Như chúng ta đều biết, thế kỷ thứ XIX đánh dấu sự ra đời của bộ môn Folklore học, ở cái nôi ra đời của nó là Châu Âu thì trong quan niệm thông thường, thuật ngữ “Folk” chỉ những người mù chữ, vô học, không biết đọc biết viết, tức là những người nông dân trong lòng xã hội văn minh Âu Châu thời đó. Điều này cũng có nghĩa, Folk gắn với tầng lớp nông dân ở nông thôn để phân biệt với cư dân đô thị, thị dân. Trường phái “xã hội học” trong Folklore học thế kỷ XIX của Tây Âu quan tâm tới văn hoá của nông thôn, nông dân, mà theo quan niệm của những người “tiến hoá luận” thời đó là một tầng lớp còn ở bậc thang thấp nhất trong tiến hoá của văn minh, do vậy văn hoá của họ thường bị coi là ‘thấp kém”, ‘thô thiển” (1). Và điều này cũng cắt nghĩa vì sao ở Tây Âu và các nước Đông Âu kế cận, bộ môn Folklore học thường nghiên cứu tầng lớp nông dân ở nông thôn, còn bộ môn dân tộc học thì nghiên cứu các dân tộc “bán khai” ngoài Châu Âu. Và một khi nông thôn Châu Âu đã đô thị hoá thì bộ môn Folklore học cũng không còn việc gì để làm nữa.
Tuy nhiên, sang thế kỷ XX, quan niệm về “folk” cũng đã thay đổi. Theo Alan Dundes, một nhà nhân học và Folklore học nổi tiếng của Mỹ, thì folk “ là bất kể nhóm người nào mà họ có cùng chung một mối liên hệ, mà mối liên hệ đó có thể là dân tộc, tộc người, tôn giáo, địa phương, nghề nghiệp, gia đình ...” (2). Nếu quan niệm như vậy thì có Folklore của nông dân, của ngư dân, folklore của thợ thủ công, thương nhân, của những nguời lính, có folklore của làng xã và tất nhiên có folklore của cả thị dân ở đô thị nữa...
Như vậy, so với thế kỷ XIX, quan niệm về “folk” của thế kỷ XX đã mở rộng đáng kể, nó không chỉ duy nhất những người nông dân như quan niệm của thế kỷ XIX, mà còn mở rộng ra các nhóm xã hội khác nhau, miễn là ở họ có những mối quan hệ chung. Cũng theo Alan Dendes, các nhà Folklore học thế kỷ XIX không sai khi cho rằng nông dân là Folk, mà chỉ sai khi cho nông dân là nhóm Folk duy nhất mà thôi. Và cũng từ sự thay đổi quan niệm này, thế kỷ XX không đồng nhất Folklore (VHDG) với cái gì đó “thô kệch”, “thấp kém”, ở bậc thang thấp nhất của tiến hoá văn hoá, mà là một hiện tượng văn hoá cũng giống như bất kể một hiện tượng văn hoá nào khác, miễn là nó chứa đựng những thuộc tính “folk” (dân dã, dân gian) nào đó.
Như vậy là từ khi đô thị hình thành thì có sự hiện diện của Folklore đô thị, nói cách khác, Folklore đô thị là một bộ phận cấu thành folklore đương đại. Theo quan niệm của chúng tôi, folklore đương đại (tôi không muốn dùng khái niệm Folklore hiện đại) là tổng thể các dạng folklore gắn liền với các nhóm xã hội khác nhau, bất kể các dạng folklore đó là truyền thống hay là những cái đã và đang nảy sinh trong môi trường xã hội hiện tại. Chúng ta có thể phân biệt một cách tương đối giữa Folklore đương đại với với các dạng văn hoá chuyên nghiệp, bác học hay văn hoá đại chúng hiện nay.
2. Đô thị Việt Nam và Folklore đô thị
Đô thị và đô thị hoá là khuynh hướng phát triển có từ rất sớm của lịch sử nhân loại, từ đó cũng hình thành lối sống đô thị, một dấu hiệu của văn minh. Đối với nước ta, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học và cổ sử học, thì dấu hiệu đầu tiên và rõ rệt nhất của đô thị cổ là từ các thế kỷ trước công nguyên với sự xuất hiện của Cổ Loa, toà thành thuộc loại cổ nhất của nước ta, thủ đô của nhà nước cổ đại Âu Lạc - An Dương Vương. Từ đó đến nay, lịch sử đô thị hoá ở nước ta đã có tuổi gần bằng tuổi của lịch sử dân tộc, của nhà nước. Chúng ta có thể tạm phân chia các đô thị Việt Nam thành các loại, gắn với các giai đoạn lịch sử khác nhau.
a) Đô thị thời cổ, tiêu biểu là Cổ Loa, Luy Lâu, Đại La.
b) Đô thị thời Trung cổ, tiêu biểu là Hoa Lư, Thăng Long, Đoàn Thanh (Lạng Sơn), Phú Xuân-Huế, Vị Hoang (Nam Định), Thanh Hoa (Thanh Hoá), Vĩnh Dinh (Vinh), Hội An, Trấn Biên (Biên Hoà), Sài Gòn-Bến Nghé ...Trong loại đô thị thời kỳ này bao gồm cả các cảng thị, như Hội An, Phố Hiến ...
c) Đô thị thời cận đại, tiêu biểu là Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Nam Định, Hải Phòng, Đà Nẵng ...(3).
d) Đô thị hiện đại, bên cạnh các thành phố lớn tiếp tục phát triển và mở rộng, như Hà nội, Huế, Sài Gòn-Hồ Chí Minh thì hàng loạt các đô thị với vị trí là các thành phố loại 2,3 và các thị xã, thị trấn, thị tứ hình thành và phát triển ở khắp mọi miền của đất nước từ sau 1945, 1954 và đặc biệt là sau 1975, nước nhà hoà bình và thống nhất.
Sự hình thành, phát triển và thậm chí lụi tàn của các loại đô thị nêu trên đều gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, hoàn cảnh kinh tế, đời sống chính trị, xã hội của từng thời kỳ của lịch sử đất nước ta. Các đô thị thời cổ, như Cổ Loa, Luy Lâu, Đại La gắn liền với sự hình thành quốc gia cổ đại, trung tâm tôn giáo hay lỵ sở của thực dân đô hộ. Các đô thị thời trung cổ hình thành và phát triển gắn liền với việc hình thành các trung tâm chính trị, quân sự của nhà nước phong kiến tự chủ trong quá trình củng cố và phát triển. Các đô thị thời cận đại, như Hà Nội, Huế, Sai Gòn, Hải Phòng ...vừa tiếp nối sự phát triển đô thị thời trung cổ vừa gắn liền với quá trình thực dân hoá và công nghiệp hoá của thực dân Pháp. Còn các đô thị mới hiện đại, thì gắn liền với quá trình ra đời và phát triển của nước Việt Nam mới theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Như vậy, đô thị của nước ta, do hình thành và phát triển vào những thời kỳ lịch sử khác nhau, chịu những tác động của các nhân tố lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau nên chúng cũng mang những sắc thái riêng. Tuy nhiên, nếu nhìn một cách bao quát, chúng ta có thể nêu ra hai đặc trưng cơ bản của đô thị Việt Nam, mà hai đặc trưng đó đã có những ảnh hưởng nhất định tới diện mạo, tính chất và sắc thái của Folklore đô thị :
a) Nếu các đô thị Châu Âu ra đời chủ yếu do các nhu cầu kinh tế, thì các đô thị của nước ta ra đời và phát triển thường gắn liền với nhu cầu cai trị của hệ thống nhà nước, nên chúng trở thành trung tâm về chính trị và văn hóa hơn là trung tâm kinh tế. Từ đó cơ cấu đô thị, nhất là đô thị cổ của chúng ta thường bao gồm hai bộ phận, đô , nơi đặt trấn, xây thành, trung tâm hành chính cai trị và thị , là phố phường, nơi sinh sống của thị dân. Tuy nhiên, trong thời kỳ trung cổ, cũng có trường hợp ngoại lệ, như việc hình thành đô thị cổ Phố Hiến ở miền Bắc và Hội An ở miền Trung thì nhân tố kinh tế lại giữ vai trò chủ đạo.
b) Các đô thị Việt Nam thời trung cổ cũng như thời cận hiện đại đều có mối quan hệ mật thiết với nông thôn. Nói cách khác, nông nghiệp, nông thôn đã chi phối sự tồn tại và phát triển đô thị. Mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết này thể hiện trên phương diện cơ cấu dân cư, hoạt động kinh tế và sinh hoạt văn hoá. Thí dụ, nhiều gia đình Việt Nam đều có các bộ phận ở cả nông thôn và đô thị và họ thường xuyên có mối quan hệ gia đình, dòng tộc với nhau. Nhiều ngành nghề, phố nghề ở đô thị đều có gốc rễ từ một nghề hay làng nghề nào đó ở nông thôn, ngược lại phố nghề ở đô thị đóng vai trò nơi tiếp thị của các mặt hàng thủ công truyền thống của các làng nghề ( 4 ). Các dịp lễ tiết, hội hè, nhiều gia đình từ đô thị trở về nông thôn tham gia các hoạt động tín ngưỡng và văn hoá của cộng đồng làng và gia tộc của mình ... Chính những đặc trưng trên khiến cả nông thôn và đô thị Việt Nam đều mang tính lưõng nguyên, tức tính đô thị ở nông thôn và ngược lại tính nông thôn trong đô thị.
II. Thử nhận diện folklore đô thị
Từ các quan niệm lý thuyết cũng như các đặc điểm đô thị Việt Nam chúng ta thử nhận diện folklore đô thị trong tổng thể folklore đương đại Việt Nam. Có thể nhận diện folklore đô thị từ nhiều góc độ khác nhau, như các lớp văn hoá, các sinh hoạt văn hoá dân gian hiện đang tồn tại trong dân chúng, hay các hiện tượng, nhóm hiện tượng sinh hoạt dân gian còn đang được duy trì trong đời sống cộng đồng hay cá nhân ...
1. Các lớp folklore đô thị
Chúng ta có thể dõi thấy các lớp văn hoá dân gian hiện đang tồn tại trong các sinh hoạt văn hoá đô thị nước ta, như là : a) Các hiện tượng văn hoá dân gian vốn từ nông thôn “nhập nội” vào đô thị, rồi trong môi truờng đô thị mới chúng vừa được “lên khuôn” vừa bị biến dạng đi và b) Các hiện tượng sinh hoạt văn hoá dân gian cũ và mới vốn nảy sinh trong môi trường đô thị. Với loại đầu, ta có thể kể đến các hiện tượng tín ngưỡng, lễ hội, nghi lễ, từ thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, thờ cúng các vị thần linh Đạo giáo dân gian, sinh hoạt đền chùa đến các phong tục tập quán trong cuới xin, ma chay, sinh đẻ, mừng thọ ... Thậm chí, có những phong tục, nghi lễ ở nông thôn đã mất đi, nhưng vẫn giữ lại ở đô thị, như tục cài kim vào tà áo con gái trước khi đón dâu... Sự tồn tại và phát triển của các nghề thủ công ở đô thị cũng xuất phát từ làng nghề ở nông thôn, từ đó tạo ra hình thức phố nghề ở đô thị cũng là một thí dụ điển hình cho folklore đô thị .... Hiện tượng “di trú” văn hoá dân gian từ nông thôn vào đô thị thể hiện một đặc trưng đã nêu trên của đô thị Việt Nam là gắn bó mật thiết với nông thôn, là sự “kéo dài” của nông thôn.
Nếu các hiện tượng nghi lễ và phong tục ở đô thị có phần nào giữ lại tương đối nguyên mẫu nông thôn, thì việc ăn, mặc của người đô thị đã có sự biến đổi khá nhiều do môi trường sống và nhu cầu của thị dân có khác nhiều so với người nông dân ở thôn quê. Chúng ta phải kể tới ẩm thực của Hà Nội, Huế, Sài Gòn như là sự nối kết và phát triển của folklore đô thị lên trình độ cao và hình thành văn hoá chuyên nghiệp ( 5 ). Chúng ta cũng có thể nói tới chiếc áo bà ba Nam Bộ đã từ nông thôn vào đô thị và phát triển thành bộ đồ bà ba mặc thường ngày với nhiều cải tiến và sáng tạo về cách cắt may, màu sắc và chất liệu vải như thế nào. Chúng ta cũng có thể đề cập tới hình thức nhà vườn Huế đã từ nông thôn “di trú” vào đô thị và tự “nâng mình” lên như thế nào để trở thành một trong những nét độc đáo và đặc sắc nhất của văn hoá Huế...(6).
Trong folklore đô thị, tuy không nhiều, nhưng đây đó cũng xuất hiện các hiện tượng mới, sản phẩm của đời sống văn hoá của thị dân. Điều thể hiện rõ nét nhất đó là những quan hệ và giao tiếp xã hội của thị dân mà trước đó không lâu họ còn sống trong bầu không khí cộng đồng của làng xã, nay ít nhiều đã tiêm nhiễm thói ứng xử “cháy nhà hàng phố bằng chân như vại”. Rồi các sinh hoạt văn hoá đã phần nào bị ”cá nhân hoá” do phổ biến các phương tiện truyền thông tuy “đại chúng” nhưng lại được đưa đến từng cá nhân. Các quan niệm xã hội và chừng nào cả chính trị nữa được thể hiện qua cái vỏ cũ là giai thoại để truyền bá, một sản phẩm đặc hữu của folklore đô thị. Cũng có thể do tốc độ đô thị hoá nhanh, sức dồn nén của nhịp sống đô thị, của cơ chế thị trường, thị dân có xu hướng tìm đến các hình thức thư dãn, dưỡng sinh, như các câu lạc bộ nhảy múa cho cả người trẻ và người già, phong trào thể dục buổi sáng ở các nơi công cộng, xu hướng tạo nên các “tiểu môi trường” bằng cây cảnh trong ngay căn phòng của mình. Du lịch hành hương vốn nảy sinh từ xa xưa, ở cả thành phố và nông thôn, nhưng không thể phủ nhận rằng hình thức đó đang trở thành sinh hoạt văn hoá đặc hữu của đô thị.
Lâu nay, folklore học thường “né tránh” các hình thức sinh hoạt của “xã hội đen”, như cờ bạc, ma tuý, đĩ điếm, cá cược, đề đóm ..., một sản phẩm cũng rất “đặc hữu” của sinh hoạt đô thị. Nếu chúng ta chấp nhận những quan niệm văn hóa không dựa trên bảng “giá trị hay không giá trị”, tức trường phái “văn hóa phi giá trị”, thì những hiện tượng kể trên là gì nếu không coi đó cũng là một mặt (dù là mặt trái) của văn hoá dân gian ? Đấy là chưa kể chúng ta đang tuyên chiến với chúng, hạn chế và đẩy lùi chúng để làm lành mạnh hoá xã hội. Nhân đây tôi cũng xin đề nghị các nhà folklore học bớt một chút “mặc cảm” để bắt đầu chú ý tới thứ “folklore đen” này của xã hội đô thị, không phải chỉ là nhận diện chúng mà hơn thế nữa để cắt nghĩa cái căn cỗi xã hội nào đã ‘đẻ” ra chúng. Thực ra, đây không phải là vấn đề mới mẻ, mà ngay từ thế kỷ XIX, Rabơle đã chú ý tới nó khi Ông nghiên cứu các hình thức “ngôn ngữ quảng trương”, “sinh hoạt quảng trương” của sinh hoạt văn hoá của đô thị Pháp.
b) Những sinh họat folklore đô thị
Trước khi đi vào nhận diện các mảng lớn của sinh hoạt folklore đô thị, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới một trong những đặc thù của sinh hoạt văn hóa đô thị nói chung, trong đó có văn hóa dân gian nói riêng. Đó là, khi đô thị đã ra đời, thị dân đã hình thành, thì với tất cả tính ưu việt , “đầu tầu” của nó về chính trị, xã hội và văn hoá, đô thị luôn có xu hướng “đô thị hoá” toàn bộ xã hội, ghi dấu ấn “đô thị” vào toàn bộ các hoạt động xã hội. Từ luận điểm này, có thể soi dọi vào việc nhận diện folklore đô thị. Đó là Folklore đô thị không chỉ bó hẹp trong phạm vi đô thị, mà nó luôn có xu hướng “ngập tràn”, lan toả ra mọi tầng lớp xã hội, mọi miền của đất nước. Do vậy, dõi tìm folklore đô thị không chỉ bó hẹp trong các thành phố, thị xã, thị trấn, mà ở cả nông thôn, vùng núi nữa.
Nếu nhìn từ góc độ sinh hoạt văn hoá dân gian, tức folklife, chứ không phải theo kiểu “thành tố” folklore có phần trìu tượng, “chết cứng”, thì sinh hoạt folklore đô thị (hay Folklife đô thị) biểu hiện dưới các hình thức sau :
a) Folklife gia đình, dòng họ , biểu hiện trên các phương diện sinh hoạt thường ngày ( ăn, mặc, ở, giải trí, vui chơi, giao tiếp gia đình, nuôi dạy con cái ...) và sinh hoạt mang tính phong tục, nghi lễ (nghi lễ, phong tục trong sinh đẻ, cưới xin, ma chay, mừng thọ, sinh nhật, cúng giỗ ...).
b) Tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội cộng đồng vào các dịp hội hè, lễ tiết ở các đền phủ trong và ngoài đô thị. Đây cũng là môi trường cho một hình thức sinh hoạt văn hoá đang rất thịnh hành là du lịch hành hương, kết hợp giữa cúng lễ và du lịch, nhất là vào hai dịp “xuân thu nhị kỳ”. Đây cũng là môi trường cho sự hồi sinh và tái tạo các sinh hoạt diễn xướng dân gian, như múa, hát dân ca, sân khấu, trò diễn, trò chơi dân gian ...
c) Văn hoá ẩm thực đô thị là sự nối tiếp và nâng cao những truyền thống tri thức ẩm thực và ứng xử dân gian trong điều kiện sinh hoạt thị dân ở đô thị, đặc biệt bùng phát trong môi trường đô thị và kinh tế thị trường hiện nay. Lâu nay, khi bàn tới văn hoá ẩm thực, người ta thường quan tâm nhiều hơn tới các món ăn và cung cách chế biến nó, mà chưa chú ý đúng mức tới các khía cạnh ứng xử và giao tiếp xã hội trong ẩm thực.
d) Những sáng tạo nghệ thuật và nhu cầu hưởng thụ của thị dân không chỉ hướng về các sáng tạo nghệ thuật chuyên nghiệp, có trình độ cao, mà bên cạnh nhu cầu hưởng thụ các giá trị nghệ thuật đỉnh cao đó còn có nhu cầu tìm tòi các giá trị độc đáo mang tính địa phương, tộc người, các sáng tạo cá nhân của nghệ nhân ... Nhu cầu đó làm phục hưng các ngành nghề thủ công, nhất là thủ công mỹ nghệ (tranh, tượng dân gian, gốm sứ, dệt thổ cẩm, hàng tơ lụa ...), việc tìm tòi các hình thức ăn mặc, trang sức vừa dưới sự hướng dẫn của “mốt” chuyên nghiệp vừa là sáng tạo của cá nhân; các hình thức sinh hoạt diễn xướng, vui chơi giải trí của các nhóm xã hội vừa kết hợp tính chuyên nghiệp vừa mang tính ngẫu hứng dân gian ...
e) Các hình thức dưỡng sinh và trị bệnh dân gian được phục hồi và phát huy trong môi trường sinh hoạt đô thị, kể cả các hình thức kết hợp với cúng lễ để chữa bệnh.
g) Các hình thức truyền miệng dân gian, như giai thoại, tiếng đồn và dư luận xã hội, trong đó các giai thoại mang tính xã hội-chính trị thường là lĩnh vực nhạy cảm, lúc tĩnh lặng, lúc bùng phát tuỳ theo tình hình xã hội từng thời kỳ.
Kết luận
1. Folklore đô thị là một thực thể, hình thành và tồn tại từ rất lâu đời cùng với sự ra đời của đô thị trong lịch sử nhân loại, nó là bộ phận hợp thành của văn hoá đô thị trong xã hội truyền thống cũng như xã hội hiện đại.
2. Do những đặc thù của đô thị Việt Nam, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ về nhiều mặt với nông thôn, folklore đô thị của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, chúng ta có thể nhận diện nó từ nhiều góc độ khác nhau.
3. Trong xây dựng văn hoá đô thị hiện đại, cần bảo tồn và phát huy những giá trị tích cực của folklore đô thị, chính đó là mảng mầu làm phong phú, đa dạng, cũng như tạo nên những nét độc đáo của văn hoá đô thị Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). Quan niệm về Folklore. Nxb. KHXH,H., 1990.
2. Alan Dendes. Who are Folk - “Interpreting Folklore”, Indiana University Press, 1980.
3. Xem thêm : Nhiều tác giả. Đô thị cổ Hội An. Nxb. KHXH. H., 1991.
4. Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo. Làng nghề- phố nghề Thăng Long, Hà Nội, H., 2000.
5. Trần Quốc Vượng (chủ biên). Tìm hiểu di sản văn hoá dân gian Hà Nội. Nxb. Hà Nội, 1994.
6. Ngô Đức Thịnh. Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam. Nxb. Trẻ, 2004.
Nguồn: @vanhoahoc.edu.vn