Có hai loại hình thái công ty tiêu biểu cho các nước tư bản hiện đại, ít nhất là cho đến cuối thế kỷ này. Đó là các đại công ty sản xuất hàng loạt, mà điển hình là các công ty sản xuất xe hơi, và các tổng công ty tổng hợp hàng dọc, như các công ty vừa sản xuất xe hơi vừa sản xuất cả máy xe, vỏ xe, và các phụ tùng khác.
Sự xuất hiện của các công ty lớn là kết quả của kỹ thuật sản xuất. Sản xuất càng lớn, đơn giá càng giảm, trước khi đạt tới một mức độ sản lượng tối đa nào đó. Sản xuất lớn hàng loạt này dựa vào phương pháp sản xuất Taylor, bắt nguồn từ Mỹ, qua đó các phần riêng của sản phẩm và công đoạn trong dây chuyền sản xuất được tách rời, chuyên môn hóa để sản xuất hàng loạt. Lao động cũng được chuyên môn hóa, vì vậy hầu hết các động tác lao động chỉ dựa vào lao động cơ bắp, không cần chuyên môn, có thể dễ dàng được thay thế.
Chính quy trình sản xuất Taylor đã đẩy mạnh cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển vượt bậc của công nghệ sản xuất hiện nay. Nhưng quá trình sản xuất dây chuyền tự động đòi hỏi lượng sản xuất lớn, tồn kho lớn để dây chuyền không ngừng nghỉ và do đó đòi hỏi vốn lớn. Vì vậy các công ty lớn phải ra đời.
Tuy vậy, các nhà kinh tế vẫn tự hỏi là nếu như các chi tiết của một sản phẩm cuối cùng có thể chia nhỏ thì tại sao lại không xuất hiện nhiều các công ty nhỏ hoặc vừa cũng sản xuất các chi tiết để bán cho công ty lắp ráp xe hơi chẳng hạn. Các công ty làm ra sản phẩm cuối cùng chỉ cần mua và lắp ráp các chi tiết với nhau. Câu hỏi này được đặt ra vì sản xuất lớn tới một mức độ nào đó lại trở nên thiếu hiệu quả, đơn giá thành cao vì tính quan liêu, bàn giấy của hệ thống quản lý lớn và nhiều cấp. Thậm chí nhiều nghiên cứu cho thấy đơn giá thành sản xuất các chi tiết của nhiều công ty lớn cao hơn khi họ tự làm lấy. Thế tại sao họ không đi mua ở ngoài thay vì tự làm lấy? Lý do chính là vì thông tin không hoàn hảo. Đó là lập luận của Ronald H. Coase (*) - một lập luận đã được chấp nhận rộng rãi.
Coase cho rằng mặc dù thị trường phân phối hàng hóa hiệu quả hơn, nhưng cũng tốn kém đáng kể do các chi phí giao dịch; chẳng hạn như chi phí tìm hiểu người bán và sản phẩm của họ, thương lượng giá cả, đặc điểm chi tiết kỹ thuật và chất lượng, thời điểm giao hàng bằng hợp đồng. Hợp đồng lại không thể viết ra hết mọi chi tiết cho nên người bán và người mua còn cần thêm sự tin cậy lẫn nhau. Chính sự bất trắc về niềm tin cũng như chi phí thương lượng khiến cho công ty muốn tự mình làm hết. Nói một cách khác là công ty tập hợp việc sản xuất phụ kiện cần thiết, cũng như việc tiếp thị và giao hàng cho khách dưới sự điều hành của chính họ. Vì lẽ đó, các công ty lớn hoạt động không khác gì một nhà nước xã hội chủ nghĩa nhỏ bé, với hệ thống kế hoạch tập trung chi tiết, trao đổi không trên cơ sở giá thị trường.
Ngược lại, khi các hoạt động sản xuất phình ra, hiệu quả quản lý sút kém, người đứng đầu công ty không có sức nắm bắt được các thông tin của cấp dưới, nên giá thành lại tăng. Do đó, lý thuyết về công ty hiện đại chính là sự tìm kiếm hình thái tổ chức thích hợp nhằm giảm chi phí giao dịch, đồng thời không làm tăng chi phí quản lý. Để giảm ảnh hưởng của việc quản lý tập trung thiếu hiệu quả, các tập đoàn công ty ra đời, trong đó các phần sản xuất có thể tách riêng được đã biến thành các công ty con hoạt động độc lập về tài chính và quản lý. Và các công ty con này cũng nhắm đến mục đích tối ưu lợi nhuận như công ty mẹ.
Một phương pháp quản lý chống quan liêu trong quản lý tập trung là phương pháp quản lý và sản xuất đúng lúc (just in time) do Taiichi Ono đề xuất ở công ty Toyota. Đây là mô hình quản lý đang được phổ biến rộng rãi, kể cả ở Mỹ, nhằm thay thế phương pháp Taylor. Phương pháp này bắt nguồn từ Nhật vào những năm 50 nhằm đối phó với mức sản xuất không đủ lớn để áp dụng phương pháp Taylor cũng như để giảm thiểu đầu tư lớn vào nhà máy và tồn kho. Người công nhân không còn là một đơn vị nhỏ bé, thực hiện các động tác đơn giản trong một dây chuyền tự động không ngừng nghỉ, mà làm việc theo nhóm, trách nhiệm với sản phẩm từ đầu đến cuối, kể cả kiểm tra chất lượng và có thể tự mình dừng dây chuyền bất cứ lúc nào để bảo đảm chất lượng.
Ngoài ra, lối sản xuất kiểu Nhật cũng được tiếp sức bởi một hệ thống liên kết sản xuất giữa công ty lớn với các công ty nhỏ và độc lập, gọi là keiretsu. Sự liên kết này không có tính chất hợp đồng thành văn, do đó đòi hỏi sự tin cậy nhất định giữa các công ty liên kết - một điều kiện văn hóa khó thực hiện ở nhiều nước.
Nhìn chung, các doanh nghiệp đều cố gắng giảm thiểu chi phí giao dịch trong quá trình sản xuất, đồng thời bảo đảm chất lượng cao thông qua các mô hình quản lý và hình thức công ty.
II- Vai trò của lịch sử, văn hóa
Trong thực tế, hình thức công ty không tiến hóa rập khuôn như lý thuyết đã bàn ở bài một. Fukuyama từng tổng kết các nghiên cứu về hình thái công ty một cách lý thú trong quyển Trust (*) (Tin cậy). Những nhận xét của ông sẽ được lặp lại trong bài này.
Hầu hết các doanh nghiệp ở Đài Loan và Hồng Kông là công ty vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư nhân tại Pháp, miền trung và nam nước Ý cũng nhỏ bé nếu so với các công ty Nhật, Mỹ, Đức và Hàn Quốc. Tại sao vậy?
Các nhà nghiên cứu cho rằng, tại các nước và lãnh thổ - đặc biệt là những nơi phần đông dân số là người Hoa, công việc kinh doanh thường dựa chủ yếu vào gia đình, không tin người ngoài. Dựa vào gia đình và chỉ tin vào gia đình là đặc tính của các nền văn hóa sớm có nhà nước trung ương tập quyền. Khi nhà nước càng lớn và tập quyền càng hữu hiệu, nhân dân càng dễ bị bóc lột qua đủ loại hình thuế má và đóng góp khác nhau từ trung ương xuống địa phương. Do đó, dân chúng hình thành tâm lý chỉ tin quan hệ máu mủ hoặc dòng họ, hay quá lắm là làng xóm. Tâm lý này trở thành văn hóa phổ biến, nhất là khi được hệ thống hóa vào triết lý chủ đạo như Khổng giáo.
Công ty của người Hoa thường là công ty gia đình. Người Hoa chỉ dùng người của gia đình trong công tác quản lý doanh nghiệp, rất ít khi nghĩ đến việc chuyên nghiệp hóa sản xuất bằng cách tách rời quản lý với sở hữu. Dẫu sau này có lớn mạnh lên, công ty của người Hoa cũng thường tàn lụi dần sau vài thế hệ vì gia tài được đem chia đều cho con trai, đặc biệt là khi những người con lại không thích hoặc không có khả năng kinh doanh.
Ở những nước đã trải qua ảnh hưởng trực tiếp của sứ quân, lãnh chúa địa phương các loại như Nhật và nhiều nước châu Âu, lại phát triển một loại văn hóa khác. Đó là văn hóa dựa vào sự tin cậy hình thành từ quan hệ hai chiều với các lãnh chúa, là những người hoặc lực lượng bảo vệ người dân thuộc quyền chống lại các sứ quân hoặc lãnh chúa khác. Vì vậy ảnh hưởng của gia đình có yếu đi, và đôi khi như ở Nhật, quan hệ giữa dân chúng, hiệp sĩ và lãnh chúa lại mật thiết không kém gì quan hệ gia đình.
Nhật bị ảnh hưởng của Khổng giáo, nhưng chưa bao giờ Khổng giáo trở thành thuyết trị dân như ở Trung Quốc. Nhật Hoàng chủ yếu chỉ làm vì chính quyền trung ương luôn nhu nhược cho đến khi phương Tây bắt đầu thực hiện chính sách thực dân tại Nhật. Khi phân chia tài sản, người Nhật thường chia cho con cả, và có thể cho con nuôi, con rể hoặc người được chấp nhận vào gia đình, dựa trên khả năng quản lý. Do đó tài sản gia đình tại Nhật không bị phân tán như ở Trung Quốc.
Trên cơ sở một nền văn hóa như vậy, các hội nghề nghiệp của Nhật, lúc đầu xây dựng trên quan hệ giữa bậc thầy và người học việc, đã hình thành. Sau này, sự hình thành của các công ty cổ phần và sự tách rời giữa quản lý và sở hữu cũng được chấp nhận và phổ biến nhanh chóng, tạo thêm của cải và sức mạnh kinh doanh một cách hữu hiệu hơn.
Hình thức keiretsu, liên kết trên cơ sở tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau, nhưng không thành văn giữa công ty lớn và các công ty vệ tinh nhỏ, cũng như giữa các công ty lớn ở Nhật, là kết quả của nền văn hoá đặc thù của Nhật. Trên cơ sở đó, người ta có thể hiểu được lý do tại sao ở Nhật có hiện tượng liên hệ giữa công nhân và chủ một cách trung thành theo kiểu gia đình. Và người ta cũng có thể hiểu được vì sao các công ty trong khối liên kết có thể mua hàng lẫn của nhau với giá cao hơn giá thị trường và khi công ty trong khối liên kết gặp khó khăn, các công ty khác có thể sẵn sàng cho mua trả chậm, kể cả đáp ứng tín dụng. Về thực chất, mối liên hệ keiretsu là hình thức ẩn của tổng công ty liên hợp hàng ngang và hàng dọc kiểu Mỹ, nhưng không thể đo lường thống kê chính xác được.
ở các nước và lãnh thổ nói tiếng Hoa chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo, sự có mặt của các công ty lớn là ngoại lệ. Hầu hết các công ty ở Đài Loan, Hồng Kông và Singapore đều có tính chất gia đình và nhỏ bé.
Hàn Quốc, cũng là nơi chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, tài sản được phân chia cho con trai, mặc dù không đồng đều như ở Trung Quốc (con cả có thể được nhiều gấp đôi con thứ), tại sao lại có rất nhiều công ty kếch sù? Theo đánh giá của Fukuyama, đó là do chính sách dân tộc chủ nghĩa quyết đuổi bắt Nhật của Park Chung Hee. Ông là người lãnh đạo độc đoán, hà khắc, nhưng được nhiều người đánh giá là có chiến lược phát triển kinh tế rất rõ ràng, quyết đoán, tích cực và lại là người không màng tư lợi vật chất cá nhân, không tham nhũng. Ông đã chọn người và công ty tư nhân có khả năng, đổ vốn nhà nước cho vay phát triển đồng thời áp lực ngân hàng đổ tín dụng, kể cả sử dụng lãi suất âm, nhằm xây dựng các công ty này thành các đại công ty (chaebol) tập trung sản xuất nhằm xuất khẩu, mở rộng thị trường ở nước ngoài, tạo sức cạnh tranh trên thế giới.
Ngoài ra, để tạo lợi thế cho công ty được chọn, Park còn hạn chế số lượng công ty được quyền xuất khẩu, đòi hỏi các công ty này có vốn tự có và một số lượng chi nhánh tối thiểu nào đó ở nước ngoài. Nếu đạt các điều kiện vừa kể, Park sẽ tạo mọi dễ dàng về tín dụng, thị trường và giấy phép. Bên cạnh đó, ông cũng bảo hộ thị trường nội địa một cách kỹ càng. Trong thập kỷ 70, Hàn Quốc rút khỏi các ngành công nghiệp nhẹ như dệt, may mặc và đi vào công nghệ nặng như xây dựng, đóng tàu, sắt thép, hóa chất. Năm 1976, 74% đầu tư là vào công nghiệp nhẹ, đến năm 1979, hơn 80% đầu tư là vào công nghiệp nặng. Do đó, chỉ trong vòng 10 năm bộ mặt của Hàn Quốc đã cơ bản thay đổi. Dĩ nhiên cũng cần thấy rằng Park làm được việc này vì không những Mỹ làm ngơ cho chính sách bảo hộ của Park mà còn khuyến khích ông thực hiện chính sách này.
Văn hóa Pháp, mặc dù khác hoàn toàn các nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng lại có nét tương tự, ở chỗ vai trò của hội đoàn trung gian giữa nhà nước và gia đình không có hoặc không phát triển. Bởi lẽ sự sớm tập quyền ở nhà nước trung ương cho phép Pháp tạo ra một thể chế nhà nước dựa vào việc tuyển dụng công chức trên cơ sở khả năng. Trở thành công chức, tốt nghiệp trường Hành chính quốc gia (École Nationale d’Administration) và các trường lớn (grandes écoles) là niềm tự hào của nhiều người Pháp. Gia đình ở Pháp không phải là một trong những cột trụ xã hội như triết lý của Khổng tử. Tuy nhiên, do thiếu hình thức trung gian giữa nhà nước và cá nhân cho nên gia đình vẫn là quan trọng.
Công ty Pháp cũng được xây dựng trên cơ sở gia đình, do vậy thường chỉ ở cỡ nhỏ hoặc trung, ít nhất là cho đến giữa thế kỷ thứ hai mươi. Tocqueville, một người Pháp có công trình nghiên cứu nổi tiếng về nước Mỹ, đã nhận định về phân tầng xã hội chi li ở Pháp như sau : “Mỗi nhóm xa cách nhau vì đặc quyền tý tẹo, ngay cả những đặc lợi nhỏ bé nhất cũng chỉ nhằm tỏ ra là mình có địa vị to hơn một tý. Chính vì vậy họ luôn luôn ở trạng thái tranh giành hơn thiệt. Tính chất cá nhân, phân tầng nhỏ bé như vậy đã ngăn cản người ta hợp tác với nhau kể cả khi có chung lợi ích quan trọng. Do đó, chỉ đến nửa cuối thế kỷ hai mươi, hình thức công ty cổ phần mới phát triển ở Pháp.
Trước đây, nhiều công ty trở nên lớn mạnh vì là công ty quốc doanh, chẳng hạn như Công ty Xe hơi Renault, Ngân hàng Crédit Lyonnais... Và rất khác với Hàn Quốc, nơi nhà nước chủ trương xây dựng các công ty tư nhân lớn, nhà nước Pháp trước đây chỉ tập trung xây dựng công ty quốc doanh lớn, nhưng thường luôn luôn lỗ vốn, thiếu hiệu quả. Nay Pháp đang trên đà tư nhân hóa các công ty này để giải quyết vấn đề.
Mỹ lại khác hẳn. Năm 1840 Tocqueville nhận định : “Người Mỹ ở mọi lứa tuổi, mọi điều kiện, mọi khuynh hướng luôn luôn tìm cách hợp thành hiệp hội. Họ không chỉ có công ty thương nghiệp, công nghiệp mọi người có thể tham gia, mà còn có hàng ngàn loại hội đoàn như tôn giáo, đạo đức, có khi nghiêm túc, có khi vô tích sự, có khi không, có khi có phân biệt đối xử. Người Mỹ lập hội để giải trí, mở nhà dòng, xây nhà nghỉ, nhà thờ, phân phối sách, gửi các đoàn truyền giáo, lập nhà thương, nhà tù, mở trường học. Chính vì tinh thần sẵn sàng hợp tác đó, hình thức công ty cổ phần sớm ra đời ở Mỹ, và cũng do đó các công ty lớn có cơ hội ra đời nhờ sự góp vốn của nhiều người.
Nhiều người Mỹ lại rất không tin vào vai trò của chính quyền trung ương mà chỉ tin vào chính quyền địa phương được tổ chức trên cơ sở tự nguyện, tự quản hoặc các hội đoàn tự nguyện để nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến đời sống và quyền lợi của họ. Đối với không ít người Mỹ, chính quyền trung ương là một công cụ tước đoạt dân chủ và có tính chất áp bức. Cũng vì sự suy nghĩ của dân Mỹ như vậy cho nên ở Mỹ hầu như không có công ty nhà nước. Hình thức gần nhất với công ty nhà nước là các công ty tự quản, vô vị lợi nhưng có hội đồng quản trị do các nhà chính trị cử ra.
III- Doanh nghiệp và thể chế kinh tế Việt Nam
Cần xây dựng các công ty quốc doanh lớn, nhưng đó phải là công ty có mục đích chính là xuất khẩu nhằm cạnh tranh với nước ngoài. Các công ty này sẽ biến thành công ty cổ phần, sau khi đã được tổ chức và hoạt động thành công, để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thông thường các nền kinh tế đều luôn luôn nằm trên điểm giao thoa giữa công nghệ đơn giản và công nghệ tiên tiến. Công nghệ đơn giản đòi hỏi vốn lớn, sản xuất hàng loạt nhằm tận dụng được ưu thế kỹ thuật của sản xuất lớn, ưu thế của vốn lớn trong tiếp thị, đạt giá thành rẻ. Còn công nghệ tiên tiến, tinh vi thì không phải dựa vào kỹ thuật sản xuất lớn và nhắm đến việc thỏa mãn các nhu cầu cao cấp. Theo tôi, Việt Nam cần điều hòa cho được hai hướng này, trong đó cần thiết phải xây dựng các công ty lớn.
Dựa vào các phân tích trong bài 2, chúng ta có thể thấy văn hóa Việt Nam rất gần với văn hóa Trung Quốc, với gia đình là nền tảng của kinh tế và xã hội. Sự thiếu vắng các hiệp hội tự nguyện, tự quản đã không tạo nên tinh thần tin cậy người ngoài gia đình. Do vậy, nếu không có động lực đặc biệt nào đó, tiến trình hình thành các công ty cổ phần và công ty lớn sẽ rất chậm. Sự thiếu tin cậy cộng với sự thiếu vốn sẽ là bước cản sự hình thành các công ty lớn của tư nhân.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến năm 1975, chúng ta không thấy có công ty cổ phần nào, hoặc công ty gia đình nào ở mức có thể gọi là đáng kể. Từ năm 1989, sau khi kinh tế thị trường được chấp nhận cũng vậy. Nhìn ra ngoài, chúng ta cũng thấy rằng hệ thống làm ăn của người Việt ở nước ngoài không có gì đáng kể cho nên về lâu, về dài cũng sẽ không giúp gì nhiều cho hàng Việt Nam xâm nhập các thị trường nước ngoài.
Thời gian qua, hàng hóa Việt Nam nhanh chóng đi ra nước ngoài một phần nhờ hệ thống thương mại trung gian của người Hoa, một phần nhờ vốn lớn tập trung được của các công ty xuất khẩu nhà nước. Vì thế, nếu muốn nhanh chóng tạo ra các công ty lớn có sức cạnh tranh, có vốn để nhập công nghệ tiên tiến, Nhà nước cần có vai trò trong việc xây dựng các công ty lớn, trong khi tư nhân chưa có khả năng làm.
Cần xây dựng các công ty quốc doanh lớn, nhưng đó phải là công ty có mục đích chính là xuất khẩu nhằm cạnh tranh với nước ngoài. Các công ty này sẽ biến thành công ty cổ phần, sau khi đã được tổ chức và hoạt động thành công, để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Vốn thu hồi có thể được sử dụng để tiếp tục vai trò tích cực của Nhà nước, nếu thấy còn cần thiết. Việc thiết lập các công ty quốc doanh lớn quan trọng như vậy nên cần phải được tính toán kỹ và phải được Quốc hội thông qua cho từng trường hợp một. Bên cạnh đó, theo tôi, chúng ta cũng cần phát triển các tổ chức dân sự theo tinh thần tự nguyện, tự quản trong mọi hoạt động cần thiết trong xã hội.
Ngoài ra, còn có rất nhiều hình thức tự nguyện, tự quản cần thiết để phát huy tinh thần tập thể, giúp đỡ lẫn nhau cũng như giúp nhau bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp đã được ghi trong hiến pháp và luật lệ. Những hình thức cần thiết có thể thấy rõ là nghiệp đoàn lao động, hội ngành nghề, những hoạt động không vụ lợi như nhà thương, trường học, nơi nuôi trẻ mồ côi, giúp đỡ người thất cơ lỡ vận, các loại hợp tác xã... Để khuyến khích các hoạt động trên, cần thiết lập các công ty vô vị lợi.
Ngoài ra, cũng cần xác định vai trò của Nhà nước. Đã nói nhân dân làm chủ thì nhân dân có quyền làm tất cả những gì luật pháp không cấm và chỉ có bổn phận công dân duy nhất là tôn trọng luật pháp. Họ không có bổn phận xin và Nhà nước có quyền cho như hiện nay. Thể chế cụ thể nào để thực hiện điều này thì hiện nay chưa rõ.
Về thể chế kinh tế, theo tôi, Nhà nước cần chủ động thiết lập các thể chế được cụ thể hóa bằng luật pháp và làm nhiệm vụ của người trọng tài không thiên vị. Về chính sách kinh tế, thì nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước là điều hành chính sách vĩ mô (tài chính, tín dụng) thay vì vi mô (quản lý công ty quốc doanh). Thêm vào đó, Nhà nước nên có chính sách phân phối lại lợi tức giữa các thành phần kinh tế để ổn định xã hội, chủ yếu thông qua thuế lũy tiến.
Mặt khác, Nhà nước phải có trách nhiệm phổ biến thông tin và lập thể chế cần thiết để mọi người có thể có thông tin cùng một lúc và không bị phân biệt đối xử. Nếu như không thiết lập thể chế đó, công chức có thể lạm quyền lấy thông tin từ ngân hàng, Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê... rồi tuồn ra ngoài làm lợi cho người thân, người quen biết, khuynh đảo thị trường chứng khoán khi thị trường này ra đời trong tương lai.
Thông tin đầy đủ hơn còn khiến cho độ bất ổn và độ rủi ro giảm, do đó làm giảm mức lãi suất (dùng chung cho vốn vay cũng như vốn tự có) trên thị trường, làm giảm chi phí giao dịch. Lãi suất ở các nước đang phát triển thường cao hơn nhiều lãi suất ở các nước phát triển một phần lớn là do mức độ rủi ro và bất ổn cao hơn. Sản xuất cũng khó xâm nhập vào thị trường nước ngoài vì không đủ thông tin, và nếu có vào được thì phải thông qua công ty nước thứ ba khiến chi phí giao dịch tăng cao.
Thông tin luôn đóng một vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của con người, đặc biệt là trong các hoạt động kinh doanh.
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn, 1999, Số 36-37-38