Không chỉ duy lợi
Nhìn từ một góc độ, khẳng định của Karl Marx về "động lực" tối thượng trong kinh tế tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận cũng vẫn rất đúng. Tuy nhiên, các nhà khởi thủy mô hình kinh tế cổ điển của chủ nghĩa tư bản như Adam Smith hay John Stuart Mill đều đã khẳng định rằng đôi khi yếu tố văn hóa và tôn giáo tác động đến hành vi của con người mạnh hơn hẳn bản năng duy lợi thuần tuý. Thậm chí, nhà triết học nổi tiếng người Đức Max Weber (tác phẩm được biết tới nhiều nhất của ông này là "Mỹ học đạo Tin Lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản" xuất bản năm 1930) cho rằng tôn giáo là một trong những yếu tố chính trong quá trình phát triển của xã hội tư bản.
Weber lập luận, bởi rằng bất cứ một trật tự kinh tế mới nào đều vấp phải sự cưỡng lại của đông đảo quần chúng, nên chỉ những lợi lộc vật chất thuần túy không đủ để thuyết phục các nhà tư sản hành động thích hợp với hệ thống quan hệ sản xuất mới. Chính trong việc này tôn giáo đã đóng vai trò không thể thay thế được trong xây dựng các mối quan hệ tư bản chủ nghĩa. Cụ thể, những người theo đạo Tin Lành cách tân cho rằng việc tích luỹ của cải và sự giàu có không chỉ là lợi thế mà còn là nghĩa vụ của mỗi con chiên...
Nhà kinh tế học Mỹ - Canada gốc Hungary, Karl Polanyi (những công trình nghiên cứu nổi tiếng nhất của ông được công bố trong giai đoạn 1940-1960) cũng cho rằng, tôn giáo và văn hóa là yếu tố kiềm chế chốc chốc lại hiện lên trên lối đi của các quy luật thị trường. Đáng tiếc là sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những quan điểm của Polanyi ít được để ý tới vì lúc này đã thịnh hành những mô hình toán học của các nền kinh tế và ít nhà nghiên cứu nào lại muốn nhọc công đưa vào thêm những ẩn số mới rất khó "số hóa" như tôn giáo và văn hóa.
Một trong những công trình đầu tiên coi văn hóa như một đại lượng độc lập trong nghiên cứu các hoạt động kinh tế do Edward Banfield, một nhà khoa học Mỹ trong lĩnh vực quản lý nhà nước, đưa ra năm 1958. Ông đã chứng minh được rằng, tốc độ phát triển cao hay thấp của nền kinh tế này hay nền kinh tế khác có thể lý giải bằng các hệ thống văn hóa sẵn có ở các quốc gia. Banfield đã trình bày phương thức chứng minh sự tụt hậu của miền Nam Italia, khác với khu vực miền Bắc công nghiệp phát triển bằng các tập tục văn hóa địa phương.
Nhà chính trị học Mỹ Robert Putnam năm 1993 đã đưa ra giả thuyết rằng, một xã hội càng vị tha thì các hệ thống chính trị và kinh tế ở đó càng có chất lượng trong các hoạt động. Nhà sử học và kinh tế học David Landes đã chứng minh được mối liên hệ trực tiếp giữa sự thịnh vượng của nền kinh tế quốc gia với các đặc tính của các công dân như sự tiết kiệm và chỉn chu, lòng yêu lao động và tính kiên trì, sự trung thực và đức khoan dung...
Những tính cách như hẹp hòi tôn giáo, lòng thù hận, nạn tham nhũng... có thể dẫn tới cảnh đói nghèo của đông đảo quần chúng. Nhà kinh tế học Italia, Guido Tabellini, đã phân tích trình độ học vấn và chất lượng các hệ thống chính trị ở 68 khu vực trên "lục địa cũ". Kết luận của ông là: Tổng sản phẩm quốc nội và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất ở những nơi có lòng tin cậy lẫn nhau, có niềm tin vào sáng kiến cá nhân và lòng kính trọng đối với luật pháp.
Trong bất cứ một cố gắng nào tính toán tới yếu tố văn hóa trong các công trình nghiên cứu kinh tế đều nảy sinh vấn đề tìm hiểu mối liên hệ nhân quả giữa kinh tế và văn hóa. Các nhà kinh tế học Luigi Guiso, Paola Sapienza và Luigi Zingales chứng minh rằng văn hóa có ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế và trong tương lai lâu dài, chính hệ thống kinh tế và các mối quan hệ sản xuất sẽ góp phần hình thành bản sắc văn hóa của xã hội. Tuy nhiên, các giá trị văn hóa không phải lúc nào cũng thay đổi thích ứng với sự phát triển kinh tế. Thí dụ, những người lớn lên trong các gia đình có tín ngưỡng, suốt cả đời mình sẽ cư xử theo những khuôn mẫu nhất định hình thành từ ngày thơ ấu, ngay cả khi họ đã bỏ đạo gốc.
Nguyên nhân của sự thay đổi chậm chạp đó là vì các bậc phụ huynh thường có thiên hướng truyền lại cho con cái mình những thông tin mà họ đã thu nhận được từ cha mẹ họ, không cần phải suy nghĩ lại và không cần phải thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh mới...
Các nhà kinh tế học trên đã dẫn ra một thí dụ minh họa: trong bộ lạc Murzi ở Ethiopia, phụ nữ thường phải đeo những đồ trang điểm bằng đất sét ở môi trên. Những đồ trang điểm đó nặng nên thường làm cho họ bị gãy răng cửa. Theo một số thông tin, tập tục đó hình thành từ thời cổ, với mục đích làm cho phụ nữ của bộ lạc này trở nên kém hấp dẫn trong mắt các chủ nô lệ. Nạn buôn bán nô lệ theo nghĩa cổ điển hiện đã không còn nữa, nhưng tập tục của những người phụ nữ Murzi vẫn được duy trì. Vậy là truyền thống vẫn được lưu giữ ngay cả khi đã trở nên lạc hậu và không còn cần thiết nữa.
Luigi Guiso, Paola Sapienza và Luigi Zingales cũng đã phân tích một yếu tố trong văn hóa là lòng tin cậy lẫn nhau. Họ tiến hành công trình nghiên cứu của mình tại các nước châu Âu. Kết luận là, sự tin cậy lẫn nhau của các công dân trong một quốc gia sẽ cao hơn nếu tất cả đều theo một đạo. Lòng tin cậy lẫn nhau giữa những nước từng chinh chiến chống nhau thường là thấp. Tính trung bình, nếu trình độ văn hóa càng cao thì mức độ thừa hưởng từ cha ông những định kiến có thể làm giảm lòng tin lẫn nhau càng thấp - những người có văn hóa cao nhất thường ít bị tác động hơn từ phía những định kiến hay quan niệm phổ cập.
Lòng tin giữa con người với nhau được coi là một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự phát đạt trong kinh tế. Yếu tố lòng tin cậy lẫn nhau càng trở nên quan trọng hơn nếu trong các hợp đồng kinh tế có mặt chưa rõ ràng nào đó. Theo thông lệ, những quốc gia có lưu lượng hàng hóa cao hơn và nhận được nhiều tiền đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào, thì có niềm tin cao hơn vào các bạn hàng khác. Những nhóm dân chúng khác nhau có cách nhìn khác nhau về thực tế kinh tế. Thí dụ, những gia đình Thiên chúa giáo thường hay giáo dục con cái mình tính tiết kiệm ở mức 3,8% cao hơn các gia đình không theo đạo. Tỉ lệ này ở các gia đình theo đạo Tin Lành là 2,7%...
Một cuộc thăm dò xã hội tiến hành ở Mỹ cho thấy, các nhóm sắc tộc khác nhau có cách nhìn khác nhau về việc phân chia lại thu nhập từ người giàu sang cho người nghèo. Người Mỹ gốc Phi thường ủng hộ việc phân chia lại này nhiều hơn người Mỹ gốc Anh 20%. Đồng tình với quan điểm của người Mỹ gốc Phi nhiều nhất là người Mỹ gốc Canada, gốc Mỹ la tinh và người Mỹ da đỏ. Chống lại quan điểm phân chia lại thu nhập mạnh mẽ nhất là những công dân Mỹ gốc Nhật, thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả chính người Mỹ bản địa...
Văn hóa công ty: Làm gì và như thế nào?
Một nền kinh tế lành mạnh cần có bản sắc văn hóa riêng. Một công ty nếu muốn phát đạt lâu dài cũng cần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của mình. Các nhà lãnh đạo các công ty ở nước ngoài và ở cả Việt Nam ta cũng đã ý thức được điều này từ lâu. Tuy nhiên, xây dựng bản sắc văn hóa cho riêng công ty mình không phải bao giờ cũng là việc dễ dàng.
Như một dẫn chứng để tham khảo, xin giới thiệu phác thảo đề án văn hóa công ty của một doanh nghiệp trẻ đang trên đà phát triển mạnh mẽ ở nước ta: Tổng Công ty Viễn thông Quân đội (Viettel). Tài liệu do ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Tổng giám đốc Viettel có nhã ý gửi cho chúng tôi, phác thảo một số giá trị cốt lõi của Viettel, được tổng hợp từ thực tiễn hoạt động của Tổng Công ty và cả từ những mong muốn của những người tâm huyết với tương lai của doanh nghiệp quân đội này.
Năm 2006, lãnh đạo Viettel đã xác định hai nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng một cơ chế vận hành cho Viettel mang tính hệ thống nhằm giảm thiểu các yếu tố mang tính chủ quan và xây dựng văn hóa: "Đã đến lúc chúng ta cần một sự kết dính văn hóa, một sự thống nhất về nhận thức và phương châm hành động. Nếu không, Viettel càng to ra sẽ càng thiếu tính thống nhất. Và đó là một nguy cơ...".
Có tám nguyên tắc làm nên "Văn hóa Viettel". Thứ nhất, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý, bởi lẽ "cần có lý luận và dự đoán để dẫn dắt. Nhưng chỉ có thực tiễn mới khẳng định được những lý luận và dự đoán đó đúng hay sai" và "chúng ta nhận thức và tiếp cận chân lý thông qua thực tiễn hoạt động". Nguyên tắc thứ hai: Học tập và trưởng thành qua những thách thức và thất bại.
Trên cơ sở nguyên tắc này, một khẩu hiệu "hoành tráng" đã được đưa ra: "Chúng ta không sợ mắc sai lầm. Chúng ta chỉ sợ không dám nhìn thẳng vào sai lầm để tìm cách sửa. Sai lầm là không thể tránh khỏi trong quá trình tiến tới mỗi thành công. Sai lầm tạo ra cơ hội cho sự phát triển tiếp theo". Từ ý thức đó đã bật lên phương thức hành động:
"Chúng ta là những người dám thất bại. Chúng ta động viên những ai thất bại. Chúng ta tìm trong thất bại những lỗi sai của hệ thống để điều chỉnh. Chúng ta không cho phép tận dụng sai lầm của người khác để đánh đổ người đó. Chúng ta sẽ không lặp lại những lỗi lầm cũ" và "Chúng ta phê bình thẳng thắn và xây dựng ngay từ khi sự việc còn nhỏ. Chúng ta thực sự cầu thị, cầu sự tiến bộ".
Nguyên tắc thứ ba: Thích ứng nhanh là sức mạnh cạnh tranh. Nguyên tắc thứ tư: Sáng tạo là sức sống. Nhận thức chung của Viettel là: "Sáng tạo tạo ra sự khác biệt. Không có sự khác biệt tức là chết. Chúng ta hiện thực hóa những ý tưởng sáng tạo không chỉ của riêng chúng ta mà của cả khách hàng...".
Nguyên tắc thứ 5 trong "Văn hóa Viettel" là tư duy hệ thống, nghệ thuật để đơn giản hóa cái phức tạp. Để thực hiện nguyên tắc này, lãnh đạo Viettel đề ra phương thức hành động như sau:
- Xây dựng hệ thống lý luận cho các chiến lược, giải pháp, bước đi và phương châm hành động của mình.
- Vận dụng quy trình 5 bước để giải quyết vấn đề: Chỉ ra vấn đề -> Tìm nguyên nhân -> Tìm giải pháp -> Tổ chức thực hiện -> Kiểm tra và đánh giá thực hiện.
- Hiểu vấn đề đến gốc: Làm được là 40% -> Nói được cho người khác hiểu là 30% -> Viết thành tài liệu cho người đến sau sử dụng là 30% còn lại.
- Sáng tạo theo quy trình: Ăn -> Tiêu hóa -> Sáng tạo.
Kết hợp Đông Tây là nguyên tắc thứ sáu trong "Văn hóa Viettel". Nguyên tắc thứ 7 là gìn giữ truyền thống và cách làm người lính (cách làm quyết đoán, nhanh, triệt để, chứ không phải theo kiểu "nước sông, công lính").
Nguyên tắc cuối cùng là coi Viettel là ngôi nhà chung trên cơ sở "Chúng ta phải hạnh phúc trong ngôi nhà này thì chúng ta mới làm cho khách hàng của mình hạnh phúc được".
Tất nhiên, từ lời nói tới việc làm bao giờ cũng là khoảng cách không nhỏ. Chưa rõ trong tương lai Viettel sẽ làm được đến đâu trong xây dựng bản sắc văn hóa, nhưng chỉ riêng việc xác định được từng ấy nguyên tắc với nội dung như vậy cũng đã là một cố gắng đáng ghi nhận.
Nguyễn Bắc Giang
Nguồn: chungta.com