Thương mại và biến đổi xã hội
Khi nông nghiệp phát triển và phồn thịnh tạo ra sản phẩm dư dật thì cũng là lúc chợ búa mọc lên như nấm tại các bến sông, ngã ba đường để đáp ứng nhu cầu trao đổi, phân bổ hàng hoá, như đã thấy vào thế kỉ 15-16 trong lịch sử nước ta. Không ítnh chợ này sau đó đã phát triển thành những trung tâm thương mại lớn, nơi trao đổi hàng hoá, không chỉ giữa các nơi trong nước mà quan trọng hơn, với khu vực và quốc tế. Điển hình là Phố hiến ở Đàng Ngoài và Hội An ở Đàng Trong là hai trung tâm lớn thuộc loại này của thế kỉ 17-18.
Phố Hiến
Phố hiến vừa được nhắc đến như một giải pháp vừa đáp ứng đòi hỏi phải cảnh giác vừa thoả mãn nhu cầu giao lưu quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Nằm bên tả sông Hồng, Phố hiến cách kinh thành Thăng Long về phía Nam hơn 50 km, được chọn làm nơi lưu trú cho các thương gia nước ngoài muốn buôn bán với Thăng Long đã trở thành nơi đặt Hiến ty để canh phòng, kiểm soát và thu thuế, nơi tàu thuyền neo đậu và thương gia nước ngoài được phép đặt thương điếm. Nhờ đó, từ nửa thế kỉ 17, phố Hiến trở thành một trung tâm buôn bán, giao lưu quốc tế với người Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm, Mã Lai, Indonesia, kế đó là Hà Lan, An, Pháp , Bồ Đào Nha … Số phố phường của phố hiến đã tăng gấp mười lần chỉ trong vòng mấy thập niên với những tên gọi giống như tên gọi phố phường ở Hà nội ngày nay: Hàng nồi, Hàng Dự án, Hàng Sơn, Hàng Thịt … Do đó, đương thời có câu: “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”.
Hàng nhập tại phố Hiến gồm có len dạ, đồ thuỷ tinh, vũ khí của phương Tây; đồ sứ, gấm vóc, gương soi, thuốc bắc, kim chỉ, phấn sáp … của phương Đông. Cùng với hàng hoá là phong tục, tập quán là cả kiến trúc và đặc sản: ngôi nhà thờ của người Bồ Đào Nha mọc lên ở phía Tây phố Hiến, “Làng Hà, nơi chuyên trồng đậu Hà Lan, vẫn tồn tại trên bản đồ như một chứng tích của sự hiện diện của thương điếm phương Tây một thời” .. Hàng xuất khẩu gồm tơ tằm, đường, long nhãn, gạo, đồ gốm, các loại lâm thổ sản như quế chi, sa nhân, hổ cốt, gỗ quý 2. Và có lẽ do, như đã đề cập ở trên, chính vì không quan tâm lắm đến thương nghiệp, cho nên không có sách sử nào ghi lại tên những nhà buôn, những “doanh nghiệp” Việt Nam thời bấy giờ trong thư tịch cả. Theo thiển ý tác giả, chắc chắn phải có những nhà buôn Việt Nam tài giỏi lúc này mới khiến việc mua bán phát triển như vậy.
Hội An
Theo các bản đồ thế kỉ 17-18 thì Hội An, còn gọi là Faifo, nằm tr6n bờ Bắc sông Thu Bồn (nay là sông Hội An) thông với biển bằng cửa Đại Chiêm (lúc đó còn ở phía Bắc Cửa Đại ngày nay), và một dòng sông nối với cửa Hàn của Đà Nẵng – ra đời và phát triển như là kết quả của “sự phát triển kinh tế, trực tiếp là sự phát triển kinh tế hàng hoá cùng với chính sách mở cửa của chính quyền chúa Nguyễn” 3. Vào thế kỉ 17, Hội An, với những làng thủ công được coi là những bộ phận ngoại vi, nổi tiếng về nghề mộc như Kim Bồng, nghề gốm như Thanh Hà, nghề yến như Thanh Châu, đã được đánh giá là một cảng thị vào loại phát đạt nhất của cả vùng Đông Nam Á 4. Bên cạnh đó, Hội An còn là “vùng đất … mở rộng cửa đón nhận những thành tố văn hoá ngoại nhập từ Nhật, Hoa và một số nước Đông Nam Á, một số nước phương Tây (…) là một cửa ngõ du nhập đạoThiên Chúa và là nơi đã góp phần hình thành chữ Quốc ngữ vào nửa đầu thế kỉ 17”.
Thương mại và biến đổi trong sản xuất nông nghiệp
Buôn bán, xuất nhập khẩu là kết quả của sự phát triển nông nghiệp đồng thời cũng là động cơ của sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Cùng với đà phát triển của thương mại, trước sự phát triển của thị trường xuất khẩu và đòi hỏi của nền ngoại thương, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là Đàng Trong cũng mỗi ngày mỗi mang tnh1 cách hướng về thương mại hơn là để tiêu thụ tại chỗ, theo kiểu kinh tế tự túc như A. Woodside đã lưu ý. Chẳng hạn, người dân vùng Thuận Hoá đã trồng dâu nuôi tằm phục vụ cho thị trường tơ lụa dù phải nhập gạo từ Xiêm và cao mên trong suốt thế kỉ 17. Robert Innes đã cho thấy trong những năm 30 của thế kỉ 17, người Việt Nam tại Đàng Trong quá hăng say đối với việc sản xuất cho thị trường tơ lụa và đường cho Nhật đến độ đã dành nhiều diện tích trồng trọt cho cây dâu tằm và cây mía thay cho cây lúaà sau này, từ thế kỉ 18, khi người Việt tới định cư tại đồng bằng sông Cửu Long, nơi đất rộng người thưa, lúa gạo sản xuất ra không chỉ có tính cách lương thực mà còn mang tính cách hàng hoá, lưu thông không chỉ trong nước mà còn với cả một số nước châu Á, tạo nên một bối cảnh thuận lợi cho việc xuất hiện của các thương gia người Việt.
Một “sản phẩm” của thị trường
Nền thương mại bằng đường thuỷ này đã làm nảy sinh một lớp người mới trong xã hội được gọi là các “lái”, những người “lái” tàu, lái ghe của họ để buôn bán và nhờ đó trở nên giàu có. Theo Thành Thế Vỹ, chuyên gia về lịch sử nền thương mại Việt Nam, “lái” chỉ được sử dụng với những người buôn bán giàu có với số lượng hàng hoá lớn. Nhóm người này, tách ra khỉ nông nghiệp để chuyên kinh doanh thóc gạo bằng đường thuỷ, đã mỗi ngày mỗi đông một cách trông thấy và họ đã có được một tên gọi. Đây là một sản phẩm trực tiếp của việc thị trường lúa gạo của câu thổ sông Cửu Long thâm nhập thị trường lúa gạo vùng Đông Nam Á 5 và cũng là của phương tiện chuyên chở của thị trường này. Dù rằng, vào thời điểm này, người Đàng Trong chưa có tàu bè để vượt đại dương và cũng có lẽ chưa có khuynh hướng đi xa tới các nước khác để buôn bán, “cùng lăm 1họ chỉ đi gần để trông thấy bờ biển và ven lãnh thổ yêu quí của mình”, như Borri, một thừa sai tới Đàng Trong vào đầu thế kỉ 17, nhận xét.
Nhưng cũng không ít tư liệu cho thấy rằng thương gia người Việt mỗi ngày mỗi có thêm kinh nghiệm đi biển. John White kết luận, từ các quan sát của ông xung quanh Sài Gòn, kỹ thuật hàng hải của người Việt Nam đã đạt tới những tiêu chuẩn cao. Có thể, trong số những cường quốc châu Á, họ là những người thích hợp nhất với biển cả (…), ngang hàng với người Hoa trong lĩnh vực này 6. Kinh nghiệm này khiến người Việt Nam ở Gia Định khác chuyển như một thói quen thông thường giữa miến Nam Việt Nam và các vùng khác trong khu vực Đông Nam Á như eo biển Malacca, Batavia, Singapore và Philipines (hỏi thêm Thầy Đắc). Người ta cũng thường xuyên bắt gặp người Việt trong các vùng này. Trong các thập niên 1820-1830, tư liệu trong các vùng này có tường thuật về ghe thuyền đến từ Nam Việt Nam 7. Khi Minh Mạng muốn đặt nền thương mại dưới sự điều khiển của nhà nước, ông đã giật mình khi nghe người của ông nhấn mạnh đến việc sử dụng tàu Gia Định cho một chuyến đi an toàn tới eo biển Malacca 8.
Nền thương mại nhà nước thời Nguyễn dẫu sao cũng đã để lại một diện mạo khá tiêu biểu. Nếu đọc kĩ biên niên của triều đình từ thời Minh Mạng đến Tự Đức, sẽ thấy có một cái tên thường xuyên được nhắc đến có liên quan đến việc buôn bán với phương Tây,. Nhân vật này có tên là Đào Trí Kinh, nhưng đã được đổi thành Đào Trí phú, có lẽ là để nhấn mạnh tới chí làm giàu của mình. Người này thuộc hàng khoa bảng ở Gia Định, đậu cử nhân 1825. Oâng xuất thân từ huyện Long Thành, thuộc Biên Hoà. Oâng bị án tử hình 1854 vì tham gia vụ Hồng Bảo. Do đó, cái nhìn của chính sử tỏ ra không mấy thiện cảm với nhân vật này. Tuy nhiên người ta cũng không thể phủ nhận sự đóng góp của ông trong nền thương mại nhà nước. Oâng là một viên chức nhà nước có nhiệm vụ tìm kiếm các mặt hàng ở khu vực Đông Nam Á và miền Đông Ấn Độ. Oâng được tả là một nhà kinh doanh của nhà nước biết tiếng nước ngoài và chính sử còn cho biết ông giàu có nhờ các chuyến đi thường xuyên ra nước ngoài 9. Oâng chủ yếu làm việc trong bộ tài chính của chính quyền trung ương. Oâng còn được mô tả là một người cẩn thận và chính xác đến độ có thể hoàn thành một bản tường trình trong một đêm mà không có một lỗi nào ngay cả khi ông say thuốc phiện, mỗi khi đi công cán. Đào Trí Phú có thể được coi là một nhà kinh doanh tiêu biểu của Gia Định.
Cuối thế kỉ19, đầu thế kỉ 20, mặc dù bị người pháp kiềm chế, doanh nghiệp của người Việt cũng đã để lại một số tên tuổi. Trần Chánh chiếu, còn gọi là Gilbert Chiếu (1867-1919) chủ trương lấy hoạt động kinh tế, cũng có nghĩa là doanh nghiệp, như là một cánh cửa không thể thiếu cho sự phục hưng của quốc gia dân tộc và sự phát triển của đất nước.Nếu có thể tạm gác sang một bên khuynh hướng chính trị để chỉ tạm chú trọng vào hoạt động doanh nghiệp thì có thể kể tới Lê Phát Vinh, người đã mở xưởng dệt, Lê Phát An, Lê Tùng Long thành lập công ty buôn bán vải, Trương Văn Bền mở nhà máy làm xà bông tồn tại mãi cho tới sau này, Lê văn Tiết mở nhà máy gạo với công suất 16 tấn một ngày, công ty Liên Thành, thnhà lập tại Phan Thiết năm 1906, với các chi nhánh đặt tại Sài Gòn và Nam Vang để sản xuất và phân phối nước mắm, Nguyễn Văn Kiên hoạt động trong ngành chuyên chở bằng đường bộ, vào năm 1923 đã làm chủ 14 xe hơi và 12 xe tải. Nguyễn Văn Của thành lập nhà in và nhà xuất bản sách báo năm 1922 …
Tài liệu tham khảo
1 Đại Nam Thực lục 2, 159:13
2 Hội thảo Khoa học về phố Hiến, thị xã Hưng Yên, XII-1992
3 Xem Phan Huy Lê, Hội An: Lịch sử và hiện trạng, trong Đô thị cổ Hội An , Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội, Hà Nội 1991, tr. 18.
4 Phan Huy Lê, sđd, tr. 24
5 Li Tana, the 18th and early 19th century Mekong Delta in the regional System, tham luận cho Hội nghị Khoa học Đông Nam Á, sắp xuất bản.
6 Xem John White, A Voyage to Cochina China, OUP, 1972. tr. 265.
7 Wong, 1955; Crawfurd, 226, do Chl Byung Wook trích dẫn trong bài tham luận có tựa đề Nguyen dynasty’s policy toward Chinese settlers during the first half of the 19th century, sắp xuất bản.
8 Đại Nam Thực lục 2, 16:18b-19a
9 Đại Nam Thực lục 2, 41: 8a