hệ mua bán, trao đổi với bên ngoài.
Ngoài ra, các chúa Nguyễn còn có các biện pháp khác nhằm khuyến khích thương nhân nước ngoài đến làm ăn, buôn bán lâu dài ở Đàng Trong như: bảo hộ, ưu đãi thuế quan, khuyến khích cư trú lâu dài, ký hiệp ước; nhằm tạo tâm lý tin tưởng, an toàn và ổn định trong quá trình buôn bán, trao đối hàng hóa với Đàng Trong như một sự bảo đảm của các chúa Nguyễn. Bằng chứng là hàng loạt cư dân người Nhật, người Hoa đã thường trú và tham gia hoạt động thương mại (cả nội và ngoại thương) tại Hội An, Đà Nẵng lúc đó. Họ đã ít nhiều góp phần thúc đẩy sự lưu thông hàng hóa trong nội địa và phục vụ xuất khẩu; giúp cho chính sách giao thương của các chúa Nguyễn được thực hiện một cách có hiệu quả nhờ mối quan hệ và phương pháp buôn bán của các thương nhân ngoại quốc này.
Bên cạnh đó, các chúa Nguyễn còn: ký kết Hiệp định với Hà Lan (1651), thương thảo với phái đoàn thương mại Anh Quốc (do Le Chappelie đại diện từ 1684 -1685 và 1695). Những hoạt động này được xem là những biện pháp phát triển giao thương quốc tế mang tính “phát triển bền vững”. Thông qua cam kết, cả chính quyền Đàng Trong lẫn thương gia nước ngoài đều có cơ sở vững chắc, ổn định để thực thi các hoạt động giao thương. Nó vừa là sức hút vừa góp phần thúc đẩy giao thương quốc tế ở Đàng Trong đạt tốc độ phát triển nhanh nhất khu vực lúc bấy giờ.
2.2.3. Những kết quả quan trọng của chính sách giao thương đối với sự tồn tại của họ Nguyễn và sự phát triển Đại Việt về phương Nam
Từ hai bàn tay trắng, đặt chân lên một vùng đất mới, tiếp xúc với một nền văn hóa xa lạ lại canh cánh nỗi lo về sự tồn vong của bản thân và dòng họ. Chỉ trong thời gian ngắn, các chúa Nguyễn, đặc biệt là chúa Tiên - Nguyễn Hoàng đã thực sự biến Đàng Trong thành một vương quốc mới đủ sức chống lại một sức mạnh về kinh tế - quân sự có nền tảng lâu đời. Để đạt được những kết quả huy hoàng nói trên, chính sách giao thương của các chúa Nguyễn thực sự đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Như hầu hết nhận xét về vấn đề này của giới nghiên cứu trong và ngoài nước: với nước khác, thương mại là để làm giàu nhưng với các chúa Nguyễn thương mại nhất là thương mại quốc tế không chỉ giúp họ làm giàu mà cao hơn là mục đích tồn tại của bản thân (chúa Nguyễn Hoàng) và của cả dòng họ. Năm 1600 là cái mốc quan trọng trong việc hình thành và phát triển Đàng trong của Tổng trấn tướng quân Nguyễn Hoàng. Và Kể từ đây, chính sách giao thương năng động, “mở cửa” cả với trong nước lẫn với thương nhân nước ngoài đã được hình thành và tổ chức thực thi với những biện pháp rất mới so với ý thức hệ phong kiến lúc bấy giờ.
Kết quả của chính sách giao thương này đã thể hiện rõ nét qua nhận xét của người nước ngoài bấy giờ về sự lớn mạnh về quân sự và kinh tế của vùng đất Đàng Trong:
- Về kính tế: “Đàng Trong của thế kỷ 17 đã tìm thấy nguồn tài nguyên và khí lực để thực hiện một giai đoạn phát triển lớn… Đây là một thành tựu phi thường, tự bản thân cũng như khi so sánh với lịch sử Việt Nam nói chung” [8].
- Về quân sự: “Quân lính của vương quốc này hoàn hảo nhất trong cả vùng… Đó là lý do khiến họ luôn thắng thế trong các cuộc chiến liên miên với vua Đàng Ngoài, mặc dù Đàng Ngoài vượt Đàng Trong về tất cả mọi lĩnh vực” [9].
Để có thể phát triển chính sách giao thương, các chúa Nguyễn cũng trở thành người tiên phong tiến về phương Nam để mở rộng bờ cõi. Kể từ sau khi hình thành Đàng Trong như một thế lực tồn tại song song với Đàng Ngoài, bờ cõi của Đại Việt được mở rộng về phương Nam theo thời gian phát triển vững mạnh của Đàng Trong làm cơ sở hình thành “Vương quốc” sau này. Có thể nói, chỉ đến thời các chúa Nguyễn, bờ cõi của Đại Việt mới được mở rộng về phương Nam đến Hà Tiên, Côn Lôn, Phú Quốc và về phía Đông với Hoàng Sa, Trường Sa. Việc mở rộng bờ cõi của các chúa Nguyễn trước mắt là để mở rộng vùng khai thác, sản xuất hàng hóa phục vụ giao thương quốc tế nhưng cũng là để thực hiện “xây nghiệp muôn đời”. Với những kết quả như vậy, phải chăng, đây cũng là bài học cần tham khảo cho việc xây dựng đất nước hiện nay.
3. Những đóng góp qua chính sách giao thương của Chúa Nguyễn với sự hội nhập và phát triển bền vững hiện nay
Việc thực hiện chính sách giao thương có tính chủ động, “mở cửa” của các chúa Nguyễn đã thể hiện một sự thay đổi lớn trong ý thức hệ phong kiến ở Việt Nam lúc bấy giờ. Qua những kết quả của chính sách giao thương của các chúa Nguyễn, Đàng Trong và rộng hơn là Đại Việt đã có được những bài học hữu ích cho quá trình hội nhập và phát triển hiện nay:
- Một chính sách giao thương thông thoáng, sâu rộng làm đòn bẩy để phát triển sản xuất nội địa.
- Một chính sách giao thương đạt trình độ hội nhập cao, mang lại nhiều lợi ích để phát triển kinh tế và quốc phòng trong thời gian ngắn.
- Một chính sách mở rộng giao thương quốc tế mà vẫn giữ được bờ cõi.
Hiện nay, Việt Nam là một thành viên của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ hội đang mở ra nhưng không kém phần thách thức; đòi hỏi phải có sự tỉnh táo, cẩn trọng và hiểu biết để vượt qua khó khăn, trở ngại. Nghiên cứu hoạt động và chính sách giao thương qua các thời kỳ của lịch sử dân tộc để giúp xác định vị trí của đất nước trong mối quan hệ quốc tế, để rút ra những bài học kinh nghiệm là điều cần thiết và đó cũng là mục đích cuối cùng của bài viết này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Li Tana, Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, 1999. TpHCM, tr15.
[2] Cristophoro, Xứ Đàng Trong 1621. Nxb TpHCM, 1998, tr 91.
[3] Li Tana, Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, 1999. TpHCM, tr 85.
[4] Boxer, Portuguese Conquest and Commerce in Southrn Asia, 1500 - 1750, Variorum Reprints, London 1985, tr VII 167.
[5] Cristophoro, Xứ Đàng Trong 1621. Nxb TpHCM, 1998, tr 93.
[6] Li Tana, Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, 1999. TpHCM, tr 85.
[7] Li Tana, Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, 1999. TpHCM, tr 88 - 95.
[8] Li Tana, Xứ Đàng Trong - lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, 1999. TpHCM, tr 88 - 215.
[9] Travels and Controversies Friar Domingo Navarrete, 1618 - 1688. Ấn hành: Do J.S Cummins.
Nguồn: Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008.