1. Doanh nhân và thương nhân
Ngộ nhận thứ nhất liên quan đến phạm vi nghề nghiệp.
Một cách ngắn gọn, doanh nhân là người làm nghề kinh doanh. Và nói đến kinh doanh, thì phần đông mọi người đều đồng nhất nó với việc buôn bán, nghĩa là “kinh doanh” = “thương nghiệp” và “doanh nhân” = “thương nhân”.
Thực ra, kinh doanh là khái niệm rộng hơn “thương nghiệp”, và doanh nhân là khái niệm rộng hơn “”thương nhân”. Chữ doanh营 ở đây có nghĩa là “quản lý”; biến thể của doanh là dinh chỉ có nghĩa là quản lý mà thôi (ss. “hành dinh”). Kinh doanh 经营 nghĩa đen là “quản lý kinh tế”; mà chữ kinh 经trong “kinh tế” 经济 với nghĩa “sửa trị” (kinh tế là dạng rút gọi của “kinh bang tế thế” 经邦济世 – “sửa nước cứu đời”) thực chất cũng là quản lý. Như vậy, doanh nhân 营人nghĩa đen là “người quản lý (việc làm ăn)”. Với một đất nước khổng lồ, văn hoá tinh thần Trung Hoa chủ yếu tập trung lo toan việc quản lý xã hội. Việt Nam là một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước mạnh về văn hoá làng xã và rất giỏi về tổ chức làng xã, nhưng lại kém về quản lý xã hội ở quy mô lớn, càng ít quan tâm đến quản lý kinh tế, cho nên trong những từ điển đầu thế kỷ (như Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh, Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của) đều chưa có từ “kinh doanh”. Kinh doanh bao gồm ba lĩnh vực là sản xuất hàng hoá, buôn bán và dịch vụ, cả ba đều có chung mục đích cơ bản là kiếm lời.
Sở dĩ có việc đồng nhất kinh doanh với bộ phận thương nghiệp buôn bán của nó là vì ba lý do.
Thứ nhất, buôn bán chính là hình thức kinh doanh kiếm lời xuất hiện sớm nhất (như người Do Thái ở Tây Nam Á, người nhà Thương ở Đông Bắc Á). Việc kinh doanh kiếm lời bằng sản xuất hàng hoá chỉ thực sự nở rộ và phát đạt cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Kinh doanh dịch vụ thì còn xuất hiện muộn hơn nữa, trong nửa sau tk. XX.
Thứ hai, về từ ngữ, bên cạnh chữ doanh营là ‘quản lý’ còn có chữ doanh赢 với nghĩa là ‘tiền lời’ (như trong “doanh lợi” 赢利). Các sách như Từ điển yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện Ngôn ngữ học [1991: 101], Từ điển từ và ngữ Hán-Việt của Nguyễn Lân [1989: 181, 382], v.v., đều nhận lầm rằng doanh trong “kinh doanh”, “doanh nghiệp”, “doanh nhân” chính là doanh赢 với nghĩa ‘tiền lời’.
Và thứ ba, từ doanh nhân tương ứng với các từ tiếng Anh entrepreneur, businessman, mà hai từ này đều có nghĩa là thương nhân, thương gia, chủ hãng buôn.
Mặc dù thương nghiệp là bộ phận điển hình nhất nhưng phải nhận rằng kinh doanh là khái niệm rộng hơn, nó bao gồm cả sản xuất hàng hoá và dịch vụ.
2. Doanh nhân và văn hoá
Ngộ nhận thứ hai liên quan đến việc đánh giá doanh nhân. Từ chỗ đồng nhất doanh nhân với thương nhân, mà trong thiên hạ thì khồng nghề nào kiếm lời nhanh bằng nghề buôn (ở Việt Nam là một vốn bốn lời, còn ở Trung Hoa là nhất bản vạn lợi), cho nên tuyệt đại bộ phận các bài viết đều cho rằng phương Đông có truyền thống khinh rẻ nghề kinh doanh do có hiện tượng thương nhân kinh doanh vô đạo đức và do ảnh hưởng của Nho giáo [x. chẳng hạn, Nguyễn Trần Bạt 2006: 73].
Thực ra, việc kinh doanh vô đạo đức là tình trạng phổ biến không chỉ ở Việt Nam truyền thống, không chỉ ở phương Đông truyền thống, mà cả ở phương Tây truyền thống nữa. Thương nhân nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa là Lã Bất Vi cũng là người kinh doanh vô đạo đức nhất: ông từng bán cả vợ, buôn cả vua, sử dụng rất nhiều thủ đoạn gian trá. Mạnh Thường Quân cũng nổi tiếng không kém thì đã từng là một người cho vay nặng lãi. Ở phương Tây cũng có truyền thống cho rằng hai khái niệm “kinh doanh” và “văn hoá” là không có liên quan gì với nhau. Một người Mỹ đoạt giải Nobel về kinh tế là M. Friedmann đã viết: “Các doanh nghiệp không có trách nhiệm nào khác ngoài việc kiếm tiền” [1962, dẫn theo Ballet & De Bry 2005: 38]. Số người kinh doanh có đạo đức trong truyền thống phương Tây và Trung Hoa hiển nhiên là có nhưng không chiếm được ưu thế.
Điều này không có gì khó hiểu. “Văn hoá” (hay một thành tố của nó là “đạo đức”) với “kinh doanh” không có cùng thước đo: Thước đo của văn hoá (đạo đức) là thước đo về chất, còn thước đo của kinh doanh (kinh tế) là thước đo về lượng. Sự khác biệt giữa Việt Nam, Trung Hoa và phương Tây trong lĩnh vực này nằm ở truyền thống văn hoá:
Phương Tây thuộc loại hình văn hoá gốc du mục, có truyền thống coi trọng pháp luật và trọng lợi hơn danh nên mọi việc kinh doanh không phạm pháp (nếu phạm thì đã ngồi tù) đều được tôn trọng. Trung Hoa thuộc loại hình văn hoá nông nghiệp gốc du mục, có truyền thống trọng cả lợi lẫn danh nên cũng rất coi trọng nghề buôn. Chỉ riêng Việt Nam và Đông Nam Á thuộc loại hình văn hoá nông nghiệp điển hình (nông nghiệp lúa nước) trọng danh hơn lợi nên mới có truyền thống khinh rẻ nghề buôn bán. Nho giáo của Khổng Tử hình thành trên cơ sở tiếp thu cả truyền thống văn hoá phương Bắc và phương Nam nên thứ bậc “sĩ nông công thương” trong Nho giáo chính là quan niệm tiếp thu từ văn hoá phương Nam.
Vì vậy, tuy là cùng theo Nho giáo, nhưng chỉ có Việt Nam mới thực sự coi trọng kẻ sĩ (= quan văn) và khinh người buôn bán. Còn ở Trung Hoa, Triều Tiên thì coi trọng cả văn lẫn võ; ở Nhật Bản thì kẻ sĩ chỉ có là võ sĩ mà thôi. Ở cả ba nước, nghề buôn không hề bị coi thường. Ở Trung Hoa, nghề buôn phát triển rất mạnh từ đời Thương (trong suốt lịch sử, chỉ duy có thời Tần-Hán là nghề buôn bị nhà cầm quyền o ép, hạn chế). Học trò Khổng Tử là Tử Cống bỏ học, từ quan đi buôn và trở thành thương gia rất giàu, xe ngựa hàng đoàn. Bản thân Khổng Tử cũng không hề coi rẻ nghề buôn; ông từng nói: “Giàu và sang, người ta ai cũng muốn” [Luận ngữ, Lý Nhân 5], “Phú quý mà có thể cầu được thì dù làm kẻ cầm roi đánh xe hầu người, ta cũng làm” [Luận ngữ, Thuật Nhi 11].
Vậy thì quá trình chuyển biến từ “doanh nhân không liên quan tới văn hoá” đến “doanh nhân văn hoá” diễn ra thế nào?
Quá trình này, theo tôi, tồn tại dưới ba hình thức mà ta có thể đặt tên là “doanh nhân - ông chủ”, “doanh nhân - công dân”, và “doanh nhân văn hoá”.
Doanh nhân - ông chủ là hình thức khi mà doanh nhân hoàn toàn làm chủ tình thế. Với số tiền khổng lồ kiếm được dù bằng trí tuệ và sức lực cá nhân hay có bóc lột người làm công, doanh nhân không cho rằng mình có nghĩa vụ gì với người làm công (ngoài việc trả lương) và những người xung quanh. Khi hứng lên, họ có thể giúp đỡ người khác, nhưng dưới hình thức ban ơn, bố thí.
Doanh nhân - công dân[1] là hình thức khi mà nhà nước nắm quyền điều tiết nhằm làm giảm bớt sự bất công thông qua việc thu thuế và các khoản thu khác từ doanh nhân và những người khác để tổ chức bảo hiểm cho người lao động nói riêng và mọi người dân nói chung. Doanh nhân ở đây tham gia vào những hoạt động có ích cho cộng đồng một cách bắt buộc với tư cách là người công dân.
Doanh nhân văn hoá là hình thức khi mà doanh nhân tự mình ý thức được sự cần thiết phải xây dựng một truyền thống văn hoá, kinh doanh một cách có văn hoá và ý thức được trách nhiệm tham gia vào những hoạt động có ích cho cộng đồng. Hình thức này, đến lượt mình lại có thể chia thành hai tiểu giai đoạn: Tiểu giai đoạn 1 là khi những ý thức tự giác này có động cơ là mục tiêu kiếm lời chi phối. Tiểu giai đoạn 2 là khi những ý thức này trở thành một thứ bản năng tự nhiên, không bị chi phối bởi bất kỳ một mục tiêu vị kỷ nào. Một doanh nhân và doanh nghiệp xây dựng được truyền thống văn hoá, làm những việc mà luật pháp không cấm (vd, việc FPT mua độc quyền phân phối hình ảnh World Cup 2006) – đó có thể là doanh nhân văn hoá ở tiều giai đoạn 1, nhưng nếu một doanh nhân biết một việc làm có lời lớn mà pháp luật không cấm, nhưng không làm vì như thế có lợi hơn cho cộng đồng thì đó sẽ là doanh nhân văn hoá ở tiể giai đoạn 2.
Ở phương Tây, với loại hình văn hoá phân tích tính, ba hình thức này thể hiện nối tiếp nhau thành ba giai đoạn rất rõ rệt. Hình thức “doanh nhân - ông chủ” là giai đoạn đầu tiên, nó tồn tại đến cuối tk. XIX. Dù vậy, vào giữa tk. XX, việc thể hiện “lòng tốt” của các ông chủ vẫn còn bị một số “ông chủ” khác phản đối: người đoạt giải Nobel kinh tế là M. Friedmann nhắc đến ở trên đã viết: “khi lòng tốt nổi lên, các doanh nghiệp chỉ đảm nhận những trách nhiệm thứ yếu và làm như vậy đem lại nhiều điều xấu hơn là tốt” [dẫn theo Ballet & De Bry 2005: 38]. Hình thức “doanh nhân - công dân” ra đời vào cuối tk. XIX, khởi đầu bằng việc thủ tướng nước Đức là Bismark trong 6 năm từ 1883 đến 1889 đã cho thông qua ba đạo luật về bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm tuổi già cho những người lao động. Sau đó là nước Anh từ 1906 đến 1940 thực hiện bảo hiểm xã hội rộng rãi cho toàn dân. Theo sau là các nước khác. Hình thức “doanh nhân văn hoá” chỉ mới ra đời gần đây, trong những năm cuối của tk. XX.
Ở phương Đông với loại hình văn hoá tổng hợp tính, sự tồn tại của ba hình thức này không có sự tách bạch rạch ròi mà đan xen vào nhau. Ở Trung Hoa, ta thấy hình thức “doanh nhân - ông chủ” thể hiện rõ ngay từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc: Việc Lã Bất Vi và Mạnh Thường Quân sau khi đã giàu có trùm thiên hạ bèn bỏ tiền ra thu nạp dưới trướng của mình hàng trăm học sĩ chính là biểu hiện của hình thức này. Ở Việt Nam, do đội ngũ doanh nhân rất non yếu nên hình thức “doanh nhân - ông chủ” trong lịch sử thể hiện rất mờ nhạt. Ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, hình thức “doanh nhân - công dân” chỉ xuất hiện trong thời kỳ nhà nước XHCN bao cấp tràn lan, nhưng vì kinh doanh trong giai đoạn này là độc quyền của nhà nước nên “tính doanh nhân” rất thấp. Hình thức “doanh nhân văn hoá” thì về cơ bản chỉ mới đang hình thành. Tuy nhiên, một số yếu tố của văn hoá doanh nhân thì đã có thể thấy từ thời Minh-Thanh ở Trung Quốc. Đó là lúc nghề buôn được “trí thức hoá” khá mạnh nhờ việc có nhiều doanh nhân đỗ đạt bước vào quan trường và đồng thời có nhiều quan lại trí thức từ quan, bỏ học đi buôn. Nhờ có đội ngũ thương nhân - trí thức này mà nhiều sách vở nghiên cứu, tổng kết về nghề buôn ra đời[2]. Đời Minh có Hoàng Biện biên soạn sách Nhất thống lộ trình đồ ký gồm 8 quyển. Đời Thanh có Đảm Y Tử biên soạn sách Sĩ thương yếu lãm gồm 3 quyển, Ngô Trung Phu biên soạn sách Thương cổ tiện lãm[3] gồm 8 quyển, v.v. Việc “lập ngôn” này đã góp phần “văn hoá hoá” một cách đáng kể đội ngũ thương nhân Trung Quốc, khiến cho hình thức “doanh nhân văn hoá” đã xuất hiện ở đây sớm nhất thế giới.
Hình thức “doanh nhân văn hoá” đang tồn tại hiện nay ở phương Tây và phương Đông chủ yếu là ở tiểu giai đoạn một, tức là giai đoạn mà nhận thức về nhu cầu xây dựng văn hoá doanh nghiệp xuất phát từ chính mục tiêu kiếm lời. Trong thời đại toàn cầu hoá, việc kinh doanh trở nên rất dễ và cũng rất khó. Dễ vì ai ai cũng có thể kinh doanh. Ở Hàn Quốc có giai thoại là nếu ra đường mà kêu lên “Chào giám đốc Kim!” thì sẽ có trên một nửa số người đang đi ngoài đường quay đầu lại. Khó vì doanh nghiệp ra đời đã nhiều nhưng doanh nghiệp phá sản có khi còn nhiều hơn. Chính trong khó khăn này mà người ta nhận ra rằng những doanh nhân kinh doanh có đạo đức, có văn hoá trước đây, tuy có số lượng ít ỏi, nhưng phần đông số họ chính là những đại doanh nhân. Hiện nay, những doanh nghiệp đứng vững và phát triển tốt được đều là nhờ có tầm nhìn xa rộng và xây dựng được một truyền thống văn hoá riêng. Tóm lại, việc đi tìm và xây dựng văn hoá doanh nhân không phải do lòng tốt đối với xã hội, mà trước hết chính là vì sự sống còn của bản thân doanh nghiệp và doanh nhân.
Những biểu hiện của hình thức “doanh nhân văn hoá” ở dạng tiểu giai đoạn hai, khi mà việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp được tiến hành một cách hoàn toàn tự nhiên, không bị chi phối bởi bất kỳ một mục tiêu vị kỷ nào, thì tuy hiện nay có thể cũng đã và đang có một cách lẻ tẻ, nhưng để trở thành một hình thức phổ biến trong xã hội thì phải chờ tương lai.
3. Văn hoá doanh nhân
Như vậy, chúng tôi cho rằng ý nghĩa và mục đích của các tổ chức văn hoá doanh nhân, những hội thảo, bài viết về văn hoá doanh nhân chủ yếu không phải là để nhằm tôn vinh doanh nhân hay khẳng định vai trò, vị trí của họ trong xã hội. Vai trò, vị trí này không thể do ai đó “lăng-xê” lên mả phải do tự thân các doanh nhân chiếm lấy bằng chính những hoạt động làm giàu cho cá nhân và đất nước của mình. Và “văn hoá doanh nghiệp”, “văn hoá doanh nhân” cũng không phải là những mỹ từ để các doanh nhân, doanh nghiệp trang điểm cho sang, cho thời thượng. “Văn hoá” ở đây có một sứ mệnh quan trọng là đem đến cho các doanh nhân một công cụ mạnh để làm giàu cho bản thân và cho xã hội, một vũ khí cạnh tranh hiệu quả trên thương trường.
Xây dựng một lý luận hoàn chỉnh về văn hoá doanh nhân và doanh nghiệp đòi hỏi phải có điều kiện vật chất và thời gian, phải có sự tham gia đóng góp của nhiều người, nhiều giới. Trong số những bài viết về đề tài này thời gian qua [x., vd: Phạm Xuân Nam (cb) 1996; Ban TT-VHTƯ 2001; Đỗ Minh Cường 2001; Trần Quốc Dân 2003; Lê Hồng Lý 2005; Võ Quang Trọng 2005; Hoàng Vinh 2006], có thể cho rằng hai bài bàn về văn hoá doanh nghiệp và văn hoá doanh nhân trong cuốn sách của GS.TS. Hoàng Vinh [2006: 296-320] là đáng chú ý hơn cả. Nội dung khái niệm “văn hoá doanh nhân” qua hai bài này có thể quy về năm luận điểm chính như sau:
1) “Doanh nhân = Người hoạt động doanh nghiệp” ≠ “Doanh gia = chủ doanh nghiệp”. Tuy nhiên, cũng có thể quy ước hiểu “doanh nhân = chủ doanh nghiệp” [tr. 314];
2) Văn hoá doanh nhân = Văn hoá Cá nhân của doanh nhân = Nhân cách doanh nhân [tr. 311, 314];
3) Trong “nhân cách” thì “xu hướng” hay “định hướng giá trị” là quan trọng nhất. Cấu trúc định hướng giá trị của doanh nhân gồm 3 thành tố: (a) Tri thức làm giàu; (b) Khát vọng làm giàu; (c) Cách ứng xử làm giàu (dựa vào 3 lớp trong khái niệm định hướng giá trị của tâm lý học xã hội) [tr. 315-316].
4) Một cách định tính, “văn hoá doanh nhân = văn hoá làm giàu” [tr. 317].
5) Văn hoá doanh nhân (= nhân cách văn hoá doanh nhân) là yếu tố thứ năm trong cơ cấu “văn hoá doanh nghiệp” (sau bốn yếu tố: đạo lý, định hướng giá trị, hệ thống biểu hiện và hệ thống công nghệ – dựa vào bốn bộ phận trong cấu trúc văn hoá theo cách hình dung của tác giả) [tr. 303, 305-308].
Có thể có nhiều mô hình văn hoá doanh nhân. Mô hình của GS. Hoàng Vinh vừa nêu là một mô hình có tính khoa học, chặt chẽ và bài bản, hoàn toàn có thể tiếp tục hoàn thiện để đưa vào sử dụng.
Dưới đây, tôi xin đưa ra một mô hình có một số nét khác biệt so với mô hình của GS. Hoàng Vinh.
Trước hết, theo chúng tôi, “doanh nhân” là người làm kinh doanh, họ có thể là những cá thể sản xuất, buôn bán hoặc kinh doanh dịch vụ, cũng có thể là chủ của một doanh nghiệp có vài ba người hoặc vài ba ngàn người. Số lượng ở đây không quan trọng, vì “doanh nhân” (cũng như “nông dân”, “công nhân”...) là khái niệm tập hợp, chỉ một lớp người, một mẫu người, chứ không phải một con người cá nhân. Do vậy, văn hoá doanh nhân là văn hoá của mẫu người kinh doanh, chứ không phải của cá nhân doanh nhân (cũng như “văn hoá Việt” là văn hoá của người Việt nói chung chứ không phải của một cá nhân cụ thể nào).
Thứ hai, “văn hoá”, theo cách hiểu mà chúng tôi đã công bố và sử dụng lâu nay [Trần Ngọc Thêm 1990; 1995; 1996], được hiểu là một hệ thống giá trị (đối với GS. Hoàng Vinh, giá trị chỉ là một trong 4 yếu tố của văn hoá) có tính nhân sinh, tính lịch sử, thể hiện qua bốn thành tố là văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức cộng đồng, văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên, và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội.
Như vậy, “văn hoá doanh nhân” sẽ là hệ thống giá trị của mẫu người kinh doanh đã được tích luỹ trong thời gian (có tính lịch sử). Cái tập hợp những quy chuẩn đạo lý, logo, khẩu hiệu, bài hát, v.v. mà một số doanh nhân “sáng tác” ra lâu nay chưa phải là văn hoá, vì chúng chưa có tính lịch sử – những thứ được “sáng tác” ra trong chốc lát đó trong quá trình tồn tại sẽ biến đổi, chết đi, hoặc bổ sung thêm theo những quy luật riêng của mình.
Đã là kinh doanh thì phải có con người, có hoạt động, có sản phẩm, có quan hệ với môi trường (tự nhiên và xã hội) – thiếu một trong những thứ đó sẽ không thành hoạt động kinh doanh; mà nếu không có hoạt động kinh doanh thì sẽ không có doanh nhân. Vì vậy, văn hoá doanh nhân không chỉ là nhân cách hay đạo lý mà phải là một hệ thống với các thành tố:
1) Văn hoá nhận thức về kinh doanh, bao gồm những tri thức cần có của doanh nhân (nhận thức lý tính như triết lý kinh doanh, khoa học, công nghệ và kỹ thuật kinh doanh; kể cả nhận thức cảm tính như tín ngưỡng trong kinh doanh...);
2) Văn hoá tổ chức kinh doanh, bao gồm những phẩm chất cần có của doanh nhân, những năng lực và phương pháp quản trị doanh nghiệp, cách thức tổ chức đời sống tập thể và cá nhân của các thành viên trong doanh nghiệp để tạo ra những sản phẩm với chất lượng cao nhất...;
3) Văn hoá ứng xử với môi trường xã hội trong kinh doanh, bao gồm văn hoá tiếp thị, văn hoá ứng xử với khách hàng, với đối tác, với công đồng cư dân địa phương, với chính quyền, với toàn xã hội...;
4) Văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên trong kinh doanh, bao gồm văn hoá ứng xử với tài nguyên, đất đai, khí hậu, chất thải....
Như vậy, “văn hoá doanh nhân” (thiên về trách nhiệm cá nhân) có liên quan với “văn hoá doanh nghiệp” (thiên về trách nhiệm tập thể), chúng giao nhau, chứ không bao hàm nhau (cũng như “văn hoá Việt Nam” và “văn hoá của người Việt Nam”).
Văn hoá doanh nhân Việt Nam là chỗ hội tụ của tính quốc tế (đặc thù văn hoá nghề nghiệp) và tính dân tộc (đặc trưng văn hoá truyền thống).
Văn hoá doanh nhân - văn hoá làm giàu, đúng là vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Trong đó, khoa học là gốc, nghệ thuật là phần vận dụng, biến hoá trên cơ sở khoa học. Vì vậy, vấn đề còn lại là tìm ra những quy luật trong từng thành tố của văn hoá doanh nhân để người kinh doanh có thể sử dụng làm công cụ làm giàu cho mình và xã hội một cách bền vững nhất.
Tài liệu tham khảo
1. Ballet & De Bry 2005: Jérôme Ballet & Françoise de Bry. Doanh nghiệp và đạo đức (Dương Nguyên Thuận & Đinh Thuý Anh dịch). – H.: NXB Thế Giới, 490 tr.
2. Ban TT-VHTƯ 2001: Văn hoá và kinh doanh. – H.: NXB Lao động, 339 tr.
3. Đỗ Minh Cường 2001: Văn hoá kinh doanh và triết lỳ kinh doanh. – H.: NXB Chính trị Quốc gia, 298 tr.
4. Hoàng Vinh 2006a: Bàn về thuật ngữ văn hoá và văn hoá doanh nghiệp. – Trong: Hoàng Vinh, “Những vấn đề văn hoá trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay”. – H.: NXB VH-TT & Viện Văn hoá, 2006, tr. 296-310.
5. Hoàng Vinh 2006b: Văn hoá doanh nhân từ góc nhìn văn hoá học. – Trong: Hoàng Vinh, “Những vấn đề văn hoá trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay”. – H.: NXB VH-TT & Viện Văn hoá, 2006, tr. 310-320.
6. Lê Hồng Lý 2005: Bàn về việc xác lập những tiêu chí của văn hoá doanh nhân. – T/c “Văn hoá dân gian”, số 4 (100), tr. 24-32.
7. Nguyễn Lân 1989: Từ điển từ và ngữ Hán-Việt. – NXB Tp.HCM, 865 tr.
8. Nguyễn Trần Bạt 2006: Xây dựng nền văn hoá kinh doanh. – In trong t/c “Văn hoá doanh nhân”, số 4, tr. 73-77.
9. Phạm Xuân Nam (cb) 1996: Văn hoá và kinh doanh. – H.: NXB KHXH, 249 tr.
10. Trần Ngọc Thêm 1990: Cơ sở văn hoá Việt Nam (2 tập, lưu hành nội bộ). – Trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội xb, 140 tr.
11. Trần Ngọc Thêm 1995: Cơ sở văn hoá Việt Nam. – Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM, 500 tr, 330 tr. (tái bản tại Đại học Quốc gia Tp.HCM và NXB Giáo dục vào các năm 1996, 1997, 1998, 1999).
12. Trần Ngọc Thêm 1996: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. – NXB Tp.HCM, 670 tr. (tái bản các năm 1997, 2001, 2004).
13. Trần Quốc Dân 2003: Tinh thần doanh nghiệp - giá trị định hướng của văn hoá kinh doanh Việt Nam. – H.: NXB Chính trị Quốc gia, 145 tr.
14. Viện Ngôn ngữ học 1991: Từ điển yếu tố Hán-Việt thông dụng. – H.: NXB KHXH, 402 tr.
15. Võ Quang Trọng 2005: Bàn về văn hoá kinh doanh và văn hoá doanh nhân. – T/c “Văn hoá dân gian”, số 4 (100), tr. 19-23.
[1] Thuật ngữ này tôi đặt ra từ sự gợi ý của khái niệm “doanh nghiệp công dân” của Jérôme Ballet và Françoise de Bry [Ballet & De Bry 2005: 111].
[2] Thậm chí, ngay từ đời Hán, Tư Mã Thiên trong bộ Sử ký nổi tiếng đã dành riêng một chương viết về nghề buôn nhan đề là Hoá thực liệt truyện (hoá = hàng, hoá thực = nghề buôn).
[3] Thương商là buôn bán lớn, cổ贾là buôn bán nhỏ.