Nhiều nước phương Tây như Pháp, Ý, Đức, Nga có truyền thống ủng hộ mạnh mẽ các hoạt động nghệ thuật trong đời sống xã hội, trong đó Pháp nổi bật nhất với các hoạt động duy ý chí nhà nước, và trong số các ngành nghệ thuật thì sân khấu nhà hát kịch luôn được coi là bộ phận cơ động nhất của văn hóa “theo kiểu Pháp”[1]. Tuy nhiên, theo P. Urfalino, quan niệm nhà nước có thể sử dụng nghệ thuật làm đòn bẫy để cải biến xã hội một cách có ý nghĩa là điều sai lầm. Tác động của nghệ thuật trong đời sống xã hội khá hạn chế, hoặc ít ra là rất gián tiếp. Chính sách nhà văn hóa tại Pháp sau gần 50 năm cho thấy nghệ thuật không thể nào thay thế hoặc tiếp cận tốt hơn so với nền giáo dục quốc dân trong lĩnh vực đấu tranh chống bất bình đẳng xã hội[2].
Nghệ thuật là một trong những thành quả sáng tạo của văn hóa, song không vì thế mà đồng nhất nghệ thuật với văn hóa. Nghệ thuật có đời sống và lĩnh vực hoạt động riêng. Mặt khác, văn hóa không giới hạn hoạt động của mình trong nghệ thuật, vì giá trị của văn hóa thường biến đổi theo thời cuộc. Đối tượng của hoạt động nghệ thuật là những cảm thụ thẩm mỹ, hướng đến cái đẹp, làm cho đời sống của con người ngày càng thêm phong phú; trong khi đối tượng của văn hóa là hiện thực trong đời sống xã hội, bao gồm các hoạt động sáng tạo nhằm không ngừng hoàn thiện đời sống con người, theo quy luật phát triển, đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng hơn.
Có thể hình dung nghệ thuật phát triển theo trục đứng, lắng đọng hoặc bay bổng, tùy thuộc hứng thú và sở thích cá nhân, tạo ra khoảng cách giữa sáng tạo và hưởng thụ, có giá trị định tính; trong khi đó, văn hóa chuyển động theo trục ngang, dựa trên bệ đỡ của sự vận động và phát triển xã hội, luôn đặt ra yêu cầu đổi mới để khai thác, hưởng dụng các thành quả, nên có thể định lượng... Đời sống văn hóa càng cao, nghệ thuật càng phát triển, giống như cây phải bón từ gốc. Trong khi đó, sứ mạng của văn hóa, trái lại, nhằm san bằng mọi khoảng cách bất bình đẳng, không chỉ về địa lý hoặc xã hội, theo các trào lưu hoặc do động cơ chính trị, mà trước hết phải tạo ra các điều kiện để mọi người dân đều bình đẳng về các nhu cầu hưởng dụng.
Do đó, một trong những kinh nghiệm đắt giá nhất có thể rút ra từ mô hình xây dựng nhà văn hóa tại Pháp là chính sách văn hóa phải dựa trên nền tảng đáp ứng các nhu cầu đời sống văn hóa ngày càng đa dạng của người dân.
Từ chính sách văn hóa...
Chính sách văn hóa của Pháp có nguồn gốc từ truyền thống nhà nước quân chủ, trong đó, cả ba quyền lực hành chính, chính trị và văn hóa tập trung từ rất sớm vào lĩnh vực nghệ thuật. Tuy nhiên, chính sách văn hóa ấy, nếu bắt đầu tính từ năm 1959 khi lần đầu tiên thành lập Bộ văn hóa tại Pháp thì cho đến đầu những năm 1990, bất chấp mọi nỗ lực theo đuổi, đã bị thất bại nhiều lần.
Theo định nghĩa của André Malraux, bộ trưởng văn hóa đầu tiên của nước Pháp, chính sách văn hóa là một bản thiết kế mang tính xã hội, thẩm mỹ và cải cách. Văn hóa, theo quan niệm của ông, giống như tôn giáo theo kiểu “tôn giáo dân sự” của J. J. Rousseau trong Khế ước xã hội[3], làm cho chính sách văn hóa ra đời trên cơ sở đối lập với thiết chế ở cơ sở[4], và đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thất bại của chính sách nhà văn hóa[5].
Thực vậy, Nhà nước Pháp thời Malraux được gọi là nhà nước thẩm mỹ[6] do hệ tư tưởng chính trị muốn tạo lập mối quan hệ trực tiếp giữa nhà nước và công chúng thông qua các hoạt động văn hóa[7]. Chính sách văn hóa của Pháp, trải qua nhiều đời bộ trưởng, từ Malraux đến Duhamel (1973) và từ Duhamel đến Lang (1982), mặc dù đã khoác thêm một số nhân tố và triết lý mới, kể cả chuyển hướng hoạt động[8] để phù hợp hơn với tình hình và để cứu vãn tình thế, song nhìn chung vẫn dựa trên cơ sở của thời kỳ đầu, mà hiện thân của nó là chính sách xây dựng nhà văn hóa theo sáng kiến của Malraux.
Chính sách văn hóa thời Malraux, chỉ trong vòng 10 năm, đã coi như bị thất bại kể từ sau biến cố tháng 5-1968[9] làm rung chuyển nước Pháp. Đây cũng là thất bại tất yếu của chính sách “dân chủ hóa văn hóa” theo tinh thần Giáo dục bình dân[10], nhằm mục tiêu đưa văn hóa tiếp cận với nhiều người nhất[11]. Chủ trương dân chủ hóa văn hóa đã được Malraux xác lập ngay từ khi thành lập Bộ văn hóa. Ông cho rằng: văn hóa có “sứ mạng đem lại những công trình chủ yếu của nhân loại, trước hết là của nước Pháp, đến được với nhiều người nhất; bảo đảm sự quan tâm rộng rãi nhất đối với di sản văn hóa, tạo thuận lợi cho việc sáng tạo những công trình nghệ thuật và tinh thần, làm cho chúng ngày càng thêm phong phú”. Chính mối bận tâm bình đẳng về nghệ thuật (mà không phải bình đẳng về xã hội – TNK nhấn mạnh) đã làm sống dậy lý tưởng dân chủ hóa văn hóa[12]. Dân chủ hóa văn hóa là một trào lưu tiến bộ, phản ánh đúng các nhu cầu hiện thực của đời sống xã hội từ thời kỳ Mặt trận bình dân. Đó cũng là thắng lợi của các lực lượng dân chủ, không chỉ riêng ở nước Pháp. Tuy nhiên, theo phân tích của P. Urfalino, chính sách văn hóa thời Malraux thất bại vì ba nguyên nhân:
- Một, về ý thức hệ, Malraux quá đề cao vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội, với sự can dự của Nhà nước[13];
- Hai, chính sách văn hóa trên thực tế đã góp phần hình thành khu vực nghệ thuật chuyên nghiệp được Nhà nước bảo trợ[14];
- Ba, việc xây dựng một bộ máy quản lý hành chính từ trên xuống phục vụ chính sách văn hóa[15].
Điều bất cập ở đây là do quan niệm văn hóa chủ yếu giới hạn trong lĩnh vực nghệ thuật (đến đỗi sau này Bộ văn hóa từ thời Malraux được coi là Bộ nghệ thuật); do việc sử dụng quyền lực chính trị, kể cả tài chính để áp đặt mô hình nhà văn hóa, tạo nên mâu thuẫn đối lập với hệ thống các thiết chế văn hóa đang vận hành ở cơ sở. Nhà văn hóa ra đời ở thời kỳ này là nơi thể hiện ý chí và quyền lực của Nhà nước, thông qua Bộ văn hóa, hơn là một trung tâm thu hút, tổ chức các hoạt động văn hóa, hoặc là trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa của các cộng đồng cư dân trên toàn lãnh thổ nước Pháp.
Chính sách nhà văn hóa về thực chất là chính sách trang bị văn hóa[16], trong đó bao gồm số lượng và cách thức bố trí các phòng ốc, các nguyên tắc vận hành, các loại hình hoạt động khác nhau và sự phân bố trên toàn bộ lãnh thổ. Song như vậy chưa đủ và không bảo đảm mang lại thành công cho các hoạt động, vì còn vai trò và tiềm năng của phương tiện trang bị[17] và nhà quản lý trong việc thực thi chính sách[18], mối quan hệ với các hiệp hội và các đại biểu dân cử ở địa phương cũng như nhiều khó khăn khác.
...Đến mô hình nhà văn hóa
Mặc dù vậy, thời kỳ từ năm 1959 đến 1973, nhà văn hóa được coi là mô hình tiêu biểu trong các hoạt động của Bộ văn hóa. Mô hình này từng xuất hiện trước đó vào những năm 1930 trong thời kỳ Mặt trận bình dân[19] dưới hình thức “Nhà nhân dân” theo kinh nghiệm của Liên Xô[20], nhằm đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Trong bối cảnh đặc thù của nước Pháp, đó còn là sự tiếp nối chủ trương giải trung ương hóa nghệ thuật sân khấu của Jeanne Laurent tiến hành từ thời Đệ tứ Cộng hòa. Chỉ mấy tháng sau khi nhậm chức bộ trưởng Bộ văn hóa, Malraux tuyên bố ở liên hoan Cannes rằng trong vòng 3 năm, ở các tỉnh, mỗi nhà văn hóa đều sẽ có một câu lạc bộ điện ảnh! Nhà văn hóa, theo sáng kiến của Malraux, là “ngôi thánh đường hiện đại” của thế kỷ XX[21].
Việc thành lập nhà văn hóa ở thời kỳ đầu được tiến hành cẩn trọng theo ba giai đoạn: từ đầu năm 1959 đến tháng 5-1960, chính sách nhà văn hóa được chuẩn bị nhưng chưa tiến hành; từ tháng 5-1960 đến mùa hè 1961, chính sách nhà văn hóa được Pierre Moinot chi tiết hóa, trong đó mô hình nhà văn hóa khác biệt rõ rệt với di sản Giáo dục bình dân và Nhà thanh niên và văn hóa[22]; cuối cùng, bằng việc bổ nhiệm Émile Biasini đứng đầu Cục sân khấu, âm nhạc và hoạt động văn hóa vào tháng 9-1961, chính sách nhà văn hóa mới bắt đầu triển khai thực hiện và tổ chức hoạt động ổn định từ tháng 10-1962 trở đi.
Malraux và các cộng sự ở Bộ văn hóa đã xây dựng mô hình nhà văn hóa trên cơ sở bác bỏ chức năng giáo dục, dù là không chuyên, của các hiệp hội Giáo dục bình dân. Malraux quan niệm dân chủ hóa văn hóa không quan tâm đến việc giáo dục văn hóa hoặc thực hành nghệ thuật, mà chủ yếu làm thế nào đưa nghệ thuật, các tác phẩm công trình và nghệ sĩ đến với công chúng. Nếu như ở trường học (gồm Nhà thanh niên, Giáo dục bình dân và các trường đại học) là nơi truyền đạt kiến thức, đem lại sự hiểu biết đã hoàn thành thì nhà văn hóa sẽ là nơi biểu diễn, sáng tạo cái chưa hoàn thành để mang lại sự ham thích cho người dự. “Hiểu biết là việc của trường đại học; còn yêu thích mới là công việc của chúng tôi” (diễn văn đọc tại Thượng viện, ngày 8-12-1959).
Quan niệm về sự hiểu biết cái hoàn thành và chưa hoàn thành của văn hóa làm cho nhà văn hóa tách biệt với hoạt động của các trường học và hiệp hội Giáo dục bình dân. Theo P. Urfalino, sự đứt đoạn của văn hóa theo quy luật nhận thức[23] làm cho nhà văn hóa ra đời không đặt cho mình nhiệm vụ là nơi thu hút - gặp gỡ, mà tự cho mình là một thứ vật thiêng, biểu tượng liên kết, nghi thức “hành lễ” giống như ngôi thánh đường, với sự tham gia bình đẳng của mọi giới công chúng nhờ vào trung gian của năng lực cảm giác và trí tưởng tượng[24]. Nhà văn hóa, thực ra, cũng chỉ là một thứ công trình, phương tiện trang bị làm vật chứa. Bản thân nó không hẳn là vật được chứa thuộc về biểu tượng để có thể truyền bá hoặc “mặc khải” sự sáng tạo. Nhà văn hóa tự nó “vừa không thể khẳng định các giá trị, cũng không thể căn cứ vào sự tham gia của các cá nhân để biến nó thành một cộng đồng mang giá trị tinh thần”[25].
Nhà văn hóa được thiết lập chủ yếu dựa vào quyết định, trang bị và tổ chức vận hành, bổ nhiệm người quản lý và kết hợp tài chính giữa nhà nước và các địa phương. Việc xây dựng nhà văn hóa tại Pháp thể hiện nỗ lực giải quyết vấn đề bất bình đẳng về mặt địa lý và xã hội, cùng với chủ trương phân cấp giải trung ương hóa đi đôi với dân chủ hóa để tạo nên nền văn hóa dân chủ. Song tính chất dân chủ ấy của văn hóa là nền nghệ thuật được xã hội hóa[26] còn chưa toàn diện và chắc hẳn phải khác với nội hàm xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Bên cạnh đó, sự phát triển các phương tiện truyền thông đã làm biến đổi vai trò của các công trình nghệ thuật, làm cho nghệ thuật trở thành loại tài sản có thể tiêu dùng ngay, kể cả đối với số khán giả thụ động...
Về kế hoạch xây dựng nhà văn hóa trong thời kỳ đầu tại Pháp, theo phúc trình năm 1961 của Pierre Moinot[27] trước nhóm công tác “Hoạt động văn hóa”, được tóm tắt dựa trên 8 điểm:
1. Về nguyên tắc:
- Nhà văn hóa có sứ mạng tiếp tục theo đuổi các mục tiêu của Giáo dục bình dân trên cơ sở mới, làm cho mỗi người đều có thể gặp gỡ, đối chất trực tiếp và thực tế với tác phẩm và các nghệ sĩ;
- Việc lựa chọn, trình diễn các hoạt động nghệ thuật căn cứ theo 4 yêu cầu có tính liên đới chặt chẽ, gồm: tính phổ biến, tính đa năng (tất cả các loại hình nghệ thuật), tính đa dạng (không một trào lưu hoặc cách thức biểu diễn nghệ thuật nào được ưu tiên), và đạt yêu cầu về chất lượng.
- Yêu cầu về chất lượng dẫn đến hai hệ quả: Nhà văn hóa sẽ là một “trung tâm nghệ thuật mang tính chuyên nghiệp”, nơi tổ chức nhiều hoạt động nghệ thuật. Những đoàn nghệ thuật không chuyên chỉ được tiếp nhận tùy theo chất lượng hoạt động, chứ không phải do có gốc gác địa phương hoặc do tính chất đại diện của họ.
2. Về chương trình: Các chương trình biểu diễn nghệ thuật phải rất đa dạng, được người dân ở địa phương yêu thích hoặc do những nhà chuyên nghiệp đề xuất, gồm: sân khấu kịch, âm nhạc, khiêu vũ, điện ảnh, nghệ thuật tạo hình; các nhân chứng lịch sử, hội họp có tính chất văn chương, kể chuyện tham quan du lịch, nói chuyện với các nhà chuyên môn; các hoạt động hướng nghiệp và thông tin; các chuyến đi dã ngoại như tổ chức đi chơi tập thể; các sáng kiến nhằm nâng cao các sắc thái biểu hiện của người dân ở địa phương theo kiểu lễ lạt, lễ hội dân gian; sau cùng là những sáng kiến giúp cho việc phối hợp, trao đổi giữa các thiết chế văn hóa khác nhau trong vùng, kể cả quốc gia.
3. Về kiến trúc: Trong bản phúc trình về nhà văn hóa, có phác thảo một nhà văn hóa kiểu mẫu, thật chi tiết và đầy đủ về “các đặc điểm cơ bản của kiến trúc nhà hát hiện nay” và “chương trình xây dựng và trang bị các nhà văn hóa”.
4. Khẳng định có nhiều mô hình nhà văn hóa: Nhà văn hóa kiểu mẫu tương ứng với mô hình kiến trúc đầy đủ nhất và có hoạt động hoàn toàn đa năng, cùng với hai kiểu nhà văn hóa khác có quy mô khiêm tốn hơn[28].
5. Về quy chế thiết lập các phương thức hợp tác giữa nhà nước, hội đồng thành phố và những người phụ trách nhà văn hóa sau này: Các văn bản này xác định tư cách pháp nhân của nhà văn hóa, phân bổ tài chính và thẩm quyền giữa nhà nước và hội đồng thành phố, lập sơ đồ về các thủ tục trước mắt chi phối việc thành lập và vận hành nhà văn hóa (quyền sử dụng trụ sở, quyết định nội dung chương trình). Quy chế này có hai điểm quan trọng: chấp nhận hoạt động “hiệp hội chi phối theo luật năm 1901” là hình thức pháp lý về tổ chức quản lý nhà văn hóa; song phần đóng góp của hội đồng thành phố và tài trợ của nhà nước chuyển cho hiệp hội để vận hành nhà văn hóa vẫn chưa được xác định.
6. Theo yêu cầu đưa vào Kế hoạch 4 năm (1962-1965), nhóm P. Moinot đệ trình lên hội đồng một bản ước lượng tài chính cần thiết để xây dựng nhà văn hóa. Phần của nhà nước được dự kiến 50% để xây dựng mới 25 nhà văn hóa và quản lý 5 cơ sở đã có từ trước.
7. Đề án thành lập “Trung tâm quốc gia đào tạo quản lý văn hóa”: Trung tâm này hỗ trợ các nhà văn hóa và các trung tâm sân khấu, đào tạo các cán bộ quản trị hành chính, các tác giả trẻ, các đạo diễn, phối cảnh trang trí và kỹ thuật viên, kể cả các diễn viên sân khấu, còn các nhà quản lý nhà văn hóa có chương trình đào tạo riêng.
8. Đề án thành lập “Trung tâm quốc gia thông tin và truyền bá văn hóa”: với 3 chức năng chủ yếu: phổ biến, soạn thảo và đưa ra một danh mục biểu diễn nghệ thuật chất lượng cao và đủ thể loại; nơi gặp gỡ của các nhà quản lý văn hóa; tổ chức giới thiệu và triển lãm thường xuyên để giữ quan hệ với các đơn vị biểu diễn mà trung tâm giới thiệu. Như vậy, trung tâm này cũng là một nhà văn hóa, nên cần bảo đảm tất cả các đặc trưng về kiến trúc.
Theo Pierre Moinot, nhà văn hóa tiến hành hoạt động dưới 3 hình thức chủ yếu: phổ biến những tác phẩm nghệ thuật và tinh thần, kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật; tổ chức về kinh tế, xã hội dân sự; tiến hành các hoạt động thủ công mỹ nghệ và vui chơi giải trí thuần túy, vì “Nhà văn hóa không phải là phòng khánh tiết, trung tâm văn hóa của đô thị, trụ sở của các hiệp hội hoặc trung tâm mà nhóm văn học hoặc yêu thích âm nhạc tại chỗ mong đợi; nó cũng không phải là phòng mà các nhà đóng kịch tài tử, các giáo sư dạy kèm buổi tối, các họa sĩ ngày chủ nhật hoặc các hội đoàn dân gian mơ ước, cũng không phải là nơi dạy nhạc, không gian văn hóa đi kèm với không gian xanh theo quy hoạch đô thị...”.
Chính sách nhà văn hóa được Pierre Moinot phác thảo và Émile Biasini hoàn thành. Ở thời kỳ đầu, nhà văn hóa được coi là nơi tập hợp các hoạt động và sáng kiến văn hóa tản mác ở thành thị, nơi gặp gỡ giữa các nhà nghệ thuật không chuyên, nghệ sĩ chuyên nghiệp và trí thức; mãi đến năm 1962 mới công nhận vai trò tác nhân trung gian khi cho rằng chính thiết chế nhà văn hóa và cán bộ quản lý mới bảo đảm hiệu quả cho các cuộc gặp gỡ giữa nghệ thuật và công chúng[29].
Theo báo cáo tổng hợp của Ủy ban kế hoạch, “trang bị văn hóa và di sản nghệ thuật” ở thời kỳ này được phân bố như sau:
Tuy nhiên, kể từ sau năm 1972, chính sách nhà văn hóa hầu như đã bị thả lỏng, nằm ngoài khuôn khổ hoạt động văn hóa của nhà nước. Dưới thời bộ trưởng J. Duhamel, nhà văn hóa không còn được coi là các “trang bị” tiêu biểu cho chính sách văn hóa của nhà nước nữa khi tiến hành xây dựng các Trung tâm hoạt động văn hóa (CAC). Các trung tâm này khác với nhà văn hóa không chỉ về quy mô, mà còn do quan niệm mới về các quan hệ giữa nhà nước, cơ sở văn hóa với nhà quản lý, các đại biểu thành phố và các hiệp hội văn hóa địa phương. Theo P. Urfalino, có thể do từ bỏ nguồn gốc và động cơ chính trị, hoặc do có sự biến đổi về môi trường đòi hỏi phải thay đổi công cụ hoạt động văn hóa[30].
Và sự ra đời của các Trung tâm hoạt động văn hóa (CAC)
Các Trung tâm hoạt động văn hóa (CAC) ra đời[31] thể hiện xu thế tất yếu của chính sách văn hóa nhằm phát triển các hoạt động văn hóa trên toàn lãnh thổ nước Pháp, trong đó phải kể đến vai trò của Liên hiệp quốc gia các Trung tâm văn hóa đô thị (FNCCC), nhất là kể từ sau cuộc bầu cử thắng lợi năm 1977 của Liên minh cánh tả ở nhiều đô thị trên 30 ngàn dân.
Ngay từ giữa tháng 5-1960, tức chỉ một năm sau ngày thành lập Bộ văn hóa, đại biểu của 51 hội đồng thành phố đã nhóm họp tại Saint-Étienne, theo sáng kiến của phó thị trưởng Michel Durafour, thành lập Liên hiệp FNCCC. Xuất phát từ quan điểm “Văn hóa ở các nhà máy, thành thị của Pháp thì tốt hơn là ở văn phòng bộ trưởng”, Liên hiệp khẳng định vai trò của các trung tâm văn hóa đô thị đối với sự nghiệp dân chủ hóa văn hóa; cho rằng sự phối hợp giữa các hiệp hội và giữa các hiệp hội với hội đồng thành phố là nguyên tắc quản lý căn bản của các trung tâm văn hóa đô thị.
Ngoài chức năng đầu tiên là nơi tập hợp, trang bị, tiếp nhận các hoạt động văn hóa, trung tâm còn là nơi tập hợp tất cả các hiệp hội văn hóa tại địa phương, không đặt ra yêu cầu giới hạn về chất lượng nghệ thuật hoặc văn hóa (các nghệ sĩ chuyên nghiệp không có chỗ ở các trung tâm văn hóa hoặc ít khi được mời). Trung tâm còn có chức năng là công cụ cổ động, tạo thuận lợi phát triển đời sống văn hóa, bao gồm nhiều phương diện khác nhau của đời sống xã hội và của mọi tầng lớp cư dân; ủng hộ và phối hợp các phương tiện của các hiệp hội và thiết chế văn hóa ở địa phương.
Mô hình trung tâm văn hóa đô thị, theo Liên hiệp FNCCC, là một “ngôi nhà chung”, có thể làm sống lại tinh thần Giáo dục bình dân qua hệ thống chính trị và hành chính truyền thống, vận hành trên cơ sở hiệp thương giữa quản lý hành chính của thành phố, các đại biểu dân cử và đại diện nghề nghiệp hoặc các nhóm xã hội. André Malraux cũng xuất phát từ mục tiêu văn hóa cho mọi người của Giáo dục bình dân, song điểm khác biệt là ông đã giao cho các nghệ sĩ chuyên nghiệp vai trò hầu như độc quyền của Đấng tạo hóa trong các “ngôi thánh đường” nhà văn hóa của mình. Người ta ví các trung tâm hoạt động văn hóa như là những ngôi “nhà thờ” nhỏ bên cạnh ngôi “thánh đường” lớn là Nhà văn hóa. Song khác với quan niệm của Malraux về chức năng sáng tạo và truyền bá của nhà văn hóa, Liên hiệp cho rằng truyền bá văn hóa là học kỳ kéo dài của trường học và không có sự phân biệt giữa văn hóa, giáo dục và các hoạt động trong thời gian rỗi.
Mâu thuẫn giữa Liên hiệp FNCCC và Bộ văn hóa bắt nguồn từ tính hợp pháp, vai trò của Nhà nước và bộ máy hành chính trong sự can thiệp công của chính sách văn hóa đối với các đô thị và các đại biểu dân cử. Liên hiệp cho rằng Nhà nước can thiệp quá đáng trong đào tạo cán bộ và các nhà quản lý của các trung tâm văn hóa, vì họ không phải là “đại biểu tinh thần” về ý thức hệ hoặc quyền lực chính trị, mà là những người bảo đảm cho sự độc lập của văn hóa theo hình thức tự trị của các thiết chế đối với quyền lực chính trị[32].
Chính sách văn hóa của Pháp kể từ sau biến cố tháng 5-1968
Ngày 25-5-1968, những người phụ trách các thiết chế giải trung ương hóa văn hóa (gồm các trung tâm nghệ thuật kịch quốc gia từ thời Jeanne Laurent[33], các đoàn hát lưu diễn chủ yếu mới thành lập từ sau chiến tranh thế giới thứ hai và các nhà văn hóa thời André Malraux[34]) đã họp tại Villeurbanne ra tuyên bố bác bỏ những nguyên tắc dân chủ hóa văn hóa, làm cho lý tưởng dân chủ hóa văn hóa thông qua mô hình nhà văn hóa kể từ tháng 5-1968 trở đi như một thứ “tín ngưỡng”.
Năm 1969 – 1970, chính sách nhà văn hóa bị đình trệ. Pierre Moinot và Francis Raison, rồi André Malraux rời Bộ văn hóa. Từ sau năm 1973, các nhà văn hóa không còn được coi là mẫu mực hoặc thiết chế điển hình về chính sách văn hóa của Nhà nước. Hoạt động văn hóa của nhà văn hóa không còn là mục đích, “nơi gặp gỡ chung cuộc” giữa công chúng và nghệ thuật, mà chỉ là phương tiện. Theo Guy Brajot, giám đốc Cục nhà hát, nhà văn hóa và văn chương (DTMCL), đa số các nhà quản lý nhà văn hóa đều theo quan niệm “xã hội” hoặc chí ít là giáo dục - xã hội, trái ngược lại với quan niệm “mỹ học” trong hoạt động văn hóa thời André Malraux.
Năm 1982, Jack Lang, thành viên đảng xã hội Pháp làm bộ trưởng Bộ văn hóa. Ông trung thành với khẩu hiệu “kinh tế và văn hóa cùng chung trận tuyến” và theo đuổi chương trình cánh cửa văn hóa (chủ yếu về nghe nhìn) trong diễn văn đọc tại Mexico năm 1982. Chính sách văn hóa của Pháp tập trung các hoạt động công vào những tác động kinh tế và bảo vệ bản sắc Pháp, trong đó “công nghiệp điện ảnh và chương trình tổ chức biểu diễn là chỗ dựa chính của vấn đề chính sách văn hóa”[35]...
Vấn đề đặt ra là tại sao chính sách nhà văn hóa thất bại? Phải chăng đó là trường hợp ngoại lệ của nước Pháp, vì nguyên do ý thức hệ, sách lược chính trị, tham vọng nghệ thuật của một vài nhân vật chủ chốt, hoặc liệu nhà văn hóa có thể đóng trọn vẹn vai trò dân chủ hóa việc tiếp cận văn hóa của người dân. Chung quy thất bại của chính sách và mô hình nhà văn hóa tại Pháp có thể do một số nguyên nhân sau:
- Một, về tư tưởng, do những biến chuyển của tình hình thế giới trước và sau chiến tranh thế giới thứ 2 và bối cảnh xã hội đặc thù của nước Pháp, quan niệm về văn hóa và chính sách văn hóa khá hạn hẹp khi cho rằng nghệ thuật là phương tiện có thể chuyển hóa mọi mặt của đời sống xã hội, thực hiện chủ trương “văn hóa cho mỗi người”[36] bằng cách xóa bỏ bất bình đẳng về địa lý và xã hội, thu hẹp khoảng cách giữa chuyên nghiệp và tài tử;
- Hai, về chính trị, ảo tưởng về quyền lực chính trị tập trung theo mô hình Nhà nước chăm sóc; thi hành chính sách văn hóa phân cấp cục bộ, chủ yếu theo hình thức áp đặt từ trên xuống, dẫn đến mâu thuẫn đối lập với hệ thống chính quyền địa phương và các tổ chức ở cơ sở, đặc biệt là với các phong trào Giáo dục bình dân;
- Ba, về tổ chức, hình thành bộ máy quản lý mang tính hành chính nặng nề, dựa vào “bầu sữa” ngân sách, tốn kém[37]; chủ yếu thiên về các hoạt động văn chương, nghệ thuật;
- Bốn, về thực hiện, xây dựng nhà văn hóa theo mô hình mang tính biểu tượng, không đáp ứng kịp thời các nhu cầu của đời sống văn hóa, không phù hợp với đà tiến bộ của xã hội. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, các phương tiện truyền thông nghe nhìn ngày càng đại chúng hóa, thời gian rỗi được tiêu chuẩn hóa, và văn hóa nhàn rỗi với sự xuất hiện của các ngành công nghiệp văn hóa, có nhiều hình thức hoạt động phong phú, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng văn hóa mà ngày càng trở thành mục tiêu mang ý nghĩa nhân sinh.
Thất bại của mô hình nhà văn hóa tại Pháp là hệ quả tất yếu của chính sách văn hóa thiên về các mục tiêu chính trị, biểu hiện sự bất cập do quan niệm văn hóa chú trọng về nghệ thuật, thiếu yếu tố nhân sinh trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở và nhất là không theo kịp các yêu cầu về phát triển văn hóa - xã hội của quá trình đô thị hóa.
Chính sách văn hóa ở Pháp thay đổi qua từng thời kỳ, một mặt chứng tỏ đã có những biến chuyển nhất định trong đời sống xã hội, và qua đó để lộ ra tính chất trì trệ, thiếu thích ứng của mô hình nhà văn hóa trong quá trình phát triển của nó. “Sự kết thúc của chính sách nhà văn hóa cũng là chấm dứt tính mẫu mực của nó đối với toàn bộ chính sách văn hóa để đi đến chấp nhận học thuyết “phát triển văn hóa””[38]. Ngay như các phong trào Giáo dục bình dân, từng một thời đối lập với chính sách và mô hình “hoạt động văn hóa”, cũng đã có sự chuyển biến kết hợp các hoạt động “khích động văn hóa – xã hội” và “giáo dục thường xuyên”.
Chính sách văn hóa ở Pháp về đại thể vẫn tiếp tục cho đến năm 1982, mặc dù dưới mắt của nhiều người, kể cả những người ủng hộ trước đây, đã coi đó là ảo tưởng ngây thơ mà không vô tội; các nhà văn hóa vẫn còn đó[39], song người ta đã bắt đầu nghi ngờ, thậm chí chỉ trích về tính chất hão huyền hoặc mị dân của chúng; không còn coi đó là sự lựa chọn ưu tiên cho các tham vọng chính trị - xã hội, mục tiêu dân chủ hóa văn hóa, mô hình mẫu mực về “con đường thứ ba”; hoặc quan niệm sai lầm về vai trò của văn hóa có khả năng làm biến đổi xã hội...
Tài liệu tham khảo:
1. Philippe Urfalino, L’invention de la politique culturelle, Hachette Littératures, 2004.
2. Marc Fumaroli, L’État culturel, Essai sur une religion moderne, Fallois, Paris 1991.
3. Guy Saez (sous la direction de), Institutions et Vie culturelles, Les Notices de la Documentation française, 2è édition revue et augmentée, 2005.
4. Jacques Renard, L’Élan culturel: La France en mouvement, PUF., 1987.
5. Francis Jeanson, L’action culturelle dans la cité, Seuil, 1972.
6. Esprit, revue internationale, mensuelle, Autour de 1968: années utopiques, années parasites, Mai 2008.
7. Revue française d’administration publique, Administrer la culture? Institut international d’administration publique, No.65, 1-3/1993.
8. Marc-André Baud, Les Centres de Loisirs à Genève, l’exemple d’une institutionnalisation, Revue Loisir & Société, Animation et Cultures professionnelles, Vol. 5, N.1, Presses de l’Université du Québec, 1982.
9. Les annales de la recherche urbaine, Lieux culturels, Plan urbain, ministère de l’Équipement du Logement des Transports et du Tourisme, ministère de la Culture, No. 70, Mars 1996.
10. M. Poyraz (sous la direction de), Les interventions sociales de proximité, L’Harmattan, 2005.
Nguồn : Tác giả
[1] Marc Fumaroli (1991), L’État culturel, essai sur une religion moderne, tr.43.
[2] Philippe Urfalino (2004), L’invention de la politique culturelle, tr.394.
[3] Marc Fumaroli (1991), sđd., tr.115-132.
[4] Chinh sách văn hóa ở Pháp thời kỳ đầu đối lập với ít nhất 3 thiết chế văn hóa ở cơ sở: phong trào Giáo dục bình dân, Nhà thanh niên và văn hóa (MJC) và Liên hiệp quốc gia các Trung tâm văn hóa đô thị (FNCCC).
[5] P. Urfalino, sđd., tr.10.
[6] État esthétique, hoặc État culturel (Nhà nước văn hóa) theo Marc Fumaroli (1991), bên cạnh nhiều cách gọi khác ở thời kỳ này như: État providence (Nhà nước chăm sóc), État mécénal (Nhà nước bảo trợ nghệ thuật)...
[7] “Hoạt động văn hóa” thời Malraux dùng nghệ thuật làm phương tiện để thiết lập mối quan hệ trực tiếp với công chúng, không thông qua trung gian của hoạt động giáo dục như các phong trào Giáo dục bình dân; về sau này mới quan niệm ngược lại, cho rằng hoạt động văn hóa đóng vai trò trung gian giữa sáng tạo và công chúng.
[8] Có thể phân biệt chính sách văn hóa của Pháp có những đặc điểm khác nhau qua các đời bộ trưởng: “hoạt động văn hóa” thời A. Malraux, “phát triển văn hóa” thời J. Duhamel, “sức sống văn hóa” thời J. Lang, và chính sách “tạo đà văn hóa” sau năm 1981 của chính phủ cánh tả F. Mitterand khác với chính sách văn hóa ở các thời kỳ trước đó.
[9] Biến cố tháng 5-1968 mở đầu bằng cuộc nổi dậy của sinh viên đại học Nanterre, Sorbonne ở Paris, sau đó lan qua giới công nhân tham gia đình công làm tê liệt toàn bộ lãnh thổ nước Pháp trong nhiều tuần lễ. Đây là phong trào đấu tranh xã hội - chính trị và văn hóa sâu rộng nhất trong thế kỷ 20 ở Pháp. Đáng chú ý là biến cố này xảy ra trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động như: chiến tranh Việt Nam, sự kiện mùa xuân Praha (Tiệp Khắc), cách mạng văn hóa ở Trung Quốc... Nhiều cuộc diễn thuyết, biểu tình rầm rộ với hàng trăm ngàn người tham gia, đòi “thay đổi đời sống”, tự do phong tục, quyền tự trị, thực hiện chế độ phân cấp giải trung ương hóa, phản đối các loại quyền lực, chủ nghĩa đế quốc, xã hội tiêu thụ...
[10] Giáo dục bình dân là một trào lưu tư tưởng theo đuổi lý tưởng bình đẳng văn hóa, với nhiều phong trào diễn ra sôi nổi kể từ thời kỳ Mặt trận bình dân, gồm có ba xu hướng: đấu tranh chống bất bình đẳng về tiếp cận văn hóa; tin vào giá trị phổ biến và nội tại của văn hóa cần được nhiều người sử dụng; và quan niệm dân chủ hóa văn hóa có thể độc lập với đấu tranh chính trị, cho rằng lĩnh vực văn hóa phải tách biệt tương đối với chính trị.
[11] Tuy nhiên, nhà xã hội học người Pháp, Pierre Bourdieu, phê phán quan điểm của các phong trào này là ngây thơ, thậm chí đạo đức giả!
[12] Malraux quan niệm dân chủ hóa văn hóa là sứ mạng của Bộ văn hóa, song cần nhắc lại ông đối lập văn hóa với giáo dục, cho rằng dân chủ hóa văn hóa là trực tiếp đưa nghệ thuật, tác phẩm và nghệ sĩ đến với công chúng, không thông qua tác nhân trung gian của môi trường sư phạm. Do đó, khi thành lập Bộ văn hóa, ông tách hiệp hội Giáo dục bình dân ra khỏi Bộ giáo dục quốc dân và Tổng cục mỹ thuật cũ để giao về Cao ủy thanh niên và thể thao.
[13] P. Rosanvallon (1990) gọi đó là Nhà nước thiết lập xã hội (État instituteur du social, trong L’État en France, de 1789 à nos jours, Seuil, tr. 95-138), nhằm tạo ra các mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, theo triết lý hoạt động văn hóa – xã hội.
[14] Gọi là Nhà nước bảo trợ nghệ thuật, nhằm ban phát sự hỗ trợ cho các hoạt động của giới nghệ sĩ chuyên nghiệp, làm cho chính sách văn hóa thời Malraux được hiểu là tăng cường hình thức can thiệp công của nhà nước đối với “văn hóa” là các loại hình nghệ thuật đã có từ trước đó.
[15] Năm 1961, thành lập Cục sân khấu, âm nhạc và hoạt động văn hóa trong Tổng cục nghệ thuật và văn chương, nhằm tiến hành xây dựng mô hình nhà văn hóa trên toàn bộ lãnh thổ nước Pháp.
[16] Vấn đề trang bị văn hóa, nhất là các trang thiết bị tập thể chỉ được phát triển mạnh mẽ vào đầu những năm 1970, kể từ Kế hoạch VI. Ngoài ra, đó còn là vấn đề kiến trúc xây dựng, cũng đã được Pierre Moinot soạn thảo vào đầu những năm 1960 trong Chương trình xây dựng và trang bị các nhà văn hóa (1962), mà theo Émile Biasini (1963), “phải tạo nên các công trình xây dựng mang tính biểu trưng của một hình thái văn minh”.
[17] Theo Émile Biasini, “Nhà văn hóa được hình thành không phải do tập hợp các phương tiện mà đó là một toàn thể. Nhà văn hóa không phải là nhà hát, phòng triển lãm, rạp chiếu bóng, quán cà phê, phòng nghe nhạc. Nó bao gồm cùng một lúc tất cả những cái đó và phải là cái gì khác”. P. Urfalino, sđd., tr.198.
[18] Cũng theo Émile Biasini (1962), chân dung của giám đốc nhà văn hóa hội tụ thần kỳ cả ba năng lực: trực giác văn hóa (tài đánh hơi, sự nhạy cảm), khả năng tổ chức điều hành và sự ham mê giao tiếp.
[19] Thời kỳ Mặt trận bình dân, Léon Blum đã cho thành lập Tổng cục thể thao và giải trí của Léo Lagrange. Lúc đó, người ta tin rằng vấn đề của văn hóa là tổ chức quản lý thời gian rỗi. Song Malraux quan niệm giải trí không phải mục tiêu mà chỉ là phương tiện của văn hóa!
[20] Trước chiến tranh thế giới thứ 2, A. Malraux đã nhiều lần trao đổi về nhà văn hóa (MC) với Gaëtan Picon, người được coi là công trình sư của chính sách nhà văn hóa, năm 1959 được bổ nhiệm làm tổng giám đốc nghệ thuật và văn chương. Sau chiến tranh, khi Malraux làm bộ trưởng Bộ thông tin vẫn chưa có ý tưởng rõ ràng về nhà văn hóa. Đến năm 1961, khi bắt đầu xây dựng nhà văn hóa, Malraux mới coi đó là các “trang bị văn hóa”, công cụ thực hiện chính sách dân chủ hóa và phân cấp giải trung ương hóa văn hóa.
[21] Ngôi thánh đường (cathédrale) là một biểu tượng tôn giáo, thường nằm ở vị trí trung tâm trong các khu vực dân cư. André Malraux đã sử dụng chính thức hình ảnh ngôi thánh đường cho các nhà văn hóa lần đầu tiên vào tháng 10-1966 trong bài diễn văn đọc trước Quốc hội. Người ta cũng sử dụng hình tượng này, chẳng hạn, Théophile Gauthier coi các nhà ga xây dựng ở trung tâm các đô thị là “ngôi thánh đường của nhân loại mới” (Jean-Michel Billioud, Vivre en ville, Castor Poche Flammarion, 2000, tr.115).
[22] Tổ chức Nhà thanh niên và văn hóa (MJC) xuất thân từ phong trào mang tên “Cộng hòa thanh niên” hồi chiến tranh thế giới thứ 2, chính thức thành lập năm 1948 theo sáng kiến của André Philip, dựa theo tư tưởng của Léo Lagrange ở thời kỳ Mặt trận bình dân, nhằm phát triển văn hóa xã hội thông qua các hoạt động thể thao, văn hóa, nghệ thuật và đào tạo. Cơ cấu tổ chức theo loại hình hiệp hội hoặc phụ thuộc vào các cộng đồng lãnh thổ, thuộc Bộ thanh niên và thể thao.
[23] Goethe: “Tôi ghét bỏ mọi thứ chỉ biết có giáo dục mà không làm sống dậy trong tôi một cách trực tiếp” – theo P. Urfalino, sđd., tr.48.
[24] Theo tư tưởng triết học của Kant, P. Urfalinno, sđd., tr.49.
[25] P. Urfalino, sđd., tr.50.
[26] P. Urfalino, sđd., tr.53.
[27] P. Moinot là nhà văn có tiếng, tham gia nội các của A. Malraux từ đầu năm 1959, phụ trách điện ảnh. Giữa năm 1960, A. Malraux giao tổ chức lại Phân cục biểu diễn và âm nhạc. Chỉ trong vài tháng, nhóm của P. Moinot đã xây dựng chính sách nhà văn hóa được đánh giá là thấu đáo và chi tiết. Tuy nhiên, do thất vọng vì Bộ tài chính chỉ đồng ý cấp một nửa kinh phí dự kiến xây dựng nhà văn hóa, ông từ chối đứng đầu Cục sân khấu âm nhạc và hoạt động văn hóa, và đến tháng 9-1961 bàn giao công việc cho Émile Biasini.
[28] Theo P. Moinot, bên cạnh nhà văn hóa kiểu mẫu còn dự trù thêm hai loại khác, có kích cỡ hẹp hơn: một loại xây dựng ở các đô thị nhỏ, các khu vực công nghiệp và nông thôn, với hoạt động ưu tiên là truyền bá, có thể phối hợp với các thiết chế khác như nhà thanh niên và văn hóa, nhà nông thôn, trung tâm xã hội và văn hóa xã hội, các ban ngành xí nghiệp; một loại khác xây dựng trong khu liên hợp của các vùng đô thị đặc biệt, xung quanh một phòng biểu diễn có kích cỡ trung bình 600 – 800 chỗ, với khuynh hướng ít đa năng hơn (hoạt động chuyên nghiệp).
[29] Tuy nhiên, các số liệu thống kê về lượng người đến với thiết chế nhà văn hóa, được quan niệm là làm cho dễ dàng hơn việc tiếp cận các công trình nghệ thuật, không phải là tầng lớp công nhân hoặc người nghèo phương tiện, nên trên thực tế vẫn không thể làm giảm bớt bất bình đẳng về văn hóa.
[30] P. Urfalino, sđd., tr.25.
[31] Trung tâm hoạt động (hoặc khích động) văn hóa (CAC) đầu tiên ra đời ngày 1-4-1968 tại Creusot, được Hội đồng thành phố tài trợ 2/3 kinh phí.
[32] Theo Bernard Lerat, phó thị trưởng Nantes và phó chủ tịch Liên hiệp, trong báo cáo tại Hội nghị lần thứ 3 vào tháng 6-1962 tại Nantes.
[33] Gọi là các trung tâm nghệ thuật kịch quốc gia, song 4/5 trung tâm này cho đến năm 1958 vẫn chưa có nhà hát riêng của mình.
[34] Khi xảy ra biến cố tháng 5-1968, trên toàn nước Pháp đã có 9 nhà văn hóa đang hoạt động, 6 đang tiến hành xây dựng và 9 đã lên kế hoạch thực hiện.
[35] P. Urfalino, sđd., tr.393.
[36] Phân biệt với “văn hóa cho mọi người” của hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, hoặc “quần chúng hóa” văn hóa của “văn hóa bình dân”.
[37] So sánh về mức độ: nhà nước tài trợ nhà hát tương ứng 30% chi phí xây dựng và hầu như không có gì cả về chi phí vận hành; trong khi nhà văn hóa được bảo đảm 50% chi phí xây dựng và 50% chi phí vận hành.
[38] P. Urfalino, sđd., tr.230. Về chính sách “phát triển văn hóa”, thực hiện châm ngôn của Jacques Duhamel “trước hết tiếp tục, sau đó mới bắt đầu”, hướng đến ba mục tiêu: trước tiên vẫn là “mang lại cho nhiều người nhất các công trình vốn có của nhân loại”; thứ đến là cải thiện các điều kiện chung về đời sống văn hóa; và cuối cùng là ủng hộ và bảo vệ tính sáng tạo.
[39] Kể từ thập niên 1980, một số nhà văn hóa còn hoạt động đã bắt đầu thay đổi tên gọi hoặc chức năng như: Nhà văn hóa Nanterre đổi thành “Nhà hát Amandiers”...