B. Ta không phải là Tàu, không hề có di cư ồ ạt
Năm 1964, trước khi cho in những quyển sử mà ông soạn, sử gia Nguyễn Phương có cho đăng một loạt bài ở tạp chí Bách khoa về phương pháp viết sử. Loạt bài ấy có nhiều đoạn rất hay, rất đúng.
Nhưng khi đọc sử cuả ông thì thấy sử gia không áp dụng được những phương pháp đúng và hay đó cho sách của ông. Chẳng hạn như ở những trang 232 và 233, sử gia đối chiếu hai sự kiện lịch sử nầy, người Tàu luôn luôn Nam tiến trong lịch sử của họ. Người Việt cũng thế.
Rồi ông kết luận rằng sở dĩ có sự kiện quá giống nhau như vậy chỉ vì ý chí Nam tiến đã nằm sâu trong tiềm thức của người Việt Nam bởi họ vốn là người Tàu đổi tên là Việt Nam.
Đây là một suy luận mà không sao khoa học chấp nhận được. Hai dân tộc hành động giống nhau không hề có nghĩa rằng họ là một, và dân tộc A làm giống dân tộc B không hề có nghĩa là A đã cóp B.
a. Thứ nhứt, dân ta nhờ đất đai phì nhiêu của châu thổ Nhị Hà mà tăng lên quá mức. Để giải quyết nạn nhân mãn, ta phải bành trướng biên cương. Dân tộc nào ở trong trường hợp đó cũng đã làm như vậy, từ cổ chí kim, không cần phải cóp của ai hết.
b. Thứ hai, phía Bắc nước ta là nước Tàu hùng mạnh, ta làm sao tiến về hướng Bắc được. Nhà Lý có thử làm, thành công đôi phần, nhưng rồi cũng phải bỏ cuộc. Và nhà Lý cóp ai đây, khi mà nhà Lý Bắc tiến chớ không Nam tiến? Hướng Đông là biển cả, cũng ngăn bước của ta, hướng Tây là đất Lào núi rừng, không phải là đất tốt. Như vậy ta có cần phải bắt chước ai khi ta Nam tiến hay không? Và nhứt là ta có cần mang dòng máu Trung Hoa mới biết Nam tiến hay không? Tưởng bất kỳ dân tộc nào mà ở trong hoàn cảnh của Trung Hoa và Việt Nam, cũng đều tự nhiên mà biết và phải Nam tiến vì đó là sinh lộ độc nhứt của họ. Bao nhiêu dân tộc khác cũng thế, mà thí dụ điển hình là dân tộc Thái. Bị người Tàu từ phía Bắc đánh đuổi, sao Thái không chạy ra phương Đông? Vì phương Đông là địa bàn của Chi Lạc. Phương Tây là Tây Khương địa bàn của Khơ Me đã bị Tàu cướp rồi, còn sau lưng Tây Khương là Tân cương đã bắt đầu sa mạc hóa cách đây ba ngàn năm, không phải là đất tương lai. Chỉ có phương Nam là địa bàn của một dân tộc yếu hơn, đất lại phì nhiêu. Người Tây Nhung, Nam tiến để lập ra nước Miến Điện, người Môn Cơ Me Nam tiến cũng vì lẽ ấy cả chớ không hề họ là người Tàu nên mang cái ý chí Nam tiến trong tiềm thức của họ.
Dùng luận cứ “ý chí mang sẵn trong tiềm thức Trung Hoa” đó của sử gia, thì Thái Lan, Miến Điện, Cao Miên đều phải là người Tàu hết thảy, mà đó là một chuyện sai sự thật một ngàn phần trăm.
Ở chương “Đời sống của dân Lạc Việt dưới thời Hán”, ông suy luận càng kỳ dị hơn.
Ông so sánh Hậu Hán thư và Giao Châu ngoại vực ký thấy họ chép về hai chuyện sau đây:
1. Hậu Hán thư kể chuyện Tích Quang dạy lễ nghĩa cho dân man di Giao Chỉ.
2. G.C.N.V.K. chép rằng Giao Chỉ đã biết kỹ thuật làm ruộng khá giỏi.
Ông kết luận có mâu thuẫn giữa hai sách đó, và G.C.N.V.K. sai.
Không ai thấy có mâu thuẫn ở đâu hết vì một đàng viết về phong tục còn một đàng thì viết về kỹ thuật canh tác. Một dân tộc có kỹ thuật canh tác cao, không hẳn phải có lễ nghĩa tốt, và hai sách nói trên không hề nói nghịch với nhau bao giờ, bởi không thể lấy phong tục ăn ở để làm căn bản mà xét kỹ thuật nông nghiệp được. Ta có thể vừa làm ruộng giỏi mà cũng vừa không biết lễ nghĩa. Không hề có mâu thuẫn trong hai sách ấy.
Nhưng sử gia Nguyễn Phương lại quên mất rằng Tích Quang dạy dân ta lễ nghĩa của Trung Hoa, chớ không hề có sự kiện dân ta không có lễ nghĩa mà ông nói là dân “Giao chỉ thuở đó rất lạc hậu”. Ông cứ lên Cao nguyên mà xem, người Thượng họ chưa có nổi một nền văn minh trống đồng như Lạc Việt, nhưng họ vẫn có một nền đạo lý luân thường rất là tốt đẹp, và lễ nghĩa của họ cũng tốt, chỉ cái là khác của ta và của Tàu.
Không hề có ai chứng minh được rằng lễ nghĩa của Tàu là tốt đẹp hơn lễ nghĩa của các dân tộc khác thì sử gia không nên nói là dân Giao Chỉ lạc hậu, cho dẫu họ không phải là tổ tiên của ta đi nữa, như sử gia đã quan niệm.
Có bằng chứng chắc một trăm phần trăm là dân Giao Chỉ đã có lễ nghĩa riêng của họ rồi, vì sử Tàu có viết đích xác: “Đất Lĩnh Nam theo phong tục Trung Hoa bắt đầu từ hai vị thái thú đó”.
Nếu ta không có lễ nghĩa gì hết, họ đã viết: “Đất Lĩnh Nam có lễ nghĩa, đạo lý bắt đầu từ hai vị thái thú đó”.
Họ chỉ dám nói là ta theo họ còn cho rằng ta “không có luân lý” (nguyên văn) là chính sử gia Nguyễn Phương nói chớ họ không dám chép như thế bao giờ.
Người đọc V.N.T.K.S. tự hỏi không biết sử gia có vào các buôn Thượng nào chưa, lắm bộ lạc còn đóng khố mà vẫn có lễ nghĩa, luân lý rất là cao, thì không có lý do nào mà một dân tộc đã dựng nước với nhiều đời vua Lạc rồi, mà còn ở vào tình trạng chưa có luân lý.
Cho đến cuối thế kỷ XVII mà nhà sư Tàu Thích Đại Sán, sang Huế, còn cho rằng là ta không có lễ nghĩa luân thường, mặc dầu ta đã nhiễm Tàu nhiều lắm rồi, vào năm ấy, thì vào đời Hán, họ cho là không có lễ nghĩa luân thường, sao ta lại tin họ. Chính sử gia Nguyễn Phương đã dịch Thích Đại Sán, không lẽ ông không thấy nhận xét sai lầm của người Tàu ấy?
Nhưng vì sử gia chủ trương rằng Việt Nam là Tàu thuần chủng nên sử gia đã thấy mọi sự việc với con mắt của người Tàu. Chép việc Mã Viện đuổi theo tàn quân của hai bà Trưng, sử gia gọi đó là “dư đảng của Trưng Trắc”. Danh từ dư đảng, phiến loạn đích thị là danh từ của Trung Hoa. Đồng bào của hai bà chỉ nói “Dấy quân” (Ngô Sĩ Liên) và tàn quân (toàn thể các sử gia khác). Gọi đồng bào của hai bà Trưng, ông nói “Nam man” (trang 117).
Và ngộ nghĩnh thay, chính vì có hai lối nói mà ta biết chắc rằng dân Việt Nam không phải là Tàu, bởi nếu họ là Tàu, họ đã dùng những danh từ nổi loạn và dư đảng của Tàu, đã gọi đồng bào của hai bà Trưng là Nam man như sử gia họ Nguyễn chớ không gọi là “Tổ tiên ta” như họ đã gọi.
Ở đây không có vấn đề yêu nước xen lẫn vào sử học như sử gia Nguyễn Phương hay nói. Đây là sự kiện lịch sử thật sự.
1. Người Thượng đóng khố có lễ nghĩa, luân lý rất tốt, thì người Lạc Việt đã tiến hơn, như văn minh đồng pha đã cho thấy, thì không thế nào mà không có lễ nghĩa và luân lý.
2. Hai lối dùng danh từ cũng cho thấy rõ rằng Việt không là Hoa.
3. Sự kiện thờ hai bà Trưng mà người Tàu ở đây đã cho ý kiến đã chứng minh quá rõ, không thế nào mà họ quên gốc, để thờ anh hùng của dân Lạc Việt.
Người Tàu quên mình là Tàu, không thể có được. Sự đứng lên giành độc lập không có nghĩa là quên gốc. Họ vừa đòi ly khai độc lập, nhưng cũng cứ vừa nhớ rằng họ là Tàu và cứ nói tiếng Tàu. Mà họ có nói tiếng Tàu hay không, như sử gia đã quả quyết, ta sẽ thấy ở chương ngôn ngữ tỷ hiệu.
Giữa G.C.N.V.K. và Hậu Hán thư, nếu có khác biệt (nhưng chúng tôi đã chứng minh rằng không có khác biệt), nhưng sử gia Nguyễn Phương khẳng định rằng G.C.N.V.K. sai mà không đưa ra bằng chứng.
Đó cũng là một thái độ phản khoa học nữa. Ông không có quyền cho quyển nào ăn khớp với tưởng tượng của ông là đúng và bài bác suông quyển khác là sai.
Ông lại cho rằng tác giả N.V.C. lúng túng vì không hiểu tiếng Lạc có nghĩa gì, nên giải thích bối.
Có lẽ ông thiếu tài liệu về chữ Lạc. Điều đó không sao. Nhưng ông cũng lại dùng suy luận kỳ dị để đoán rằng tác giả N.V.C. lúng túng về chữ Lạc mà ông cho là tác giả đó không hiểu.
Nhưng ông chưa tìm được bằng chứng rằng tác giả N.V.C. không hiểu chữ Lạc, sao ông lại dựa vào phỏng đoán để suy diễn ra như vậy?
Mời ông xem Lạc là gì đối với hiểu biết của người Tàu thượng cổ ở các chương khác. Tác giả N.V.C. chỉ là kẻ sanh sau đẻ muộn lại là một tay viết sách, thì không có lý gì ông ấy không biết nghĩa của các chữ Lạc về phương diện chủng tộc học mà người Tàu đã biết từ trước đời nhà Hạ.
Riêng về quận Cửu Chơn mà chúng tôi cũng nhìn nhận là lạc hậu, Hậu Hán thư cũng viết láo khoét. Họ chỉ lạc hậu về kinh tế mà thôi, chớ sao lại có chuyện trai gái ngủ với nhau rồi trai bỏ đi mất, y như cầm thú.
Mã Viện đã kiểm tra dân số và ghi rằng dân Cửu Chơn có cất nhà. Đàn ông cất nhà làm gì nếu không để ở với vợ con?
Họ ám chỉ đến chế độ mẫu hệ ở đó mà gái làm chủ, nhưng họ không biết gì hết về chế độ mẫu hệ. Trong chế độ đó, đàn ông vẫn có quyền gia trưởng phần nào, và vẫn ở nhà.
Cũng nên nhắc rằng loài người chỉ mới hay rằng có chế độ mẫu hệ từ thế kỷ XIX đây thôi, chớ không lâu lắm, khi mà nhà bác học Bachofen khám phá ra rằng xã hội Hy Lạp theo chế độ mẫu hệ hồi buổi sơ khai của họ.
Bấy giờ giới khoa học kinh ngạc hết sức và mới tin những quyển sách du ký của các thương gia và cố đạo tả chế độ ấy ở nhiều bộ lạc, mà các nhà khoa học cứ ngỡ là các tác giả ấy bịa.
Tại sao loài người lại dốt đến thế? Là vì, mặc dầu họ theo mẫu hệ, luôn luôn đàn ông đánh giặc, thương thuyết với nhau, làm vua và viết sử, họ kể chuyện toàn nhơn vật đàn ông, và bỏ hết chi tiết về đời sống của dân chúng, người đời sau không làm sao mà biết sự thật được cả.
Chế độ mẫu hệ được người thời nay biết quá trễ, nhưng họ lại biết rất rành mạch, nhờ khoa dân tộc học. Họ nghiên cứu và thấy rằng tuy là con cái theo dòng mẹ, đàn bà hưởng gia tài, nhưng người đàn ông cứ thật sự làm chủ gia đình, chủ làng nước.
(Và như vậy thì lại không có vấn đề “Lịnh ông không bằng cồng bà” mà giáo sư Kim Định đã nêu ra. Chính người đàn ông Chàm tạo lập văn minh Chàm, chớ không phải đàn bà Chàm. Đó là điều mà chính mắt ta thấy).
Còn cái lễ cưới mà Nhâm Diên dạy dân Cửu Chơn áp dụng là lễ cưới theo tục lệ Tàu, chớ sao họ lại không có lễ cưới? Người Sơ Đăng nay kém hơn dân ta thuở ấy mà lễ cưới rất nghiêm trang thì tại sao thuở ấy ta lại không có lễ cưới? Người thổ dân Úc Đại Lợi được xem là lạc hậu nhứt thế giới hiện nay, vẫn có lễ cưới, thì không thế nào dân Cửu Chơn lại không có lễ cưới.
Chỉ vì họ không xem lễ của ta là lễ, xem lễ ta như là không có, xem như ta là vô luân thường đạo lý, làm đúng như họ mới gọi là có luân thường đạo lý, nên họ mới chép như vậy. Nhưng một người có óc khoa học như sử gia, sao lại tin điều họ chép?
Một dân tộc biết cất nhà rồi mà cất rất chắc chắn đến nỗi hai ngàn năm sau ông Pajot còn đào được một cái nhà thì hẳn không thế nào mà sống như cầm thú vào thời còn ở hang động.
Ở chương trước, chúng ta đã thấy sử gia Nguyễn Phương hoàn toàn sai lầm về chủng Mông Gô Lích, mà thật sự có đến ba phụ chủng Mông Gô Lích khác nhau, khác đến cái mức mà khoa chủng tộc học đã phải xem là 3 chủng chớ không phải một.
Trước khi học về chủng Việt, và trước khi đối chiếu sọ Việt, sọ Hoa, sọ Mã Lai, trước khi đối chiếu ngôn ngữ Việt, Mã, Hoa ta nên kiểm soát lại tất cả chứng tích khác của sử gia Nguyễn Phương, gồm có sử liệu, phong tục, ngôn ngữ, v.v.
Sử liệu
Trước hết, sử gia dựa vào Hoài Nam Tử của Lưu An, để cho rằng dân Lạc Việt chạy mất hết, bỏ đất đai lại cho người Tàu. Nhưng chúng tôi sẽ chứng minh hai điều:
1. Lưu An nói chuyện ở Ngũ Lĩnh chớ không phải ở Cổ Việt, mà Cổ Việt thì không có nằm trong đất Ngũ Lĩnh.
2. Lưu An chép sai sự thật vì sự kiện đó không có xảy ra một cách tuyệt đối như vậy, và đó là cố ý sai, vì Lưu An chống lại cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng, muốn nói rằng chiếm đất vô ích vì dân không đầu phục, không có lợi gì hết.
Mã Viện đã thực hiện được việc kiểm tra dân số tại cổ Việt Nam. Nội cái việc kiểm tra dân số thành công ấy cũng đủ cho thấy là dân Lạc Việt không có bỏ nước họ mà đi đâu hết.
Nếu dân Việt bất hợp tác, chạy lên rừng trốn thì họ chạy trốn ngay lúc xứ của họ vừa mới bị chiếm, chớ không thế nào nhận chịu sự kiểm tra xong, mới chạy đi trốn.
Ta đọc sử Tàu không kỹ. Khi Lưu An nói đến dân Việt ở Ngũ Lĩnh trong quyển Hoài Nam Tử thì ông vua họ Lưu ấy dùng một tự dạng Việt rất là kỳ dị, mà không có học giả Việt Nam nào chú ý đến cả. Đó là tự dạng thứ tư trong thư tịch Trung Hoa, mà trước Lưu An, không có ai dùng cả.
Trước đó người ta dùng Việt bộ Mễ để chỉ chi Âu tức người Thái, và Việt Vượt để chỉ chi Lạc.
Lưu An viết một chữ Việt thứ tư không là bộ Mễ, mà cũng không là Vượt của chi Lạc.
Lưu An rất có lý do mà làm như vậy, ông ấy rất ý thức mà làm như vậy và chúng tôi sẽ giải thích cái ý thức siêu đẳng đó ở một nơi khác.
Ta đọc sách Tàu nhưng không kỹ, hễ cứ thấy Việt là nghĩ ngay đến Việt Nam mà quên mất rằng có đến một trăm nhóm Việt.
Và cái vụ cháy trong rừng, bỏ đất, mà Hoài Nam Tử nói đến, vừa không đúng, vừa không chỉ dân Việt Nam bao giờ cả.
Kế đó sử gia nói đến việc Tần trồng người ở Nam Hải, vừa không đúng, vừa không chỉ dân Việt Nam bao giờ cả. Điều đó thì ai cũng nhìn nhận là có thật, vì có sử liệu về chánh sách ấy của nhà Tần.
Sử gia trích Tư Mã Thiên: “Triệu Đà đã phải sai sứ mang thư về triều xin gởi đến ba vạn con gái hoặc đàn bà góa để làm gả vợ binh sĩ”!
Đó là chuyện xảy ra ở huyện Long Xuyên, bên Quảng Đông, sử gia cũng biết thế, và ai cũng biết thế cả, nhưng sử gia trích ra để rồi nói thêm ở trang 232: “Công việc nhà Tần mới bắt đầu làm đó, nhà Hán đã tiếp tục xúc tiến, và các triều đại sau kiện toàn”.
Nhưng nhà Hán tiếp tục công việc đó tại vùng đất nào? Sử gia viết, trang 234: “Muốn biết rõ những gì xảy ra ở Cổ Việt… chúng ta thử nhìn kỹ (…) vào những gì đã xảy ra ở đợt trước (tức ở Long Xuyên và các vùng khác phía trên)”.
Vì không có sử liệu về trồng người và di cư ở Cổ Việt, nên sử gia Nguyễn Phương đã suy luận để chứng minh rằng có. Đó cũng là một phương pháp làm việc mà đôi khi, bất kỳ ai cũng phải làm. Đó là chứng tích gián tiếp.
Nhưng suy luận như vậy, hỏi có khoa học hay không? Những gì nhà Tần đã làm ở Nam Hải, nhà Hán có bắt buộc phải làm ở Cổ Việt hay không, và nếu muốn, có đủ khả năng làm hay không? Chúng tôi sẽ chứng minh rằng không.
Sự thật thì không có tài liệu nào nói đến chánh sách trồng người của nhà Hán tại Cổ Việt hết. Sử gia rất tin sử Tàu, cái gì sử Tàu bảo có là sử gia nói có, bảo không sử gia nói không. Trong trường hợp trồng người, tài liệu nhà Hán không có, sao sử gia lại tin rằng có, và cố tìm? Sử gia đã không tìm được, nên sử gia dùng tài liệu gián tiếp để suy ra sự kiện ấy.
Không thể nói sử viết về đời Hán kém hơn sử viết về đời Tần, thì sự vắng bóng của sử liệu đủ chứng minh rằng sự kiện không có xảy ra.
Hay là sử gia hiểu lầm về địa danh Giao Chỉ? Nên nhớ rằng địa danh ấy, dưới đời Hán trỏ một vùng đất lớn, gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Cổ Việt Nam. Nhưng dưới đời Tần thì không, bởi chúng tôi sẽ chứng minh rằng Tàu không có chiếm cổ Việt.
Có chánh sách trồng người ở cái vùng Giao Chỉ đó thật sự nhưng sự trồng người thật ra chỉ giới hạn trong huyện Long Xuyên, vì Triệu Đà muốn nhiều mà thực hiện được rất ít, bởi ba vạn phụ nữ thì không đủ cho toàn tỉnh Quảng Đông, tức quận Nam Hải, còn đâu để mà thành chánh sách trồng người ở Cổ Việt Nam.
Hàng trăm năm sau, vùng Giao Chỉ đó mới được tách làm hai, Quảng Đông, Quảng Tây gọi là Quảng Châu, còn Cổ Việt Nam thì gọi là Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chơn, Nhựt Nam (Bắc Trung Việt).
Cái Giao Chỉ thứ nhì nầy chẳng dính dáng gì tới cái Giao Chỉ thứ nhứt cả về dân tộc và địa lý.
Nhưng ta nên đi theo sử gia cho đến cùng để cùng xét những tài liệu gián tiếp ấy, xem có đúng không.
Sử gia trích Thủy Kinh Chú: “Năm Kiến Võ thứ 10, Mã Viện tâu trình vua rằng: Thần đã cẩn thận tiến vào Giao Chỉ với một toán binh Giao Chỉ là 12.000 người, hợp với đại binh 20.000”.
Sử gia bác lối giải thích của H. Maspéro. Ông ấy cho rằng 12.000 binh Giao Chỉ ấy là người mộ được trong tỉnh Quảng Đông vì địa danh Giao Chỉ thời ấy có hai nghĩa, đất Giao Chỉ thật sự và những quận khác do thứ sử Giao Chỉ cai trị.
Và sử gia cho rằng chỉ có một lối hiểu thôi. Đó là Người Tàu đang sinh sống tại xứ Giao Chỉ (Bắc Việt). Ý sử gia muốn chứng minh rằng ngay trước khi Mã Viện đến mà cũng đã có di cư nhiều lắm rồi nên mới mộ được 12.000 người Hoa kiều ở Giao Chỉ (Giao Chỉ thứ nhì).
Sự thật thì cả hai lối hiểu đều là những lối hiểu chủ quan, không hơn không kém, cứ hiểu như vậy, biên ra cũng không sao, nhưng dùng để làm chứng tích cho một giả thuyết quan trọng thì không được phép.
Người ta lại có thể hiểu theo lối thứ ba nữa thì bảo sao? Đó là những người Giao Chỉ phản quốc, phục vụ cho địch, vì lẽ nầy hay lẽ khác. Thuở ấy biên giới giữa các quận của Tàu ở đó không có đóng lại, nên dân Giao Chỉ sang Quảng Đông rất dễ dàng, thì sao Mã Viện lại không mộ được hạng người Giao Chỉ đó tại Quảng Đông?
Dẫu đó là người Tàu đã di cư đến Giao Chỉ hay người Giao Chỉ, thổ dân gì cũng phải có sự kiện vượt ranh giới Quảng Đông - Giao Chỉ, của những người ấy. Người Tàu di cư có thể vượt ranh thì người Giao Chỉ thổ dân cũng có thể vượt ranh. Bằng chứng có người mình phản quốc là người Tàu đã lập được một đạo thân binh, sau Lộ Bác Đức, gồm toàn người Giao Chỉ, y như vào năm 1945 Pháp đã lập ra lực lượng bổ túc gồm toán bạc-ti-dăng Việt Nam.
Dầu sao, lối hiểu thứ ba, cũng chỉ là một lối hiểu, chúng tôi chẳng dám cho đó là sự thật, nhưng hai lối trên, cũng chẳng là sự thật hơn. Không thể dùng một lối hiểu chủ quan để chứng minh cái gì hết.
Về việc di cư của người Trung Hoa sang Việt Nam vào thời cổ, sử gia Nguyễn Phương chỉ đưa ra được có bấy nhiêu chứng tích đó thôi, sử gia nói là rất nhiều và cứ nói mãi điều đó, nhưng không hề cho biết con số, vì cái lẽ dễ hiểu rằng không có con số đó, mà không có, nghĩa là không đáng kể, sử Tàu chẳng chép làm gì.
Sử gia cứ nói mãi về những “đợt sóng di cư liên tiếp”, về “các người Trung Quốc di cư sang Cổ Việt vẫn một ngày một đông” nhưng không đưa ra được bằng chứng nào. Chúng tôi sẽ đưa bằng chứng ngược lại.
Có hai con số mà ai cũng biết, lại không được sử gia Nguyễn Phương dùng mạnh trong chiến dịch chứng minh nầy, đó là một ngàn người quý tộc Trung Hoa lưu vong đến nương nhờ Sĩ Nhiếp, và vào đời nhà Trần của ta, 1.500 lính do một viên tướng Tàu đến xin tị nạn chánh trị.
Tại sao cả hai con số đó không được sử dụng, mà chỉ ám chỉ sơ đến con số thứ nhứt mà thôi? Vì nó cho biết rõ một cách quá đích xác mà những con số quá thấp ấy lại mâu thuẫn với thuyết của sử gia.
Tuy nhiên, ở đây, ta vẫn phải nhìn nhận rằng sử gia Nguyễn Phương có khoa học ở một điểm. Sử Tàu chép rằng Tần Thủy Hoàng đã thực hiện chánh sách trồng người tại Nam Hải, tức trong vùng Ngũ Lĩnh, nhưng sử gia không nói rằng nước ta cũng nằm trong vùng Ngũ Lĩnh, để mà lợi dụng sử liệu đó.
Toàn thể các sử gia Việt Nam đều sai lầm mà theo ông Aurousseau để nói rằng Tần Thủy Hoàng đã chinh phục được Cổ Việt, tức Cổ Việt nằm trong đất Ngũ Lĩnh.
Chúng tôi sẽ chứng minh rằng Cổ Việt không nằm trong đất Ngũ Lĩnh và cuộc chinh phục của Tần Thủy Hoàng chỉ đi tới biên giới Việt Hoa ngày nay mà thôi, và nước Tây Âu đã bị chinh phục, không hề là đất của ta, như toàn thể các sử gia đều nói.
Một chứng minh thứ nhì của sử gia Nguyễn Phương, cũng cứ lấy trong sử Tàu, đó là sự kiện hai bà Trưng chiếm được 65 thành có chép trong Hậu Hán thư.
Sử gia cẩn thận đếm các thành mà Trung Hoa lập ra ở các vùng nổi loạn thì chỉ thấy có 27 thành mà thôi. Sử gia cũng lại nói rằng chỉ có một cách hiểu: 38 thành kia là những nơi định cư của thường dân Trung Hoa ở Cổ Việt, họ tự đắp thành để tự vệ. Ý giáo sư là cứ muốn chứng minh đã có Tàu di cư rất đông, trước Mã Viện nữa.
Không hiểu tại sao sử gia cứ cho rằng chỉ có một cách hiểu những điều khó hiểu như vậy?
Trước hết sử Tàu nói hai bà đánh đuổi quan quân Tàu, mà không hề nói đến việc tàn sát Hoa kiều thường dân, nếu quả đã có Hoa kiều. Sự kiện ấy, nếu đã xảy ra, chắc Tàu mừng lắm mà không khỏi vội ghi chép để chánh nghĩa hóa cuộc xâm lăng của họ (Nam Chiếu tàn sát Hoa kiều ở Đại La được họ ghi chép rõ ràng). Sử Tàu không chép hai bà Trưng tàn sát Hoa kiều, chỉ vì sự việc không có xảy ra. Mà như vậy thì sao Hoa kiều lại tự vệ lớn lao, đắp cả thành lũy?
Và nếu quả họ đã làm thế, chánh phủ Trung Hoa có gọi đó là thành hay không? (Hậu Hán thư là sử của nhà nước).
Trong lịch sử thế giới, khi nào mà chánh phủ võ trang quần chúng, là bị ngay cái quần chúng võ trang ấy lật họ. Đó là kinh nghiệm đau đớn mà Tàu đã phải gánh chịu nhiều lần, suýt mất nước, thì hẳn chánh phủ Trung Hoa không bao giờ dám nhìn nhận bọn nhân dân tự vệ ấy cả đâu.
Hơn thế khi mà bốn ngàn quân chiếm đóng đã thua chạy mất hết rồi thì thử hỏi thường dân Trung Hoa, không biết đánh giặc, có đủ can đảm tự vệ theo lối sử gia nghĩ ra hay không? Hẳn là không.
Trải qua lịch sử bành trướng của Trung Hoa, họ đã từng bị các thứ dân bị trị đánh đuổi, nhưng không hề có việc nhân dân tự vệ như thế. Những thành mà sử gia Nguyễn Phương biết là những thành lớn, huyện lỵ chẳng hạn, nhưng ngoài huyện lỵ ra, hẳn còn phải có nhiều thành nhỏ nữa, mà sử Tàu không có ghi vì nó quá nhỏ, nên họ chỉ đếm đầu khi các thành nhỏ ấy bị chiếm, mà không kể tên.
Lần mãi cho đến đầu đời chúa Nguyễn, sử gia mới thêm được các nhóm Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài và Mạc Cửu, nhưng đó là giọt nước trong đại dương vì dân ta đã non một triệu hồi cổ thời, lên đến hơn 10 triệu rồi thì ba ngàn người Tàu, kể ra làm gì?
Bất kỳ người nào muốn bác ức thuyết của sử gia Nguyễn Phương đều có thể đưa ra nhiều sự kiện rất vững, để chứng minh trái lại.
Chẳng hạn như cái tên Annam Đô hộ phủ. Nếu quả người Tàu sang đây càng ngày càng đông cho đến đỗi thành đa số tuyệt đối, thành “công dân duy nhứt ở đồng bằng sông Nhị và sông Mã”, thì hẳn dưới thời Đường, sự đa số tuyệt đối phải xảy ra rồi, vì đến đời sau, đời Tống, là người Tàu ở đó sẽ tách riêng ra mà tự lập (Đinh Bộ Lĩnh).
Như vậy thì tại sao dưới đời Đường người Tàu lại đô hộ người Tàu? Họ chỉ xem xứ Annam là một châu hoặc hai, ba châu của họ, chỉ có thế thôi, chớ sao lại có chuyện đô hộ? Bằng không đô hộ, sao lại đặt tên là ANNAM đô hộ phủ?
Tất cả các triều đại Trung Hoa đều nói xứ ta đầy sơn lam chướng khí, không thể ở được, đến đời Càn Long, xứ ta đã bớt độc rồi mà vua ấy cũng còn nói như vậy thì đất ta chỉ được họ xem là thuộc địa khai thác (colonie d’exploitation) chớ không là thuộc địa thực dân (colonie de peuplement). Vả lại, chúng tôi sẽ chứng minh rằng họ không có đủ dân vào thuở đó, để mà “thực” tại xứ ta.
Có phải chăng là Sử Ký của Tư Mã Thiên đã viết “Vua Hán Vũ Đế định xong nước Nam Việt rồi, cho là dân đất Mân thường mưu đầu tối đánh nên mới bắt cả dân chúng đem lên vùng sông Hoài còn đất thì bỏ không”.
Tại sao lại bỏ không? Là tại Trung Hoa không đủ dân để lấp chỗ trống ở đó. Đã bảo sau Chiến quốc, sau Hán Sở tranh hùng, dân Tàu sụt ghê lắm.
Triệu Đà đã xác nhận sự kiện lịch sử nầy khi viết rằng “Đất Mân Việt chỉ đóng có một ngàn người”. Đó là tình hình sau khi đất ấy bị vét dân.
Đến đời Hán rồi mà người Mân Việt bổn thổ vẫn còn chiếm giữ xứ họ thì cái việc nhà Tần di dân xuống, có thật hay là không? Có thể là có thật, nhưng di 500 ngàn người để cho ở tám tỉnh sau đây thì thử hỏi mỗi tỉnh nhận được mấy người: Triết Giang, Giang Tô, Phúc Kiến, An Huy, Hồ Nam, Quy Châu, Quảng Đông và Quảng Tây?
Mỗi tỉnh chỉ nhận có sáu mươi ngàn, Cổ Việt không có nhận ai cả, vì không hề có tài liệu nào nói về việc đó đối với Cổ Việt. Nhưng nếu cứ cố cho là có đi, thì 60 ngàn người, làm thế nào đẩy 9 trăm ngàn vào thế thiểu số? Nhưng Cổ Việt không hề có tiếp nhận một số người là 60 ngàn. Nếu có, cổ sử Trung Hoa hẳn đã có ghi. Bằng như vì quá ít mà không ghi, thì cái số quá ít ấy chẳng thay đổi được tình hình chủng tộc của non một triệu người.
Họ không đủ người, họ lại không có chánh sách “trồng người” ở Cổ Việt. Nội cái từ ngữ Ngoại Vực trong “Giao Châu ngoại vực ký” đủ nói rõ rằng họ không có ý muốn nhập Cổ Việt vào lãnh thổ Trung Hoa theo lối nhập Nam Hải. Đành rằng Cổ Việt cứ phải là thuộc địa của họ hoài, nhưng đó là một thứ thuộc địa trái độn mà quốc gia nào cũng cần.
Sự kiện họ không bao giờ chiếm đất Chàm, mặc dầu họ thừa sức chiếm (Đàn Hòa Chi và Lưu Phong đã hai lần san bằng kinh đô Chàm) chỉ rõ cho ta thấy rằng đế quốc Trung Hoa đã bước tới cái bước cuối cùng trên đất ta, ít lắm là vào thời đó.
Vì lẽ gì không biết, đế quốc nào trên thế giới cũng vậy, luôn luôn dừng chơn lại ở nơi nào đó, mà thường thì không phải là vì gặp một thứ địch thủ nào quá mạnh đâu. Hình như lập đế quốc là một nhu cầu, mà nhu cầu thì dĩ nhiên phải có lúc nào đó nó được hoàn toàn thỏa mãn. Nếu chỉ vì lòng tham thì hỏi sao các đế quốc lại dừng chơn vô cớ mà thí dụ điển hình nhứt là sự dừng chơn của Trung Hoa tại đất Chàm? Thấy rõ là có lý do khác hơn là lòng tham. Lòng tham chỉ là một yếu tố trong đó thôi.
Nhưng các đế quốc xưa phải cần một vùng trái độn (mà nay cũng thế), vùng ấy nằm giữa lãnh thổ của đế quốc và các rợ bên ngoài. Đó chính là vai trò mà Trung Hoa bắt Giao Chỉ phải giữ: trực trị, nhưng không nằm trong lãnh thổ Trung Hoa, không buông, không nhả ra, nhưng cũng không ôm sát vào lòng. Họ đã dùng một danh từ chuyên môn để gọi ta: Xứ Phiên Li hoặc Chu Li, rất rõ nghĩa. Phiên Li hoặc Chu Li có nghĩa là phên dậu, phên dậu che chở cho họ. Lính của họ không đủ đông vì bị rút về sau khi thắng trận, mà dân di cư cũng không đủ để cho họ bắt lính tại chỗ, nên khi người Pháp đã phải tuyển mộ bạc-ti-dăng ở đây năm 1946. Trong quyển L’Art Vietnamien, ông L. Bezacier có gom tài liệu để thử tả quân trang của đạo thân binh nầy.
Giới quý tộc Lạc Việt mà đại diện là hai bà Trưng, sở dĩ khởi nghĩa cũng vì đạo thân binh nầy và cũng vì ngạch quan lại nhỏ gồm người bổn xứ mà các thứ sử, thái thú đã lập ra với thâm ý thay thế các cán bộ Lạc Việt mà họ buộc lòng phải giữ lại để dùng từ non hai trăm năm rồi. Bọn cán bộ mới mà trưởng thành, thì cấp cán bộ cũ của Lạc Việt sẽ bị đào thải hết ráo vì Tàu không thể tin cậy được các Lạc Tướng.
Xem đó thì biết là họ không đủ người, thì không làm sao mà họ đẩy thổ dân Lạc Việt vào cái thế thiểu số không đáng kể được cả. Còn nói Lạc Việt rút lên rừng mà ở hết như Lưu An đã nói, thì lại càng không đúng, vì nếu thế thì người Tàu lấy đâu ra đạo thân binh ấy và ngạch quan lại nhỏ ấy? Vả lại, nếu không còn thổ dân thì cũng chẳng cần đạo thân binh đó và ngạch quan lại nhỏ đó làm gì. Để trị ai chớ?
Nhưng về sau, Tàu có sang đây đông hơn chăng?
Sử gia Nguyễn Phương cứ nói đến mãi những đợt sóng di dân kế tiếp nhau qua các trào đại, mà không hề chứng minh. Chúng tôi sẽ chứng minh rằng không hề có di cư, mặc dầu cổ sử Trung Hoa ngậm câm về vấn đề ấy, và mặc dầu sự ngậm câm của họ đủ chứng minh rằng không hề có.
Về số nóc gia ở Giao Chỉ qua các trào đại, thấy trong các cổ thư Trung Hoa, thật là đáng ngạc nhiên vì sự giảm sút dị kỳ:
Theo Tiền Hán thư thì có 92.440 nóc gia
- Tấn Thư: 12.000
- Lưu Tống (Châu quân chí) : 4.232
- Tuỳ: 30.056
- Đường: 14.230
(Tài liệu lấy ở Phương Đình Dư địa chí)
Sự giảm sút nầy được sử gia cắt nghĩa rằng sau đời tiền Hán, người Trung Hoa không coi thổ dân Lạc Việt là dân nữa, nên không biên nóc gia của họ vào sổ. Số nóc gia được biên là nhà của Trung Hoa di cư, nên quá ít và càng năm càng ít. Thế là mâu thuẫn với chủ trương rằng Tàu di cư càng ngày càng nhiều.
Người Tàu có ngu dại hơn người Mông Cổ hay không? Xin nghe câu chuyện mà R. G. kể về cuộc xâm lăng Trung Hoa của người Mông Cổ đời Nguyên.
Quân Mông Cổ định tàn sát hết người Trung Hoa để lấy đất nuôi dê, nuôi ngựa, nuôi bò và họ đang thực hiện kế hoạch của họ. Nhưng có một người Mông Cổ lưu lạc xuống đất Tàu ăn học làm quan, ở trong đám tù binh đông hàng triệu người đó. Y cắt nghĩa cho người Mông Cổ hiểu rằng để dân Tàu sống, có lợi hơn là nuôi bò, vì một người dân đóng thuế nhiều hơn hoa lợi mà một con bò sẽ cho người nuôi.
Mông Cổ nghe xuôi tai, và nhờ thế mà bao nhiêu triệu người Hoa Bắc thoát chết.
Mông Cổ mà còn hiểu rằng người quý hơn bò, lẽ nào Tàu không hiểu được như vậy và không cho Lạc Việt là dân, dân hạng bét để cho họ sử dụng như là nô lệ.
Tại sao người của đời Tiền Hán xem Lạc Việt là dân, người của đời Hậu Hán, tiến bộ hơn (bằng chứng là Vương Mãng đã thử làm cách mạng xã hội) lại không xem Lạc Việt là dân?
Nhưng ta cứ tiếp tục noi theo luận cứ của sử gia. Ta nhìn lại bản đúc kết các cuộc kiểm tra dân số trên đây một lần nữa. Nếu quả đó là nhà của người Tàu thì rõ ràng là càng năm càng ít hơn, chớ bọn di cư không phải càng năm càng đông hơn như sử gia đã quả quyết.
Sử gia chỉ đoán liều vậy thôi, nhưng ta cứ nhận rằng sử gia đoán đúng đi, thì dưới đời Đường chỉ có 14.230 x 10 = 142 ngàn dân di cư (kể như họ đẻ nhiều, một nhà chứa 10 người, cho khỏi tranh luận về số khẩu trong một hộ).
Sách Đường Thư làm xong năm 946, tức chỉ còn có 20 năm nữa là Đinh Bộ Lĩnh giành quyền độc lập. Nhưng dân Tàu chỉ đông có 142 ngàn người thì giành độc lập được với ai kia chớ? Chỉ có một cách trả lời là dân Lạc Việt đã đông lắm nên họ Đinh mới dựa vào dân Lạc Việt để đòi độc lập. Hẳn họ phải đông nhiều triệu rồi mới được nhà Tống nể mặt phong vương cho họ Đinh.
Chắc chắn là có một số người đi lên núi, vào rừng, một số chạy xuống đất Chàm và theo ông O. Jansé và Willoquet thì một số chạy sang Phi Luật Tân, nhưng đó là quý tộc Lạc Việt chớ không phải dân, hay nói cho đúng hơn, không phải toàn dân, bằng cớ chắc chắn là họ đã lập được một đạo binh Việt gian với lính người mình, và để trị dân mình còn ở lại.
Sau hai bà Trưng, ta đã dấy quân nhiều lần, mà lần nào sử Tàu cũng nói là man di nổi loạn, chớ không nói là người Tàu di cư phản loạn đối với chánh quốc, mà man di nổi loạn được là vì họ chiếm đa số tuyệt đối.
Chính sử Tàu đã nói trái hẳn với sử gia Nguyễn Phương là người cả tin vào sử Tàu, nhưng khi ông muốn chứng minh một điều nó ám ảnh ông, thì ông lại bất kể sử Tàu.
Tấn thư (địa lý chí) có chép rất rõ rằng tại quận Nhựt Nam có huyện Tượng Lâm. Từ huyện Tượng Lâm trở về phía Nam (cũng cứ trong quận Nhựt Nam) có bốn động (tức bốn làng, động là làng của man-di) mà dân ở đó xưng mình là dòng dõi nhà Hán.
Tấn thư được soạn vào khoảng năm 311, tức Lạc Việt đã bị trực trị rồi từ 300 năm. Thế mà ở Nhựt Nam chỉ có 4 làng Trung Hoa ấy thôi.
Tấn thư chép câu chuyện nầy với tánh cách đưa ra một hiện tượng lạ lùng đã làm kinh ngạc người chép sử, là tại sao trong xã hội “man di” lại có 4 làng Hoa kiều thuần chủng được một cách bất ngờ như vậy.
Nếu ở đó có đông người Tàu di cư thì 4 làng nói trên không còn là một hiện tượng kỳ dị nữa, và người chép sử hoặc người cho tài liệu cho sử gia đời Tấn, đã không phải ngạc nhiên, và sử gia ấy đã không chép làm gì câu chuyện trên đây.
Về sự kiện lính Trung Hoa được rút về nước hay được giải ngũ tại chỗ để làm di dân, hợp với di dân thật sự, đẩy thổ dân vào thế thiểu số, ta nên mượn tài liệu của chính sử Tàu để nói chuyện.
Thời Đào Hoàng (tên một viên thứ sử vào năm 321) tại Giao Chỉ là thời đại thanh bình mà cũng chỉ có năm ngàn nóc nhà quy phục Bắc Triều, còn tới mấy vạn nóc nhà khác vẫn không chịu lệ thuộc.
“Mấy vạn nóc nhà” ấy, ta cứ lấy số tối thiểu là 2, hai vạn, tức là hai mươi ngàn nóc nhà. Như thế thì số gia đình quy phục chỉ là một phần tư của tổng số mà thôi. Làm một bài toán trừ đơn giản thì ta kết luận được rằng sau ba trăm năm đô hộ ta, Trung Hoa chỉ kết nạp được sự hợp tác của một phần tư dân số mà thôi. Mà trong cái phần tư quy phục ấy, chắc chắn không phải là người Tàu, vì với Hoa kiều thì đâu có vấn đề quy phục. Họ có phải là người lai căn hay không? Cũng chắc chắn là không, vì người lai căn với một dân một nước thống trị, đứng chung hàng ngũ với dân thống trị như Tây lai ở xứ ta về sau nầy chẳng hạn. Như vậy, đâu có xem là họ “quy phục”, họ được xem là người Trung Hoa ấy chớ. Tức trong năm ngàn nóc nhà quy phục ấy, không có người Tàu chánh gốc hay Tàu lai nào cả, mà chỉ có Lạc Việt thôi, toàn thể là Lạc Việt. Hai chục ngàn nóc nhà kia lại còn Lạc Việt mạnh hơn nữa.
Tổng số 25 ngàn nóc nhà nầy lại phù hợp với con số chính thức là 12 ngàn nóc nhà của Tấn Thư địa lý chí mà sử gia Nguyễn Phương và chúng tôi đã trích và dùng làm tài liệu suy luận mà chúng tôi nhắc đến trên kia. (25 ngàn là con số dưới thời Nam Bắc triều, một thế kỷ sau đời Tấn, có khác biệt nhau đến 13 ngàn, vẫn cho là phù hợp được, vì có sự so le thời điểm).
Thấy rõ là số nóc gia chép ở Tấn Thư là nóc gia của Lạc Việt, chớ không phải của Trung Hoa như sử gia Nguyễn Phương đã quả quyết.
Còn lại một thời gian là 8 thế kỷ đô hộ nữa. Trong tám thế kỷ sau nầy thì hẳn lính Trung Hoa càng ít tới đây hơn, bởi một thuộc địa đã được cai trị từ ba thế kỷ rồi, không ai gởi lính sang tới đây hơn là trong ba thế kỷ trước. Như vậy, tỷ số lai căn không thể tăng lên mà chỉ có giảm xuống mà thôi, không còn nói là trái lại được.
Bọn thương gia và phu phen, thợ thuyền có đến hay không? Không thấy sử có viết về điều đó, nhưng chắc chắn là họ có đến, nhưng năm ba ông thầy phong thủy, ông thầy thuốc du phương, vài người thợ, vài trăm tội đồ không hề làm nên đa số.
Còn như mà nói rằng nếu nhà dân bổn xứ là 25 ngàn, thì nhà dân Tàu còn đông hơn nhiều (đa số mà lại) thì đâu có việc viên thứ sử Đào Hoàng ấy sợ dân nổi loạn đến phải làm tờ phúc trình nói trên. Chính đó là một tờ phúc trình mà Đào Hoàng dâng lên để xin vua Trung Hoa đừng có rút quân chiếm đóng.
Người Lạc Việt không rút hết lên rừng để thành người Mường như nhiều người đã nói, trong đó có cả sử gia Nguyễn Phương. Họ ở lại rất đông và không bị đẩy vào cái thế thiểu số để người Tàu tràn tới, rồi tự xưng là dân tộc Việt Nam, bởi nếu Lạc Việt thiểu số thì thứ sử Trung Hoa đã không sợ họ nổi loạn.
Cho tới nay, không ai biết người Mường là ai cả, cứ phỏng đoán. Ở một chương sau ta sẽ biết đích xác họ là ai.
Còn như toàn dân là người Tàu ư? Thì sao họ lại nổi loạn kia chớ? Người Tàu vẫn có thể nổi loạn để tự lập à? Rất có thể, mà như vậy thì không có vấn đề ¼ quy phục và ¾ không qui phục. Họ qui phục toàn loạt. Chừng nào tới giờ phút muốn tự lập thì chừng ấy mới có việc nổi loạn, chớ tình hình căng thẳng không có xảy ra. Sở dĩ tình hình nầy mà có là vì có người thống trị và người bị trị ở cạnh nhau.
Sự kiện “rút quân về” lại chứng tỏ rằng những đợt sóng binh sĩ liên tiếp tới đây, không có ở lại. Có bọn di cư hay chăng mà sử gia cũng đã nói đến? Chắc chắn là không đáng kể gì hết. Sử gia René Grousset đã nắm được những con số của những lần kiểm tra dân số của Trung Hoa trải qua lịch sử của họ.
Nạn nhân mãn vào đời nhà Hạ ở ngã ba sông Vị và sông Hoàng Hà, đã được vua Thiếu Khang giải quyết rồi, bằng cách cho Vô Dư lãnh đạo bọn di cư xuống đất Kinh Việt, cái đất mà về sau, người Tàu lai Việt ở đó lập ra nước Sở. Chánh sách trồng người của Tần Thủy Hoàng không hề do nạn nhân mãn chi phối mà chỉ là một hành động đế quốc muốn đồng hóa man di. Nạn nhân mãn lớn (explosion démographique) thì mãi đến đời nhà Thanh họ mới mắc phải.
Sự kiện nhà Hán cứ còn giữ các cán bộ bổn xứ là Lạc Tướng, tuy không chứng tỏ rằng họ thiếu cán bộ, nhưng lại chứng tỏ rằng thổ dân không phải là thiểu số, mà trái lại còn là đa số cần được trị an bằng chính đám quan lại đã có uy tín sẵn. Về sau, thổ dân ấy lại càng ít thiểu số hơn vì chỉ có cuộc chinh phục ban đầu mới cần nhiều lính, còn di dân thì không có, như đã thấy.
Vào thế kỷ thứ XV T.K. Trung Hoa mới bắt đầu di dân ra biển Đông và xuống phương Nam. Nhưng mãi cho đến giữa đời Đông Chu lối năm 500 T.K. mà ở mạn biển Đông chưa có người, nước Thù, vào thời Chiến quốc là một nước chỉ gồm có 10 học tức cao lắm 10 ngàn nhân khẩu. Thế thì ba, bốn, năm trăm năm sau, họ lấy đâu cho ra người để di dân xuống Lạc Việt? Danh xưng Lạc Việt biến mất vào thuở đó là vì lẽ chánh trị chớ không phải lẽ dân số như sử gia Nguyễn Phương đã nói. Thực dân Trung Hoa khác với thực dân Pháp sau nầy, họ xóa hết cái gì là cố cựu của thổ dân với mục đích đồng hóa, chỉ có thế thôi. Danh xưng Lạc Việt mất một cách nhân tạo, mất trong sách vở, trong văn kiện Trung Hoa, nhưng không mất trên thực tế.
Về những con số nầy, không phải tìm tài liệu lạ cho mất công: Chúng tôi xin lấy ngay tài liệu của sử gia Nguyễn Phương. Ở trang 331, sử gia viết: (Năm … 858 (tức còn có 117 năm nữa thì ta độc lập vĩnh viễn với Đinh Bộ Lĩnh)… một vị cai trị có tài tên là Vương Thức… đến nơi ông liền nghĩ đến phòng thủ phủ thành… huấn luyện binh sĩ. Không lâu, có một bọn Nam Man kéo đến. Thức ung dung cho người giải dịch hơn thiệt cho họ, họ rút về”.
Còn có 1 trăm năm nữa thì “người Tàu Đinh Bộ Lĩnh” tách rời xứ nầy ra khỏi chính quốc của y, thì hẳn quanh thành Đại La phải đông đặc người Tàu di cư rồi, nếu căn cứ trên thuyết của sử gia Nguyễn Phương. Thế thì làm thế nào bọn Nam Man tiến đến thành được? Họ có võ trang ư, còn người Tàu thì tay không? Nhưng vũ khí của họ cũng chỉ là dao, mác thôi, mà dân Tàu di cư, nhà nào cũng có dao, mác cả. Mà không phải Tàu chỉ ở quanh thành mà thôi, vì người bổn xứ đã bị thiểu số từ lâu đời rồi thì người Tàu di cư phải chiếm hết cả quận, huyện, tổng, làng. Không lẽ còn có một trăm năm nữa mà “người Tàu Đinh Bộ Lĩnh” cầm đầu người Tàu di cư để ly khai, mà người bổn xứ lại còn ở gần họ được?
Cũng cứ lấy tài liệu của sử gia Nguyễn Phương.
Năm 930 (nghĩa là còn có 45 năm nữa là “người Tàu Đinh Bộ Lĩnh” phản loạn với chính quốc của y) Lý Tiến sang làm thứ sử Giao Châu, Lưu Yểm căn dặn: “Dân Giao Chỉ thích làm loạn, chỉ nên tìm cách lung lạc họ mà thôi”.
Nếu dân Giao Chỉ là người Tàu di cư thì một ông vua người Trung Hoa không bao giờ lại ăn nói như vậy. Chẳng hạn, nói đến dân Trung Hoa ở huyện Cảnh Đức Trấn, ông ấy đã nói: “Con dân ta”, ở Cảnh Đức Trấn vừa tìm được một trái núi có đất tốt để chế tạo loại đồ sứ đẹp, tên là núi Cao Lĩnh. Ông ấy không bao giờ nói: “Dân Cảnh Đức Trấn”. Vì thói quen của các vua Tàu là như thế, khi nào nói đến dân ngoại chủng, họ mới chỉ dân ấy bằng tên nước của ngoại chủng đó.
Sử gia Nguyễn Phương đã chứng minh được rằng nhà Tống “Công nhận quyền độc lập của Cổ Việt giữa thời bình”. Nhưng trải qua mấy ngàn năm lịch sử của Trung Hoa, không bao giờ giữa thời bình mà con dân Trung Hoa lại đứng lên ly khai và nhứt là đòi hỏi ấy được thỏa mãn. Mà ở các nước khác cũng thế. Như vậy tại sao “người Tàu Đinh Bộ Lĩnh” lại đòi ly khai giữa lúc thạnh trị? Chỉ có một lối trả lời độc nhứt mà thôi: Đinh Bộ Lĩnh không phải là người Tàu, hay ít lắm, dân của ông cũng không phải dân Tàu.
Sử gia Nguyễn Phương lại trích bài chế của vua nhà Tống: “Đinh Bộ Lĩnh có chí mến văn hóa của Trung Quốc…”. Nếu Đinh Bộ Lĩnh là người Tàu, hẳn vua nhà Tống phải biết, cũng như vua nhà Tần đã biết rằng Triệu Đà là người Tàu.
Mà người Tàu không bao giờ có chí mến văn hóa của Trung Quốc như một số người của nước khác. Họ sanh ra, sống giữa văn hóa ấy, thấy tự nhiên phải như vậy, theo văn hóa khác là không xong, văn hóa Trung Quốc đối với họ như cơm mà họ ăn, áo mà họ mặc, nó quá quen thuộc mà họ giữ, không ghét cũng chẳng mến, họ giữ nó một cách máy móc.
Vua nhà Tống mà nói như vậy thì hẳn ông ấy biết Đinh Bộ Lĩnh không phải là người Tàu, và Đinh Bộ Lĩnh khởi nghĩa để giành độc lập cho Lạc Việt chớ không phải để tách rời ra khỏi nước mẹ theo lối Huê Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan.
Sử gia Nguyễn Phương chắc cũng chưa tiêu hóa nổi chính cái thuyết của mình, nên chi ông mâu thuẫn trong lời nói. Có khi ông viết: “Ngô Quyền giành độc lập” có khi viết: “Nước Việt Nam… rụng ra khỏi cây mẹ”.
Sự tách rời ra khỏi nước mẹ, đã xảy ra trong lịch sử của nhiều quốc gia, nhưng nó khác việc tranh đấu giành độc lập, mặc dầu trong hành động trước cũng có tranh đấu; cũng có độc lập, nhưng trong hành động trước là đồng chủng với nhau, trong hành động sau là chống xâm lăng.
Có một chi tiết mà không thấy sử gia nào của ta nói đến, là mặc dầu đặt quận, huyện ở Giao Chỉ, người Tàu không bao giờ trực trị ta cả.
Bằng chứng không trực trị là các quan thứ sử phải nộp cống hàng năm, đến đời Đường, cũng còn cống. Đây là cống phẩm của Giao Chỉ, dưới đời Đường: chuối, cau, mật chiên (?), lông chim sả (Phỉ túy).
Sử nói đó là thổ cống, nghĩa là còn có những cống phẩm khác, không nói ra vì không đặc sắc: như vàng, bạc, chẳng hạn (trích Phương Đình Dư địa chí).
Hễ các quận, huyện bị trực thị thì dân ở đó phải đóng thuế, còn quan thì không có cống gì hết. Đằng nầy quan đầu xứ lại phải cống như là một phiên vương thì chắc chắn sự cai trị Giao Chỉ nằm lưng chừng giữa chế độ phiên thuộc vậy.
Mà tại sao lại thế? Là tại thổ dân quá đông mà lại không quen phải chịu sưu thuế nên không đóng thuế trực tiếp và Trung Hoa đành phải lấy thuế gián thu dưới hình thức cống phẩm, đến đời Đường, Giao Chỉ gần độc lập rồi, vẫn còn cống.
Những điều trên đây chứng tỏ rằng thổ dân chiếm đa số tuyệt đối, một đa số lớn cho đến đỗi quan hệ chánh trị giữa Giao Chỉ và Trung Hoa phải mềm dẻo uốn mình theo. Nếu người Tàu là đa số thì chánh sách của Trung Hoa hẳn đã phải khác, thâu thuế, chớ không nhận cống phẩm.
Văn học sử Trung Hoa cho biết rằng thi hào Vương Bột đời Đường làm bài thơ Đằng Vương Các trong chuyến đi thăm cha làm quan huyện ở Giao Chỉ.
Mãi cho tới đời Đường mà quan Tàu còn không mang vợ con theo, mặc dầu họ được ở các thị trấn, tương đối ít chướng khí, thì hẳn thường dân không ham tự động được di cư cho lắm.
Nên nhớ rằng đến đời Đường người Tàu vẫn cứ còn sống theo chế độ đại gia đình, chớ không phải hễ biết làm thơ rồi như Vương Bột là được ra riêng.
Cuộc thăm cha xa xôi của thi sĩ Vương Bột chứng tỏ rằng quan Tàu thuở ấy không có mang gia đình theo. Họ liều thân một mình, để vợ con họ được an toàn, tránh cái khí hậu nhiệt đới của Giao Chỉ mà dân Hoa Bắc không chịu nổi.
Hạ chí Tuyến (tropique du Cancer) nằm ngay tại thành phố Quảng Đông ngày nay, và qua khỏi Hạ chí Tuyến là vùng bán nhiệt đới (sub-tropical), qua khỏi Cà Mau là vùng xích đạo nhiệt đới (équatorial), người Hoa Bắc không làm sao mà sống được ở hai vùng khí hậu đó, chớ thật ra thì nó không có độc gì hết như họ tưởng.
Cái huyền thoại Mã Viện thấy một con chim rơi rồi ngộ nhận là vì khí hậu quá độc mà cả chim cũng phải rơi, chỉ là vì Mã Viện trông gà hóa quốc. Y đã thấy một con chim bói cá, loại chim ấy không có ở Trung Hoa nên y không biết. Người Tàu gọi nó là chim phỉ túy, miền Nam nước Việt gọi là chim thằng chài, nó thường từ trên cao phóng xuống trông y hệt như là nó rơi đối với con mắt người Hoa Bắc.
Lưu An trong Hoài Nam Tử đã chép rằng nhà Tần đánh Ngũ Lĩnh chỉ vì tham lông chim phỉ túy, tức con chim bói cá mà Trung Hoa không có.
Không ai chối cãi rằng có di cư, nhưng không hề thấy có chánh sách dời người của nhà nước, thì cuộc di cư tự ý của cá nhân, nhứt định là rất yếu, không đáng kể. Sử Tàu xem ra thì không đến đỗi thiếu sót những biến cố quan trọng, chỉ có bốn động người Tàu ở Cửu Chơn mà họ còn ghi rõ thì làm thế nào họ không ghi sự kiện hàng vạn người tràn sang đây, nếu sự kiện ấy đã xảy ra. Từ Hán đến Tống, họ đã viết hàng chục bộ sử, sử gia nầy có quên mất vài việc, thì còn sử gia khác, nhưng không thể nói rằng ai cũng quên sự kiện di cư cả.
Xin trích dẫn ra đây bài Ý lữ văn của một bậc danh nho khét tiếng đời nhà Minh, triết gia Vương Dương Minh.
Vương Dương Minh làm quan tại triều nhà Minh, phạm tội khi quân, bị giáng đi làm quan hạng bét ở xứ Long Trường. Ông ấy kể một câu chuyện vừa bằng văn xuôi, vừa bằng thơ, đại khái như dưới đây:
“Năm Minh võ Tống (1515) ta đang làm quan nhỏ ở đất Long Trường thì một buổi chiều có một viên chức nhỏ làm lại mục, từ kinh đô được thuyên chuyển đến nơi nhậm chức, đi ngang qua Long Trường, có dẫn theo 1 con trai và 1 người tớ.
Không ai biết y tên gì. Ta ở trong nhà, nhìn qua hàng rào thưa, thấy y vào xin ngủ trọ ở nhà một thổ dân người Miêu. Sáng ra thì y tái khởi hành.
Nhưng gần trưa, có người ở gò Ngô Công về cho biết ở chơn núi có một người già chết, hai người khóc thảm thiết. Người chết là người lại mục. Gần lối lại có người cho biết dưới chơn núi có hai thây ma, người còn sống đang khóc lóc thảm thiết. Hỏi ra thì người chết sau đó là đứa con trai người lại mục. Sáng hôm sau nữa thì người ta cho biết người sống sót cũng chết nốt.
Ta buồn nên ta ca rằng:
Ta với ngươi đều là kẻ xa quê
Chẳng hiểu ngôn ngữ của man di
…
Bên đường mồ mả liên kế nhau
Phần lớn là của người Trung Quốc xa nhà”.
Qua bài văn của Vương Dương Minh, ta thấy gì? Là mãi cho đến năm 1515, tức tương đối rất gần đây, mà ở Hoa Nam còn hiếm dân Trung Hoa cho đến đỗi viên lại mục phải ngủ trọ ở nhà thổ dân.
Quan Trung Hoa thì có, nhưng cũng hiếm lắm, nên kẻ bạc phước mới không dè rằng có Vương Dương Minh ở Long Trường để mà tìm đến.
Ta lại thấy mồ mả người Tàu chết đường nhiều quá khi họ xuống phương Nam. Sự kiện ấy hẳn không làm cho họ ham di cư sang tận Giao Chỉ đâu, vì Giao Chỉ còn xa hơn nhiều.
Như vậy thử hỏi 8 trăm năm về trước, có thể có người Tàu di cư sang xứ ta đông đáng kể chăng?
Sử gia Nguyễn Phương có đưa ra một câu chuyện, không biết để làm gì, vì câu chuyện đó hoàn toàn vô ích đối với quyển sách của sử gia. Đó là chuyện quan Thứ sử Doanh Châu Lư Tổ Thượng đời Đường, từ chối đi làm Thứ sử theo chỉ định của vua Lý Thế Dân, nên bị chết chém.
Nhưng đó là gậy ông đập lưng ông, vì sử gia chép thiếu một câu quan trọng mà nay chúng tôi đưa ra đây: “Đi Giao Chỉ, thì không có về, thà là tôi chịu chết mà được chết ở quê nhà”.
Cho tới đời Đường rồi mà người ta còn sợ Giao Chỉ đến thế. Mà đó là nhơn vật cao sang nhứt Giao Chỉ, nếu ông ấy chịu đi. Điều kiện sống của ông sẽ giúp ông dễ chịu phần nào mà ông còn chọn cái chết chém thay cho việc đi Giao Chỉ thì hẳn thường dân không ham Giao Chỉ lắm đâu.
Trong cuộc xâm lăng của nhà Tống, sử Tàu thú nhận có 110.000 binh sĩ chết vì sơn lam chướng khí (không kể bọn chết trận), mà chuyện đó xảy ra 1.035 năm sau Mã Viện, thì đủ biết người Tàu không ở đất Giao Chỉ được mà nói đến những đợt di cư liên tiếp.
Ở đây tưởng nên trở lại vấn đề bất phục thủy thổ mà tất cả các sử gia Tàu đều nói đến, mãi cho tới đời nhà Thanh cũng còn nói.
Người ta tự hỏi nếu xưa Tàu ở Giao Chỉ không được, sao nay họ lại ở được, cả ở đường xích đạo (Anh Đô Nê Xia) nữa.
Nhưng ta cứ kiểm soát lại xem người Tàu sống ở Đông Nam Á ngày nay là ai. Đó là người Hải Nam, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hẹ. Ngoài 5 nhóm đó ra, tuyệt đối không còn nhóm nào khác nữa hết. Không bao giờ ai tìm gặp một người Hồ Nam, một người Triết Giang tại Đông Nam Á.
Mà 5 nhóm người ấy là ai? Đó là những người Thái (Tây Âu, Đông Âu, Hẹ, Hải Nam) và những người Lạc (Phúc Kiến, Triều Châu) biến thành Tàu.
Dưới những đời Hán, Tần, Đường, Tống, Minh, họ còn là man di, nên không giỏi để mà đi làm ăn xa, còn người Tàu thật sự, tức người Hoa Bắc và Hoa Trung thì chỉ chịu đựng nổi khí hậu Hạ chí Tuyến mà thôi (tuyến nầy nằm ngang thành phố Quảng Đông).
Cả đến “man di” Sở, gốc Việt, mà vẫn không dám xuống khỏi Hạ chí Tuyến.
Người Tàu di cư xuống Đông Nam Á hiện nay, sở dĩ di cư được, chính vì họ là những con người sống tại ranh giới Hạ chí Tuyến, có thể quen được với khí hậu bán nhiệt đới. Nhưng những con người ấy, khi xưa, còn kém cỏi lắm, không thể biết đi làm thợ, hoặc làm thương mại xa, còn bọn có khả năng là bọn ở trên thì từ xưa đến nay không di cư bao giờ.
Vấn đề sơn lam chướng khí của Giao Chỉ là chuyện huyền thoại mà họ đưa ra, khi họ không giải thích được một sự thật về phản ứng cơ thể đối với khí hậu lạ.
Tài liệu rõ ràng hơn cả là một câu sử trong Hậu Hán thư thiên Mã Viện truyện.
Mã Viện thắng trận rồi thì kiểm điểm lại để về nước. Binh sĩ tử trận không đáng kể, mà “Bất phục thủy thổ mà chết 10 phần hao hết 4 hoặc năm”. Đó là binh sĩ Trung Hoa, chớ không phải người Tây Âu ở Nam Việt hay đạo thân binh Việt phản quốc mà chúng tôi đã nói đến và sử gia Nguyễn Phương cho là người Tàu di cư tình nguyện đi lính.
Chúng ta tự hỏi có phải chăng sử gia Nguyễn Phương đã bị ông O. Jansé đánh lạc hướng? Quả thật vậy, trong danh sách những sách tham khảo của sử gia Nguyễn Phương thấy có quyển A.R.I.I. của ông O. Jansé, và trong quyển sách đó, ở chương kết luận, ngắn chỉ có một trang, ông O. Jansé có viết:
Vì cuộc lấn lần của người Trung Hoa mà dân Cổ Mã Lai rút đi xa, có lẽ về hướng Nam… (trước thời Triệu Đà).
Nhưng ông O. Jansé đã tự mâu thuẫn với ông vì trước đó mấy dòng, ông viết rằng quý tộc Lạc Việt rất ham gả con gái cho bọn phiêu lưu Tàu mà tài nghệ siêu quần. Đã mê Tàu như thế, sao lại bỏ nước mà đi?
Nhưng chẳng những không có bằng chứng ta bỏ đất cho Tàu, mà trái lại còn có vô số bằng cớ là ta không có bỏ đất, hay nói cho thật đúng, chỉ có một số người là bỏ thôi, đó là quý tộc Lạc Việt và tôi tớ, gia nhân, nô lệ của họ, mà việc đó cũng chỉ vào thời Mã Viện, chớ trước thì không có, sau cũng không có, đại đa số dân chúng vẫn ở lại, bằng cớ là khi Mã Viện đến, họ gặp toàn người Lạc Việt chớ không có gặp người Tàu nào đã di cư ở sẵn đó.
Cho tới thời Mã Viện mà cơ thể của người Tàu còn chưa chịu được khí hậu Giao Chỉ thì trước đó làm gì người Tàu di cư tới được như ông O. Jansé nói, và làm gì có di cư từ đó về sau được sử gia Nguyễn Phương nói.
Có một trang kết luận ngắn mà ông O. Jansé rối lên, mâu thuẫn lung tung. Ông nói chuyện dân bổn xứ bỏ nước là nói chuyện trước Mã Viện đấy. Bỏ nước vì bị lấn lần hồi. Nhưng nếu thế, thì lấy đâu cho ra hai bà Trưng để mà khởi nghĩa? Vả lại người ta chỉ có thể bỏ nước khi bị xâm lăng chớ không hề bỏ nước trước một cuộc di cư âm thầm.
Bằng như cho rằng việc bỏ nước xảy ra vào thời Mã Viện như sử gia Nguyễn Phương nói, thì họ Mã không đã thể kiểm tra dân số người thổ trước được mà sử Tàu đã chép là việc kiểm tra ấy đã được thực hiện khá chu đáo.
Không, Lạc Việt chỉ mới hợp chủng với Trung Hoa sau Mã Viện mà thôi. Sự có mặt của vài cái sọ Mông Gô Lích ở Bắc Sơn sẽ được giải thích rõ ở chương Mã Lai chủng. Không hề có lai với Tàu. Đó là sọ Việt Hoa Bắc, tức sọ Cửu Lê, lai với Mông Cổ.
Tất cả những nhà bác học Patte, Mansuy, Colan đều sai lầm ở điểm nầy, và tất cả sách ta đều cóp lại. Những cái sọ Mông Gô Lích ở làng Cườm là sọ Cửu Lê lai giống với Mông Cổ tại Hoa Bắc và di cư tới đó chớ không hề là sọ Trung Hoa. Rồi ta sẽ thấy bằng chứng.
Những ngôi mộ Trung Hoa đào được ở Bắc và Trung Việt, là mộ quan, mà quan Tàu xưa thì không có mang vợ con theo, như câu chuyện thi hào Vương Bột đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ mà chúng tôi đã kể khi nãy.
Việc tống táng các ông, hóa thành việc nhà nước, việc của các tùy viên, mà họ thì chỉ cần làm cho đúng lễ và đủ lễ, chớ không thể đưa hài cốt về Tàu được như gia đình của những người chết.
Còn thì Hoa kiều thường dân luôn luôn trở về cố thổ, sau khi nhắm mắt, hoặc ngay lúc còn sống, khi đã làm giàu rồi.
Một chứng tích ngộ nghĩnh mà ông O. Jansé, kẻ đào mồ cuốc mả thiên hạ lại không thấy, để cho người khác thấy. Người khác đó là ông L. Bézacler. Ông nầy viết: “Những ngôi mộ Tàu tìm thấy ở Bắc Việt và Bắc Trung Việt đều là mộ từ thời Hậu Hán về sau, trước đó không hề có”.
Mộ dân là mộ đất thì có hay không cũng chẳng ai biết. Mộ mà ông L. Bézacler nói đến là mộ quan. Nhưng nếu có mộ của rể các lãnh chúa như ông O. Jansé nói thì hẳn người ta cũng đã tưởng là mộ quan, và đã cho là có, vì rể lãnh chúa phải là những nhơn vật quan trọng không kém gì quan, và họ được tống táng theo Tàu chớ không theo Việt.
Cái câu chuyện các lãnh chúa ham gả con gái cho Tàu di cư của ông O. Jansé chỉ là huyền thoại của một nhà bác học kém tưởng tượng khi bịa càn.
Còn đây là một sự kiện nó đánh ngã thuyết của sử gia Nguyễn Phương bằng những vố nặng hơn bất cứ tài liệu nào.
Từ 1680 đến năm 1945, Hoa kiều ở miền Nam có lập ra hội Di hài, mỗi năm mỗi Hoa kiều nghèo, đóng một số tiền niên liễm, để sau họ qua đời, hội sẽ di chuyển hài cốt của họ về quê cha đất tổ họ bên Tàu.
Đó là cái hoài bão tha thiết nhứt của Trung Hoa di cư sang Việt Nam. Nhưng thuở xưa thì có như thế hay không? Đó mới là chuyện đáng kể.
Cụ Vương Hồng Sển nguyên là quản thủ Bảo tàng viện Sài Gòn, là một nhà chơi đồ cổ có tiếng, cụ có cho chúng tôi thấy một thứ hộp bằng sứ chế tạo bởi những lò sứ ở Thanh Hóa của người Hoa kiều đời Đường, đời Tống. Đó là hộp chế tạo riêng để dựng hài cốt Hoa kiều trong chiến dịch di hài nói trên.
Với cái tinh thần đó, với sự cẩn thận chế tạo cả dụng cụ cho công việc ấy, thử hỏi ý chí lập nghiệp lâu dài của người Tàu thuở đó ở xứ ta có hay không? Nếu quả có di cư đi nữa, như sử gia Nguyễn Phương cứ quả quyết rằng có, thì đó chỉ là những cuộc di cư để kiếm ăn vài mươi năm, chớ kẻ di cư không có ở lại để ly khai với chánh quốc và tự xưng là người Việt Nam đâu.
Tại Chợ Lớn, hồi trước năm 1945, việc hốt cốt ở các nghĩa địa Hoa kiều và việc chế tạo hộp di hài là một kỹ nghệ lớn, nuôi sống hàng ngàn người, bởi Hoa kiều đông mà kỹ nghệ đồ sứ và hốt cốt cũng cần thợ đông lắm.
Từ năm bọn lưu vong nhà Minh đến Nam kỳ tới nay là ba trăm năm rồi, thế mà nghĩa địa của họ ở Chợ Lớn chưa đầy, mặc dầu hiện nay số Hoa kiều ở đây, kể cả những người mới nhập tịch, lên đến gần 9 trăm ngàn người (Tạp chí Bách khoa, tháng 2.1970).
Tại sao nghĩa địa nhỏ thế mà không đầy? Là tại họ không có ở lại. Kiếm được một số tiền là họ dông đi. Rủi chết bất thình lình, vợ con họ, hoặc Hội di hài cũng sẽ cho hốt cốt đưa về Tàu.
Đó là chuyện đời nay mà họ tìm được lạc thú ở đây với một cộng đồng Trung Hoa lớn, có đủ thứ đồ cần dùng cho họ, có đủ bạn bè thân hữu cho họ, chớ xưa kia, thiếu thốn tất cả, chắc họ không ham tới lắm đâu, và nhứt là có dại dột tới, họ không ham ở lại lắm đâu.
Tóm lại, không hề có người Tàu di cư đáng kể sang đây dưới thời Bắc thuộc. Nhiều quyển sử cũng đã nói như sử gia Nguyễn Phương nhưng không quyển nào chứng minh được sự kiện ấy cả. Có quyển lại chỉ nói mơ hồ mà không buồn chứng minh gì hết.
Mà nếu không có các cuộc di cư vĩ đại liên tiếp thì dân ở đây là dân Lạc Việt hết, không thể nào họ biến mất để cho Hoa kiều trá hình làm Việt Nam được.
Cái chuyện người Tàu di cư tự xưng là Việt Nam là một câu chuyện vô lý động trời.
Cứ viếng Tân Gia Ba thì biết. Họ cứ tự xưng họ là người Tàu đi lập quốc ở hải ngoại, chớ không hề tự xưng là người Mã Lai Á bao giờ hết.
Con người có bản chất thấy sang bắt quàng làm họ, chớ chưa hề có trường hợp bắt quàng làm họ với kẻ bị trị. Tàu giỏi hơn Việt, Tàu giỏi hơn Mã Lai Á, thì họ không mắc chứng điên mà phủ nhận nguồn gốc Tàu của họ để tự xưng là Việt, là Mã Lai Á.
Bọn Tàu di cư tới đất Kinh Man, tuy không tự xưng là Tàu, nhưng cũng không bao giờ tự xưng là Việt Kinh Man. Họ bày ra danh tự xưng mới là Sở, nhưng phong tục và kỹ thuật thì cứ là phong tục kỹ thuật Tàu, chớ dân Sở không theo phong tục man di ở Kinh Man, trừ vài trường hợp nho nhỏ. Thế nên rồi nước Sở mới được xem là một tiểu bang Trung Hoa một cách chính thức trong chánh phủ trung ương đời Đông Chu.
Việt không phải là danh tự xưng mới bày ra sau như Sở, mà nó là tên có đã từ lâu đời lắm mà Tàu cho là man di mọi rợ. Di cư Tàu ở Cổ Việt (nếu có) hẳn đã bày ra một danh xưng mới như Sở, chớ sao lại tự xưng là Việt mà họ hiểu là man di?
Bọn lai căn cũng quá ít vì bọn di cư vốn đã ít kia mà. (Nhiều sử gia khác cũng đã nói là có đông người lai căn lắm).
Lần nầy ta phải dứt khoát về vấn đề nầy mới được, chớ không thể bỏ qua như từ xưa đến nay, vì sử gia Nguyễn Phương đã mượn câu chuyện tưởng tượng đó để lập ra một thuyết động trời rất là tai hại.
Con số chính thức về những đứa con hoang mà lính Mỹ bỏ rơi ở Việt Nam, được công bố chính thức, đăng báo ngày 22.7.1971 là 5.000.
Những đứa con được thừa nhận là bao nhiêu? Đáng lý là phải ít hơn, vì kẻ can đảm, dám chịu trách nhiệm, ít hơn. Nhưng ta cứ cho là cũng 5.000.
Vậy tổng số là 10.000. Mà lính Mỹ thì đóng tới nửa triệu.
Như thế thì một triệu lính chỉ sản xuất có 20 ngàn trẻ lai. Ta thử tính xem bốn ngàn lính thú Trung Hoa cho ra đời bao nhiêu trẻ lai?
Một bài toán nhơn sẽ cho thấy số lính Tàu tỉ suất có thể cho ra đời con lai:
4.000 x 60 = 240.000
240 ngàn thì ít hơn nửa triệu quá xa, và số trẻ lai Tàu chỉ bằng phân nửa trẻ lai Mỹ, tức 10 ngàn. Mười ngàn không thể làm nên đa số, bởi Tàu sản xuất con thì Lạc Việt cũng sản xuất con, và con số non một triệu dân Lạc Việt buổi đầu cũng tăng và cũng cứ làm đa số tuyệt đối ở xứ ta.
Có một sự kiện nầy mà sử gia Nguyễn Phương không chú ý tới. Đó là danh xưng mà người Việt Nam xưa ở miền Bắc dùng để gọi người Tàu. Ta luôn luôn gọi người Tàu là người Ngô, chớ không bao giờ gọi là Hán là Tần gì hết.
Nếu gọi theo trào đại của Trung Hoa thì hẳn danh xưng đó phải được thay đổi, có khi gọi là Ngô, có khi gọi là Tống, là Nguyên. Đằng nầy không. Như vậy chỉ có thể hiểu là ta gọi họ theo thói quen của ban đầu.
Và Ngô nầy chắc chắn là Ngô Tam Quốc chớ không phải Ngô Ngũ Đại vì dưới thời Ngũ Đại, ta bị kẹt với Nam Hán, còn Ngô thì ở trên xa lắm. Ngô Tam Quốc kiểm soát cả từ sông Dương Tử cho đến nước ta.
Nội loạn Tam quốc của Trung Hoa xảy ra vào những năm 213, 280 S.K.
Danh xưng mà ta để dành cho họ có thể đánh dấu với thời họ mới di cư tới, tức là quá xa về sau nầy, quá xa với cái vụ trồng người của Tần Thủy Hoàng.
Nhưng nói về Hoa kiều ở Việt Nam, có lẽ người miền Nam rất thạo bởi 9 phần mười Hoa kiều sống tại miền Nam, chớ không phải tại miền Bắc và miền Trung.
Tất cả những Hoa kiều ở miền Nam, cho dẫu tới đây dưới trào Minh, trào Thanh hay trào Trung Hoa dân quốc sau 1911, đều tự xưng là Thoòng dành tức Đường nhơn.
Hỏi họ tại sao không tự xưng là Hán dành vì thường thì họ hãnh diện về nhà Hán hơn (họ xưng với các nước khác rằng họ là Hán tộc) thì họ đáp rằng, khi họ ra đi, người trong nước họ, dặn phải tự xưng như vậy, không vì hãnh diện nào, mà chỉ để cho người Việt Nam dễ biết họ là ai, bởi những Việt Nam bắt đầu biết rõ họ dưới đời Đường.
Người Trung Hoa rất thích khoe khoang về nhà Hán của họ mà khi họ phải hy sinh cái nhà Hán vĩ đại đó thì hẳn ta phải tin rằng họ nói sự thật chớ không phải bịa chuyện, về cái vụ Đường ấy.
Và quả chúng tôi bắt được chứng tích không thể chối về sự kiện nói trên.
Trong sách Khâm Châu Chi có chép: “Tướng Trường Châu có quân mạnh, gồm được hết các quận Uất Châu (Quảng Tây) rồi đầu hàng nhà Đường. Từ đó nước Trung Quốc mới có đường thông thương với Giao Châu và Ái Châu”.
Thế là rõ. Trước đời nhà đường, tuy cũng có đường, nhưng là đường băng rừng của các đội viễn chinh, mấy trăm năm mới được sử dụng một lần, nên quân lính đi qua rồi thì thành rừng trở lại. Chỉ sau cuộc đầu hàng nhà Đường của tướng Trường Châu, kẻ đã mở mang Uất Châu, thì mới có đường đi thật sự và dân Tàu mới di cư đến được.
Thế nên bọn di cư mới quen tự xưng là Đường Nhơn (Thoòng Dành). Nhưng nhà Đường thì quá mới, vì man di Lạc Việt sắp thu hồi độc lập rồi, trước khi bị bọn di cư làm cho thiểu số.
Nhưng hễ họ thu hồi độc lập rồi thì họ hạn chế di cư và không bao giờ họ thiểu số cả.
Trên kia, chúng ta vừa nói đến danh xưng Ngô là xưng theo thói quen buổi đầu. Nhưng đó là thói quen của ta. Thói quen của họ là Đường. Ai nói đúng hơn ai?
Ta chỉ có thể hiểu là ai cũng nói đúng cả. Ngô là thời mà thường dân Tàu bắt đầu tới đây nhưng chỉ thưa thớt thôi và Đường là thời mà họ bắt đầu tới đông, nên mới nổi danh và được ta biết rõ, và được họ tạm dùng để chỉ căn cước của họ.
Dầu sao, cuộc di cư bắt đầu cũng chỉ mới xảy ra lối năm 240 S. K., còn sự kiện tới đông hơn thì còn quá mới, tức năm 720 (Trung điệp nhà Đường).
Chính vào đời Đường ấy mà theo đối chiếu của ông H. Maspéro, mái nhà của người Trung Hoa bắt đầu cong quét lên y như mái nhà có hình khắc trong trống đồng Đông Sơn, và đó là lối kiến trúc đặc biệt của chủng tộc Mã Lai, chớ dân Trung Hoa từ đời Đường trở về trước, cất nhà y hệt như nhà Tây, tức nóc không oằn, mái không cong quớt lên (xin xem chương Dấu vết Mã Lai).
Nhưng cũng nên nhớ rằng sự “nhiều” đó, chỉ là tương đối với đời Ngô, chớ việc Lư Tổ Thượng, người đời Đường thà chịu chết chớ không đi làm quan đầu xứ ở Giao Chỉ cho thấy quá rõ rằng người Tàu chưa dám di cư vào đất Việt, cả dưới đời Đường ấy nữa. Chúng tôi lại trích Hải ngoại kỹ sự do chính sử gia Nguyễn Phương dịch, tài liệu nầy là tài liệu cuối thế kỷ XVII, tức mới đây thôi, và chúng tôi ưa dùng nó vì đó là dịch phẩm của sử gia họ Nguyễn, sử gia có thấy nó có giá trị nên mới dịch, thì không thể nói là sách ấy sai.
Xin trích một đoạn ngắn của bài khảo cứu của giáo sư Trần Kinh Hòa đăng sau các chương của quyển “Hải ngoại kỹ sự”:
“Trong thời gian lưu trú ở Hội An lần thứ hai, Đại Sán thấy trong bọn Hoa kiều có hai người kế nhau tạ thế. H.N.K.S. chép rằng “bản chất con người phương Bắc đến đây hay sanh bịnh…”. Tuy chết sống do mạng trời, nhưng người cũng có quyền di chuyển chẳng qua vì cớ Bắc Nam bất phục thủy thổ mà ra cả”.
Đó là chuyện xảy ra năm 1665. Thích Đại Sán lại là người Hoa Nam, sống ở Hạ chí Tuyến từ lúc lọt lòng, tức ông và những người chết đã quen được phần nào với khí hậu nhiệt đới của Việt Nam.
Chuyện gì xảy ra 1665 năm trước đó, năm mà Mã Viện sang xứ ta, nhứt là họ Mã và đại đội binh mã của y đều là thứ người nói tiếng Trung Hoa giọng Quan Thoại, tức người ở kinh đô Tàu mà đến, người của vùng khí hậu lạnh, nhứt là kinh đô Tàu thuở ấy lại là Lạc Dương, Trường An, toàn là những nơi có khí hậu lục địa, khác hẳn khí hậu lạnh mà có gió mùa ở Sơn Đông, tuy vẫn còn quá lạnh nhưng hơi giống phần nào với khí hậu Giao Chỉ, chớ khí hậu lục địa (climat continental) của các kinh đô Tàu xưa thì khác một trời một vực với khí hậu ở dưới Hạ chí Tuyến? Cái câu chuyện gì đó rất là dễ biết, là Tàu Hoa Bắc không sống được trong khí hậu bán nhiệt đới của Giao Chỉ, còn Tàu Hoa Nam thì mãi đến đời Nguyên (theo Marco Polo) thì chưa thành Tàu hẳn để mà giỏi công nghệ và thương mãi, để đi kiếm ăn xa được.
C. Bất tương đồng Hoa Việt
I. Đối xử với các trào đại địch
Sử gia Nguyễn Phương cứ nhấn mạnh mãi về những tương đồng giữa Việt và Trung Hoa để kết luận rằng ta là Tàu. Đó là tương đồng vay mượn. Chúng tôi sẽ có một chương lớn về dấu vết Mã Lai trong xã hội Việt Nam ngày nay. Nhưng trước khi trình các chứng tích đó và muôn ngàn chứng tích khác như là việc đo sọ, việc đối chiếu ngôn ngữ Hoa-Mã-Việt, chúng tôi nghĩ rằng cần thêm một chương cho những bất tương đồng lớn lao giữa Hoa và Việt để thấy rằng muốn tìm sự thật lịch sử thì cần khách quan chẳng những làm một biểu danh sách tương đồng, lại còn phải bổ túc công việc bằng biểu danh sách bất tương đồng nữa để mà cân nhắc.
Vả lại, như đã nói, những tương đồng mà sử gia nêu ra, toàn là tương đồng giả, tức nó chỉ là vay mượn mà thôi.
Riêng về những bất tương đồng, chúng tôi sẽ chỉ kể những điểm lớn, chớ chuyện vặt thì bỏ qua, chẳng hạn y phục của ta có bao giờ giống y phục của Tàu hay không, đó là điểm người khác thường đưa ra để cãi với sử gia nhưng chúng tôi bỏ qua hết vì sử gia có thể bảo rằng tại người Việt gốc Hoa họ ăn mặc khác người Hoa là để thích nghi với khí hậu.
Càng chứng minh được rằng Việt không là Trung Hoa, thì sự chứng minh Việt là Mã Lai, càng được củng cố hơn lên.
Chúng tôi chỉ còn những mối bất tương đồng lớn lao, còn bao nhiêu cái khác nhau lặt vặt giữa Trung Hoa và ta, chúng tôi bỏ quên đi hết bởi một khi chủng tộc chia thành hai dân tộc thì họ có thể làm khác nhau chút ít, những sự khác nhau nhỏ mọn đó, không chứng tỏ được cái gì, chí như những thứ khác biệt căn bản thì lại là chuyện khác rồi.
*
* *
Thắng xong Chiêm Thành lần cuối cùng vào năm 1633, ta không trực trị họ, biến xứ Panduranga thành trấn Thuận Thành, nhưng viên trấn thủ vẫn cứ là người Chiêm Thành. Đó là một người trong quý tộc Chiêm thành hợp tác với ta và lấy tên họ Việt Nam.
Tình thế đó cứ kéo dài như vậy trên hai trăm năm, có lần họ theo Tây Sơn để đánh lại chúa Nguyễn, nhưng sau đó, dẹp Tây Sơn rồi, chúa Nguyễn chỉ thay đổi quan trấn thủ mà thôi, cũng cứ là một người trong quý tộc Chiêm Thành thân Việt, chớ không hề trừng phạt dân chúng bằng cách trực trị. Cho tới năm Lê Văn Khôi nổi loạn tại Gia Định, viên trấn thủ Chiêm Thành theo Lê Văn Khôi, sau đó Khôi bị dẹp rồi, vua Minh Mạng mới trực trị trấn Thuận Thành. Vua Minh Mạng thấy rằng như thế là dòng Chiêm Thành bị dứt hẳn nên có lập đền thờ các vua Chiêm Thành bên bờ sông Hương, gần chùa Thiên Mụ, đúng theo truyền thống các vua chúa ta, hễ một trào đại diệt một trào đại khác rồi thì lập đền thờ ngay, đó là giữ đạo thờ cúng tổ tiên hộ kẻ bị tuyệt tự. Truyền thống nầy bên Trung Hoa chẳng những không có mà trái lại, bên ấy mỗi lần một trào đại lên là đốt cung điện và thái miếu, quật mồ của trào đại trước, họ cố ý mà làm thế, vì lý do tôn giáo: họ tin rằng làm như thế tức là phá cái phong thủy tốt của địch, phong thủy tốt ấy mà bị tàn phá rồi thì địch không bao giờ cất đầu lên được nữa cả.
Hạng Võ đã nói láo khi rêu rao rằng nhà Tần xa xỉ hại dân, nên cần đốt cung điện Tần. Nhưng đốt xong rồi thì Hạng Võ, rồi tới các vua nhà Hán lại xây cất cung điện khác, hóa ra dân mắc họa đến hai lần. Sự thật, đó là chiến thuật phá phong thủy của địch.
Ta không có làm như thế, đời vua nào cũng vậy, mà còn trái lại nữa. Nguyễn lập đền thờ các vua Lê, Lê lập đền thờ Trần, Trần lập đền thờ Lý, hơn thế Nguyễn còn lập đền thờ Chiêm Thành, là ngoại tộc nữa.
Ai cũng nói rằng các vua chúa ta nô lệ Trung Hoa về nghi lễ và phong hóa. Thật ra thì vua chúa ta xưa chỉ bắt chước tới mức nào đó thôi, nhưng vẫn làm khác, theo tình cảm của dân tộc và vấn đề đối xử với các trào-đại-địch nói trên là một bất tương đồng rất quan trọng, bởi ta cũng tin nhảm về phong thủy như Tàu, nhưng vua chúa lại không nỡ làm như vua Tàu thì hẳn ta không phải là Tàu, không còn cãi vào đâu được nữa.
Tới đây ta lại tự hỏi tôn giáo thờ cúng tổ tiên có thật quả là tôn giáo hay không, hay Tàu vay mượn của ta. Hiện miền Nam còn có một triệu người Tàu mà chúng tôi sống giữa một khu phố toàn là Hoa kiều ở Cầu Ông Lãnh, chúng tôi lại giao thiệp với người Tàu Chợ Lớn rất thường. Thế mà vào nhà họ, chúng tôi không bao giờ thấy họ có bàn thờ tổ tiên, trong khi đó thì trong các gia đình Việt, bàn thờ tổ tiên chiếm vị trí sang trọng nhứt, lại dùng đồ thờ cúng mắc tiền nhứt. Người nghèo dám hy sinh cơm áo để sắm bộ lư đồng, để đóng một cái bàn thờ bằng danh mộc khảm xà cừ, còn người Tàu thì tuyệt đối không có bàn thờ tổ tiên.
Họ cũng không có cúng kiến tổ tiên, không hề làm đám giỗ như ta, trong khi mỗi ngày họ cúng đến hai ba lần những thánh thần bá vơ nào đó, cúng cả mùa màng thời tiết nữa, như cúng Hạ chí, Đông chí, Xuân phân, Thu phân, thần cửa, thần bếp, thần cầu xí, thần tài, cúng cả một người đàn bà bá vơ là bà Thiên Hậu.
Đó là sự thật mà chúng tôi thấy tận mắt từ 50 năm nay, tại miền Nam nước Việt. Còn đây là sự thật tìm thấy trong sách Tàu.
Xét tôn giáo của Trung Hoa cổ thời, không thấy nói có việc thờ cúng tổ tiên trong dân chúng bao giờ. Sách Lễ ký, thiên Khúc lễ hạ chép: “Thiên tử thờ cúng trời đất, thờ cúng bốn phương (thần đất tại địa phương), thờ cúng ngũ tự; đại phu thờ cúng ngũ tự; kẻ sĩ thờ cúng tổ tiên”.
Không có nói đến lê thứ, tức lê thứ không có thờ gì hết mà cũng không được dạy cho thờ gì hết.
Ông H. Maspéro bắt được tài liệu cho biết rằng lê thứ cũng thờ thần đất đai với các lãnh chúa, cho tới cuối đời Chu thì các lãnh chúa diệt nhau, trở thành quá lớn về đất đai, quá xa dân chúng nên dân chúng cũng không còn đi theo các lãnh chúa được để mà tế lễ thần đất đai ấy. Thế rồi họ bỏ luôn việc thờ cúng, không có cái gì khác thay thế cho nữa cả, cho đến khi Lão giáo tổ chức hẳn với hệ thống tế lễ rồi thì dân chúng mới lại có tế lễ nữa.
Câu trên đây không có ý nói rằng thiên tử, chư hầu và đại phu không thờ cúng tổ tiên nhưng lại cho thấy rõ rằng dân chúng không thờ cúng tổ tiên.
Nhưng dân chúng Việt Nam lại thờ cúng tổ tiên, dân chúng Chàm cũng thế (nhưng không quá quan trọng như Việt Nam).
Việc đối xử với các trào đại địch của vua chúa ta, và việc thờ cúng tổ tiên cho thấy rõ hai điều:
1. Tôn giáo thờ cúng tổ tiên là của ta chớ không phải của Tàu, và kẻ vay mượn là Tàu chớ không phải Việt.
2. Ta không phải là Tàu, chính vì ta trọng cả tổ tiên của địch trong khi Tàu thì đào mồ cuốc mả của địch.
II. Không chôn sống người
Cuộc khai quật kinh đô Trào Ca của vua Trụ năm 1934 ở An Dương (Hà Nam) đã cho bằng chứng không thể chối rằng các vua chúa Trung Hoa chôn sống cung phi và nô bộc theo họ.
Có lẽ quan to của họ cũng đã làm như vậy. Tục ấy mãi cho tới đời vua Minh Hiếu Tông mới thấy sử nhà Minh nói là được bãi bỏ vĩnh viễn.
Vua chúa và quý tộc Việt Nam không hề tàn nhẫn như thế bao giờ.
Chỉ có một ông vua ta, vua Lý Nhân Tôn là đã chôn sống Hoàng hậu và 72 cung phi, nhưng không chôn theo ông ấy, mà chôn lúc ông ấy mới lên ngôi, chôn để trừng trị tội âm mưu của họ, bà Hoàng hậu ấy không phải là vợ của ông mà là vợ chánh của vua cha, còn ông là con của vợ thứ. Mẹ ông là Ỷ Lan phu nhân bị ngược đãi vì ghen tuông, bị đày ải, nên ông mới báo oán mạnh tay như thế. Nhưng kẻ bị chôn sống cũng chôn ở đất hoang dã nào chớ không phải là chôn chung trong mộ phần của vua cha là Lý Thánh Tôn. Đó là xử tử tội nhân chớ không phải chôn oan vì lý do tôn giáo như Tàu.
Nhưng đó là trường hợp độc nhứt, không tiền khoáng hậu trong sử ta.
III. Bí mật phòng trung
Hai chủng tộc khác nhau, có thể vay mượn đủ thứ của nhau, không trừ thứ nào hết, nhưng trừ một món. Đó là những bí mật phòng trung.
Chuyện bí mật phòng trung là chuyện mẹ nói với con, ngoài ra không ai có thể biết được hết, kể cả người trong họ.
Như vậy bí mật phòng trung là chứng tích chắc chắn hơn hết để phân biệt các dân tộc, họ giống nhau về gì thì giống nhưng cứ khác nhau về những việc mà họ không thể biết được để mà vay mượn.
Câu chuyện dưới đây, không lấy ở sách vở nào ra hết, nhưng quý vị có thể kiểm soát bằng một cuộc điều tra kín đáo.
Một bà đỡ thường đi tiếp sanh cho phụ nữ bình dân Tàu, có cho biết rằng họ luôn luôn ngồi để đẻ con vào trong một cái chậu bằng gỗ (lâm bồn), ngăn thế nào cũng không được. Họ chỉ rước bà đỡ lấy lệ để nhờ khai sinh cho con họ thôi, vì họ rất ngại chầu chực cửa công về thủ tục (dĩ nhiên là không kể phụ nữ theo lối mới, đi nhà hộ sinh, chịu theo phương pháp khoa học).
Người đàn bà Việt Nam quê mùa nhứt, cũng chẳng bao giờ đẻ như vậy, mà nhờ bà đỡ thật sự, không có bà đỡ thì họ nhờ các bà mụ vườn, dầu sao, họ cũng không hề để cho tạo hóa tự làm việc ấy, và họ nằm trên giường cho bà mụ tiếp sanh. Nhà nghèo rớt mồng tơi, ông chồng cũng bỏ công ra tạo cho vợ một cái giường đẻ bằng tre với một cái vạt giường hẳn hoi.
Xem ra thì sau non ba ngàn năm người Tàu chỉ tiến bộ có một bước rất ngắn mà thôi. Sử Tàu chép rằng mẹ của Khổng Tử cũng đã đẻ ra ngài y hệt như phụ nữ Trung Hoa ngày nay, tức ngồi mà tự đẻ trên một cái vịm (bồn) bằng đất nung.
Họ có tiến bộ là ngày nay họ đẻ trong nhà, trên một cái thùng gỗ, còn bà Khúc Lương Ngột thì phải vào hang núi mà đẻ vì người Tàu xưa cho rằng máu đẻ là xú khí làm ô uế ngôi nhà.
Và cái thùng gỗ cũng giúp cho đứa trẻ ít đau đầu hơn là vịm bằng đất nung của thời xưa.
Đó là bí mật phòng trung mà không nhà khảo cứu nào ngờ đến, và còn nhiều bí mật phòng trung khác nữa, mà chúng tôi không dám chép ra đây, tất cả đều chứng minh rằng ta và Tàu khác nhau quá xa về phong tục.
Hai chứng tích trên đây, có thể coi là chứng tích quyết định, bởi đó là chuyện kín mà dân tộc nầy khó lòng mà bắt chước dân tộc khác, bởi không thấy được phong tục kín của họ, không có tánh cách phổ biến, để người khác vay mượn. Đó là của riêng của một chủng tộc. Chủng tộc khác không thể có được.
IV. Cái gối
Người Trung Hoa nằm gối gỗ, gối tre, gối sành, nhà giàu thì nằm gối bằng sứ Giang Tây. Tưởng trên thế giới, không có dân tộc nào mà có thói quen gối đầu bằng vật cứng như vậy, giữa thành phố, giữa làng mạc. Người khác chỉ bắt buộc phải gối như thế khi nào lạc bước giữa rừng mà thôi.
Nhà nghèo của ta cũng được nằm gối rơm, tức gối may bằng đệm, bên trong dồn trấu.
Và đây là một bí mật phòng trung nữa, có thể nói ra được, là phụ nữ Trung Hoa dùng đến hai chiếc gối đầu chớ không phải một, vì mái tóc của họ búi quá công phu, và tốn tiền (phải nhờ thợ) nên các phụ nữ giàu có cũng sợ hư, luôn luôn để lọt búi tóc giữa hai chiếc gối đầu làm bằng vật liệu cứng, vì vật liệu mềm có thể bị đè bẹp, phình ra, lấn vào trong, chạm phải búi tóc.
V. Nuôi con
Người bình dân Trung Hoa cho con họ ăn cơm ngay sau khi sanh chúng nó ra, mà không nhai để mớm, không nghiền, không tán như ta, cứ để y nguyên hột cơm, đút từng hột cho một đứa bé mới chào đời chỉ có hai ngày thôi (dĩ nhiên là cứ không kể đến những phần tử theo vệ sinh Âu châu).
Người mình, có quê mùa dốt nát tới đâu, cũng chỉ cho con ăn cơm sau tháng đầu mà thôi, mà đó là cơm do các bà mẹ nhai rồi mớm cho con, chớ không phải cơm nguyên hột.
VI. Mặc quần, đội nón, dùng khăn
Người đàn ông Trung Hoa mặc quần trước đời Hán. Đàn ông Việt Nam thì cho đến đời Ngũ Đại, chưa mặc quần (theo Annam chí nguyện của Cao Hùng Trưng). Có lẽ họ mặc sà rong như hầu hết người Mã Lai ngày nay.
Nhưng cứ bằng vào thuyết của sử gia Nguyễn Phương thì vào thời Ngũ Đại, người Tàu đã tràn ngập xứ nầy rồi, không còn người Lạc Việt nữa, thì sao đám người Tàu ấy lại không mặc quần thì thật khó hiểu.
Nông dân Hoa kiều ở miền Nam luôn luôn đội nón đan bằng máy và từ chối nón lá của nông dân ta. Cái nón mây của họ cũng khác nón mây của phu phen Hoa kiều ở thành phố. Nón có khoét lỗ ở giữa, đầu người đội nón phơi gần trọn vẹn dưới nắng. Họ chỉ cần che mắt, che mặt, chớ không che đầu.
Họ vẫn có khăn như ta, nhưng không dùng để chít đầu mà dùng về đủ thứ việc. Đó là khăn ích bụ, hình chữ nhựt, ba tấc Tây, trên tám tấc. Dầu sao khăn cũng là một món y phục của họ, sự kiện ấy cắt nghĩa sự hiện diện của danh từ Cân trong ngôn ngữ của họ, nhưng lại đồng thời chứng minh rằng họ dùng khăn khác ta quá xa. Ta dùng khăn để chít đầu, còn họ thì dùng khăn như Tây dùng cái tablier.
Khoa dân tộc học ngày nay thiên về quan sát cảnh đang sống của các dân tộc hơn là nghiên cứu sách vở và những gì chúng tôi nói ra trong chương phong tục nầy, đều là những ghi nhận quan sát tại chỗ từ non nửa thế kỷ nầy, nhứt là về cái khăn của người Trung Hoa.
Có thế nào người Trung Hoa sang đây rồi nhiễm phong tục man di, bỏ mũ, chít khăn hay không? Về lý thuyết thì rất có thể, nhưng theo thực tế thì không, bằng vào những quan sát tại chỗ ghi chép trên đây.
Họ không nhiễm tục man di vì tự tôn mặc cảm văn minh hơn ta, mà cũng vì những tục ấy không đem lại cho họ tiện lợi nào hơn trong đời sống của họ hết. Chít khăn không lợi hơn đội mũ chút nào cả.
VII. Dâm phong
Cả hai bộ sách viết cách nhau 1.400 năm, Hậu Hán thư của Phạm Việp và Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán đều chê nước ta nhiều dâm phong. Mặc dầu họ dùng danh từ sai bét, sự kiện họ tả rất đúng sự thật, và sự thật đó chỉ xảy ra ở xứ ta chớ không xảy ra ở bên Tàu trước năm 1911.
Thầy chùa Thích Đại Sán viết: “Kinh Lễ định phu phụ hôn nhơn, nam lo việc ngoài, nữ lo việc trong. Phong tục nước Đại Việt lại trái hẳn, phụ nữ tự do qua lại mua bán, cha mẹ chồng con chẳng lấy thế làm xấu hổ, hiềm nghi”.
Y cho đó là dâm phong.
Trai gái lấy nhau, không theo nghi lễ Tàu, cũng bị Hậu Hán thư cho là dâm phong.
Dầu sao, đó cũng là bằng chứng ta khác họ. Cho tới năm 1911, bên Tàu, đi chợ mua ăn, cũng là đàn ông đi, còn nữ thì khuê môn bất xuất.
Họ gán sai cho ta phong tục dâm dật, đành thế; nhưng sự kiện hiển nhiên là phong tục ta khác họ quá xa, gái tự do đi đứng, không bị nhốt theo lời dạy của Kinh Lễ đời Chu, mặc dầu ta học Kinh Lễ rất thuộc bài.
Thế thì còn gì sự tương đồng giữa phong tục gốc của hai dân tộc?
Mãi cho đến ngày nay mà trong Chợ Lớn, kẻ đi chợ mua ăn cũng cứ là đàn ông Tàu, chớ không phải đàn bà, mặc dầu người ở đây đã chịu ảnh hưởng Tây phương nhiều lắm rồi.
Tưởng sử gia Nguyễn Phương nên đi du lịch ở nước Tân Gia Ba một chuyến mới được. Ở đó dân Hoa kiều tới đông, đẩy người bổn xứ thành thế thiểu số, rồi dựng lên quốc gia Tân Gia Ba, y hệt như cái nước Giao Chỉ của Đinh Bộ Lĩnh mà sử gia đã tưởng tượng ra (nhưng thật ra thì không đúng sự thật).
Sử gia sẽ thấy rằng toàn dân Tân Gia Ba đều nói tiếng Tàu giọng Phúc Kiến.
Rồi sử gia về Sài Gòn, nghe lại xem dân Huế, dân Sài Gòn có nói tiếng Tàu giọng Phúc Kiến, Quảng Đông hay chăng. Sử gia quả quyết rằng dân Việt Nam cũng nói tiếng Tàu.
Rồi mời sử gia đọc chương Ngôn ngữ tỷ hiệu ở sách nầy mà xem, sử gia sẽ thấy rằng dân ta nói tiếng Mã Lai, kể cả sử gia cũng nói tiếng Mã Lai nữa.
Trong câu ngắn sau đây: “Ta lấy nỏ bắn chim, làm rụng lá”, cả tám tiếng đều là tiếng Mã Lai đấy, tiên sinh ạ!
D. Nước Tây Âu mơ hồ và Tượng Quận bí mật
Ở chương “Nam Việt, một đợt thực dân dọn đường”, sử gia Nguyễn Phương trích Tư Mã Thiên cho rằng Tần Thỉ Hoàng đã đưa côn đồ tù tội đến Tượng Quận để đẩy dân bổn xứ vào thế thiểu số.
Ba nhà bác học H. Maspéro (1918), L. Aurousseau (1923) và Trần Kinh Hòa (1960) đã cố chứng minh rằng nhà Tần có đánh và đã chiếm được Cổ Việt, và Tượng Quân đích thị là Tây Âu và Cổ Việt.
Câu sử về trồng người của Tư Mã Thiên được rất nhiều cổ thư khác xác nhận và ta có thể xem là đúng sự thật. Nếu thuyết của hai ông Tây và ông Tàu mà đúng thì hóa ra thuyết di cư ồ ạt của sử gia Nguyễn Phương được củng cố thêm rất mạnh, dựa vào Tư Mã Thiên và ba ông kia.
Thật vậy, nếu:
Tây Âu = Cổ Việt Nam
Tượng Quận = Cổ Việt Nam
Mà: Tần Thỉ Hoàng trồng người ở Tây Âu và Tượng Quận.
Thì: Thuyết Nguyễn Phương rất đúng.
Nhưng các ông Tây và ông Tàu đều sai.
Có một môn học rất quan trọng đối với cổ sử học, đó là môn địa lý cổ thời. Nhưng xem ra người Trung Hoa và ta, rất mơ hồ về môn đó.
Các sử gia ta xưa coi thường khoa địa lý cổ thời quá sức nên gây rối trong sử học, và tinh thần đó, tới nay còn sống sót trong quá nhiều cuốn sử.
Viết về quan mục tên là Chu Ngang (178 S.K.) tham nhũng nên dân nổi loạn, nhà danh nho Lê Văn Hưu, tác giả Đại Việt Sử Ký, than: “Những viên thứ sử Tàu không có nết thanh liêm, làm cho (dân ta) khốn đốn, đất Bắc Kinh xa thẳm, không còn kêu vào đâu được”.
Ấy, làm gì kêu với Bắc Kinh được vào năm đó, vì thành Bắc Kinh, cho tới 1086 năm sau, mới được xây cất:
Không ai buồn tìm nước nầy ở đây, nước kia ở chỗ nào và bằng mấy mươi quyển sử lớn đều cho rằng Tây Âu là nước Việt Nam và Tượng Quận nằm trong đó, bởi sử Tàu gọi là dân Tây Âu bị Tàu đánh là dân Việt.
Họ quên mất rằng có tới Bách Việt lận, và khi mà Tàu nói đến Việt, không hẳn nói đến ta.
Các ông Tây cẩn thận hơn, nhưng vì các ông làm việc cho vấn đề Tây Âu và Tượng Quận sai nguyên tắc khoa học, nên rồi không ai định được vị trí của Tây Âu, Âu Lạc và Tượng Quận cho đúng hết.
Vị trí Tây Âu và Tượng Quận bị sử Tàu, sử Việt lầm nát hết, nhưng mỗi sách lầm một cách khác.
Nhà Tần diệt ba quốc gia, xin nhớ là ba chớ không phải bốn, là Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu, rồi chia các quốc gia đó thành quận, huyện. Ở Đông Âu và Mân Việt thì rõ ràng, còn ở Tây Âu thì rối nùi.
Mà sở dĩ có rối ren ở Tây Âu là tại Chu Khứ Phi và Cố Hy Phùng nói bướng rồi ta và Tây lặp lại, chớ cổ sử Tàu thì rất rõ ràng, nhưng không ai chịu đọc kỹ hết.
Sử Tàu chép rằng họ chia nước Tây Âu thành ba quận: Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận.
Nên nhớ, họ chỉ chia nước thứ ba mà họ chiếm được thành ra ba quận, chớ không hề chia nước thứ tư vì cái lẽ giản dị là họ không có chiếm được cái nước thứ tư đó.
Nhưng các ông lại lầm lẫn thô sơ mà cho rằng cái nước thứ ba ấy là nước của ta.
Một cậu học trò lớp dự bị mà thông minh cũng biết được rằng không thể nào mà nước Tây Âu là nước của ta, khi cậu ấy thấy mấy cái quận trong đó. Nội một quận Nam Hải không mà thôi, tức tỉnh Quảng Đông nay, cũng đã to hơn nước của vua Hùng Vương và vua An Dương Vương rồi, thì nước ta làm thế nào mà chứa nổi đến ba cái quận khổng lồ là Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận được?
Nhưng các ông cứ tin là thế vì các ông tin rằng nước của vua Hùng và vua An Dương Vương to lắm, ăn lên tới trên xa, và hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây là của ta (thế nên Nguyễn Huệ mới định đòi lại hai tỉnh đó).
Vậy, nay ta học lại một cách khoa học xem Lưỡng Quãng có phải là của ta hay không, mặc dầu có tới một trăm bằng chứng rằng nước của vua Hùng Vương chỉ là Bắc Việt nay mà thôi.
Nam Hải là tỉnh Quảng Đông ngày nay, Quế Lâm là tỉnh Quảng Tây ngày nay mà cổ dân còn sống sót ở đó đến ngày nay: đó là người Thái. Như thế, nếu có bí, có lầm thì chỉ lầm về Tượng Quận mà thôi. Ấy thế mà bao nhiêu học giả danh tiếng lại cứ nói và cứ cố chứng minh rằng nước Tây Âu là cổ Việt Nam.
Trước hết, xin nói rõ rằng Tàu gọi nước đó là Tây Âu, mà không hề gọi Cổ Việt Nam là nước Tây Âu. Vậy là có hai nước chớ không phải là một. Còn dân? Ở một chương sau chúng tôi sẽ trưng bằng chứng dân Tây Âu là dân gì, thuộc chủng nào, hiện nay tồn tại hay không. Họ tồn tại và không phải là Việt Nam, vì thế mà Tàu mới chỉ họ bằng tự dạng Việt bộ Mễ còn chỉ ta bằng tự dạng Việt Vượt.
Người Việt lầm thì còn hiểu được vì trong ngôn ngữ ta Việt nào cũng viết như nhau, chí giáo sư đại học Trần Kinh Hòa là người Trung Hoa, lại cũng lầm thì thật là khó hiểu, khi mà cổ sử Tàu viết hai chữ Việt khác nhau. Tây Âu hay Âu Việt viết với tự dạng thứ nhì, còn Việt Nam thì viết với tự dạng thứ ba và thứ tư, thì làm thế nào mà
Tây Âu = Cổ Việt Nam
cho được.
Nhưng ta tạm dẹp Tây Âu lại, để nói về Tượng Quận trước đã.
Chính trí thức Tàu những đời Đường, Tống, Minh, Thanh cũng chẳng biết Tượng Quận ở đâu, chỉ biết rằng nó là phần đất thứ ba của nước Tây Âu, sau hai đất Nam Hải và Quế Lâm.
Vì không biết nên họ gán ghép liều. Thoạt tiên, một ông Tàu, Cố Hy Phùng, cho rằng Tượng Quận là Nhựt Nam. Nhưng viết liều như vậy đã là tạo ra một mâu thuẫn lớn quá rồi, nhưng không hiểu sao cứ sách nầy chép lại sách khác y hệt như vậy mà truyền cho tới ngày nay.
Quả thật thế, trong việc phân chia đó, ta không thấy có mặt Giao Chỉ và Cửu Chơn, Nam Hải là Quảng Đông, Quế Lâm là Quảng Tây. Thế nhà Tần có chiếm Giao Chỉ, Cửu Chơn hay không? nếu có thì hai nơi đó biến đi đâu mà không có mặt trong cuộc phân chia thành quận, huyện?
Bằng như không có chiếm thì làm thế nào nhà Tần lại chiếm Nhựt Nam ở dưới xa, để đặt thành Tượng Quận?
Các ông Tàu không bao giờ suy luận như vậy hết. Các ông Việt cũng thế. Các ông Tây thì biết, nhưng suy luận xong, các ông Tây bí quá. Làm thế nào mà không có chiếm Giao Chỉ lại chiếm được Nhựt Nam để đặt tên là Tượng Quận, trong khi nhà Tần chưa có thủy quân đáng kể?
Các ông Tây không dám bịa là An Dương Vương đã cho nhà Tần mượn đường để đi chinh phục Nhựt Nam, vì sử Tàu không có chép điều ấy. Vả lại đó là một giả thuyết quá vô lý. Tần Thỉ Hoàng tham bạo như vậy thì không thể nào y tha cho An Dương Vương, chỉ mượn đường mà thôi
Đang bí, các ông Tây rất vui mừng mà gặp tay Tống Nho Chu Khứ Phi gỡ rối cho các ông.
Chu Khứ Phi viết rằng: Tượng Quận = Giao chỉ
Hẳn họ Chu thấy các sử trước lầm một cách quá lộ liễu nên dời Tượng Quận lên trên. Mà như vậy lại càng chứng tỏ rằng không ai biết Tượng Quận ở đâu cả, mạnh ai nấy bịa.
Đến đời nhà Lê của ta thì Ngô Sĩ Liên đã điên đầu rồi nên hòa giải bằng cách cho rằng Tượng Quận là xứ Annam, ông không dại mà nói quá rõ cho sai, ông ngỡ gộp lại như thế thì không còn làm sao mà sai được, lại hữu lý hơn ông Tàu là Cố Hy Phùng nhiều lắm.
Đến trào Nguyễn, các quan viết Khâm Định Việt Sử, thấy rằng vẫn cứ còn lôi thôi về Tượng Quận nên lại phịa thêm ra nữa là Tượng Quận vốn là đất của bộ Việt Thường trước đời Tần, bộ nầy nhà Tần hợp với Cửu Chơn làm ra Tượng Quận.
Đó là dựng đứng lên cả một cái xứ, chớ cổ sử Trung Hoa chỉ nói đến thị tộc Việt Thường, mà như vậy là tên dân chớ không phải tên xứ và tên bộ nào hết, nhưng họ cũng không biết dân đó ở đâu, chỉ thấy dân đó tới cống cho vua Chu Thành Vương nhưng vua ấy không nhận lễ vì Hoa chủng và thị tộc đó chưa hề giao hiếu với nhau lần nào.
Đến cuối đời Đường, một huyện ở Hoan Châu (Nghệ An, Hà Tĩnh) mới được mang một tên mới, là huyện Việt Thường, người đặt tên chỉ đặt phất phơ, chớ không phải là dựa vào sử liệu nào cho biết Nghệ An nay là Việt Thường xưa. Vả lại nếu Tượng Quận là Nghệ An thì Giao Chỉ biến đi đâu chớ, trong việc phân chia thành quận, huyện dưới đời Tần?
Chính Tư Mã Thiên cũng không biết thị tộc Việt Thường ở đâu nên chi ông viết rằng dân ấy muốn về nước, phải đi ngang qua nước Phù Nam, rồi nước Lâm Ấp.
Cứ theo cái hướng mà Tư Mã Thiên chép thì trên lộ trình của dân Việt Thường, họ gặp Phù Nam trước, mà như vậy thì nước Tàu phải ở… bên Tây. Nhưng làm thế nào mà nước Tàu lại ở bên Tây được?
Vào thời Tư Mã Thiên thì người Tàu đã biết Phù Nam và Lâm Ấp rồi, thế mà nhà sử lớn của họ còn sai lầm lớn lao như vậy thì hẳn không ai biết Việt Thường ở đâu. Nhưng Tư Mã Thiên chỉ không biết chớ không có bịa.
Chính người đời sau là Trịnh Tiều mới bịa rằng câu chuyện ấy xảy ra dưới đời Nghiêu Thuấn và cũng được rất nhiều sách ta chép lại.
Tóm lại, không có xứ Việt Thường nào cả, còn dân Việt Thường mà Tư Mã Thiên nói đến thì không ai biết họ ở đâu, kể cả Tư Mã Thiên.
*
* *
Nước Tây Âu và nước Âu Lạc cũng nát bét vì các ông Tàu, ông Việt, ông Tây.
(Thật ra thì đó là các ông Tàu đời sau nói sai, chớ các ông đời Hán có cho biết đúng sự thật).
Dư địa chí của Cố Hy Phùng lại khẳng định rằng Tây Âu = Giao Chỉ.
Đại Việt Sử Ký và Khâm Định Việt Sử thấy cái gương Tượng Quận đã hoảng rồi, nên tránh nói đến địa danh Tây Âu, mặc dầu đó là quốc gia hùng mạnh nhứt ở đất Ngũ Lĩnh vào thuở ấy, đương đầu với quân nhà Tần suốt ba năm và làm cho nhà Tần điêu đứng và giết được Tổng tư lệnh của quân đội Tần nữa (Hoài Nam Tử).
Ngô Sĩ Liên hơi can đảm một tí, dám nói đến địa danh Âu Lạc nhưng lại cho đó là quận Thương Ngô, một quận mà các sách đời Hán đã cho biết một cách đích xác rằng nằm giữa Quảng Tây và Vân Nam, ở trên lằn mức Phiên Ngung, tức hoàn toàn ở bên Tàu, chớ không dính líu gì tới sông Nhị Hà và thành Cổ Loa cả. Nhưng sau khi nói như vậy, ông liền viết ngay tức khắc một điều rất là mâu thuẫn: Lộ Bác Đức để nguyên hai quận Giao Chỉ và Cửu Chơn (tức Âu Lạc) nhưng lại lập ra ngay một quận mới là Thương Ngô.
Cái mới là kỳ dị! Âu Lạc là Thương Ngô ở dòng trên thì tại sao dòng dưới Âu Lạc còn nguyên vẹn, mà lập thêm được Thương Ngô, với đất nào? Nếu với đất khác thì Âu Lạc không phải Thương Ngô, còn như xén đất của Âu Lạc, làm gì có được sự kiện để nguyên Âu Lạc?
Các sử gia ta xưa đều có đọc sử Tàu, cũng biết phê phán, biết sử dụng sử liệu khá đúng cách, nhưng không hiểu sao về giai đoạn Tần – Hán thì các ông lại quá bê bối.
Thí dụ về đảo Hải Nam, năm 111 T.K., Lộ Bác Đức không bao giờ đánh chiếm được đảo Hải Nam cả, sử nhà Hán đã thú nhận như thế, đảo đó, sau năm 50 mới bị đánh lại lần nữa và mới chiếm được.
Ngô Sĩ Liên và Ngô Thì Sĩ viết rằng nhà Hán diệt Triệu Đà rồi thì chia phương Nam làm 9 quận, trong đó có Châu Nhai, Đam Nhỉ (Hải Nam).
Sự thật thì nhà Hán chỉ chia phương Nam ra thành 7 quận mà thôi vì Hải Nam chưa chiếm được, có đâu để làm 9 quận?
Tới cai trị ta, các nhà Nho Tây đọc sử Tàu và sử ta, quá nhức đầu về những cuộc trống đánh xuôi kèn thổi ngược về địa danh, nó rất trái với tinh thần thích biết đích xác của họ, nên họ đi tìm. Nhưng họ vẫn hoàn toàn thất bại, vì hai nhà Nho Tây làm cái công việc đó, lại thiếu căn bản khoa học.
Sử gia Nguyễn Phương không hề có nói rằng mình hiểu như các ông Tây. Nhưng ông trích câu sử của Tư Mã Thiên về việc trồng người làm gì? Nếu không có mục đích ngầm chứng minh bằng tài liệu Tư Mã Thiên, qua trung gian của H. Maspéro và L. Aurousseau.
Ở đây chúng tôi chỉ bác bỏ các ông Tây và các ông Tàu là đủ rồi, như sử gia Nguyễn Phương có hậu ý chứng minh qua trung gian hai ông Tây thì sử gia sẽ bị bác bỏ gián tiếp vậy.
*
* *
Tưởng nên nói đến ông H. Maspéro trước vì ông là người phất cờ tiên khởi đi tìm Tượng Quận, Tây Âu và Âu Lạc năm 1918, rồi sau đó thì một trận bút chiến nổi lên, vô cùng sôi động giữa các nhà bác học Pháp, Hoa, Nhật, Việt. Người xưa viết sai thì êm rơ, còn người nay thì bị rầy rà. Nhưng tất cả những ông kể trên đây, cự nhau dữ lắm mà rốt cuộc ông nào cũng sai, lại còn làm rối loạn hơn cổ nhân nữa, thế nên ta lại phải xét lại từ người cổ đến người kim.
Có đến hai Tượng Quận, Tượng Quận thứ nhứt do nhà Tần đặt ra, Tượng Quận thứ nhì là Tượng Quận đời Hán, cũng đã tách làm đôi Tượng Quận đời Tần, phía dưới, vùng giáp ranh Giao Chỉ, đặt tên là quận Thương Ngô, phía trên, giữ tên cũ là Tượng Quận. Nhưng cái Tượng Quận đời Hán nầy thì vài mươi năm sau bị nhập vào Quý Châu và Quảng Tây, tức bị bỏ luôn.
Ai muốn biết rõ những cổ thư nào đã cho biết đích xác như vậy, xin xem bộ tạp chí Lục đồng biệt lục xuất bản tại Tứ Xuyên, bộ 1946 thì rõ.
Trong trận thế chiến thứ II, Tưởng Giới Thạch chạy vào đó để kháng Nhựt, trí thức Trung Hoa cũng chạy theo và những tạp chí văn hóa lớn đều xuất bản ở Tứ Xuyên. Nhà bác học Trung Hoa Lão Cán đã nghiên cứu kỹ về hai Tượng Quận đó, bằng vào các cổ thư Trung Hoa đời Hán.
Thế mà các nhà nho ta, thuộc làu Bắc sử, sao cứ cho là Tượng Quận = Giao Chỉ.
Xét ra thì lý do lầm lẫn nầy bắt nguồn ở hai nghĩa khác nhau của danh xưng Giao Chỉ. Lộ Bác Đức diệt nước Nam Việt của Triệu Đà rồi thì gộp tất cả các thuộc địa mới ở vùng đó lại và gọi chung tất cả các nơi là Giao Chỉ.
Tượng Quận quả thật ở trong cái Giao Chỉ đó. Nhưng đến đời Tam Quốc thì Tàu tách đặt Giao Chỉ ra làm hai, phần trên lấy tên là Quảng Châu, phần dưới là Giao Châu. Trong Giao Châu có Giao Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chơn và Nhựt Nam.
Các sử gia nói rằng Tượng Quận ở trong Giao Chỉ thì đúng, nhưng mà quên mất rằng cái Giao Chỉ ấy có cả Lưỡng Quãng và một phần Quý Châu trong đó, cứ bị ám ảnh rằng Giao Chỉ thứ nhứt ấy cũng cứ là Bắc Việt.
Có người còn có cảm giác rằng Lưỡng Quãng cũng là của Hùng Vương và An Dương Vương nữa thì Giao Chỉ I hay Giao Chỉ II cũng đều là của ta. Nhưng rồi ta sẽ thấy rằng Lưỡng Quãng là của dân khác và danh xưng Giao Chỉ I không có trỏ Cổ Việt Nam.
Đời Tam Quốc tách rời ra làm hai, rất có lý do, vì hai thứ dân khác nhau mà chịu chung một chánh sách thì rất khó cai trị.
Tất cả lầm lẫn đều do hai cái Giao Chỉ khác nhau ấy mà ra.
Danh xưng Giao Chỉ I thọ không tới hai trăm năm, còn danh xưng Giao Chỉ II thọ quá lâu đời, nên tất cả đều cứ biết có Giao Chỉ II, và hễ nói đến Giao Chỉ là nghĩ ngay đến Bắc Việt.
Như vậy không hẳn là Cố Hy Phùng và Chu Khứ Phi đã lầm, vì hai ông đó nói đến Giao Chỉ I, chính Tây và ta mới lầm khi tưởng Giao Chỉ I là Giao Chỉ II, và cứ cho rằng Tây Âu, Tượng Quận là đất của ta, quan niệm ấy chỉ đúng có non hai trăm năm, rồi khi không còn đúng nữa, hay nói cho minh bạch hơn, chỉ đúng vào thời mà tất cả thuộc địa mới của nhà Hán đều được gọi là Bộ Giao Chỉ, mà không đúng khi danh xưng mất nghĩa là BỘ, chỉ còn là QUẬN mà thôi, và quận ấy thu hẹp lại ở Bắc Việt chớ không gồm Tây Âu, Tượng Quận nữa.
Tưởng bài nghiên cứu của Lão Cán là đủ lắm rồi, vì ông ấy nói có bằng chứng hẳn hòi, chớ không đoán mò, nhưng ta cũng cần xét qua các cuộc đoán mò của Tây, Tàu, Nhật, Việt vì chúng tôi đã vạch ra sự khác biệt nhau về hai danh xưng Giao Chỉ rồi mà có người cứ còn tin rằng:
Cổ Việt = Tượng Quận
Cổ Việt = Tây Âu
Sự sai lầm, trong đoạn nầy, thật là rối như mớ bòng bong vì có nhiều sách ta vẽ một bức dư đồ mà trong đó từ Lưỡng Quãng cho tới Huế đều bị mang một cái tên độc nhứt là Tượng Quận.
Họ quên mất rằng Tượng Quận chỉ là một cái quận nhỏ trong vùng đất lớn ấy và nếu có lầm lẫn thì chỉ nên lầm lẫn bằng cách nầy là gọi là vùng lớn đó là Giao Chỉ bộ, theo lối gọi sau năm 111 TK, chớ sử Tàu không có bao giờ mà định vị trí Tượng Quận kỳ khôi như vậy.
Họ Chu và họ Cố nói rằng Tượng Quận, hoặc Tây Âu ở trong Giao Chỉ là trong cái Giao Chỉ I đó, chớ không bao giờ nói rằng tất cả đều tên là Tây Âu, tên là Tượng Quận.
Sử Tàu xưa viết tắt rất nhiều sự kiện khiến người không nhìn kỹ vào đó, cứ gán chỗ nầy cho chỗ kia, họ không nói rõ là có đến hai danh xưng Giao Chỉ thuộc vào hai thời kỳ cách nhau ba trăm năm, và Giao Chỉ I và Giao Chỉ II khác xa nhau một trời một vực. Tuy nhiên, đọc kỹ vẫn thấy được sự thật ở đâu.
Xin nhắc lại là danh xưng Giao Chỉ I, liền sau 111 T.K. gồm có Tây Âu, Tượng Quận, còn danh xưng Giao Chỉ II thì chỉ trỏ có Bắc Việt mà thôi. Khi sách vở nói Tượng Quận, Tây Âu nằm trong Giao Chỉ, là trỏ Giao Chỉ I đấy, nhưng ta lại cứ bị Giao Chỉ II ám ảnh, Tây cũng thế, nên mới rối ren hết về giai đoạn sử thời đó.
Sự lầm lẫn của ông H. Maspéro, mặc dầu quá rõ ràng, không thể chối cãi được, nhưng không gây hại. Chính các ông khác, đặt Tượng Quận ở Việt Nam mới là làm xáo trộn tất cả.
Thật là khổ cho các ông Tây, theo Chu Khử Phi thì:
Giao Chỉ = Tượng Quận
Theo Cố Hy Phùng thì:
Giao Chỉ = Tây Âu
Như vậy, theo phép tam-đoạn-luận thì:
Tây Âu = Tượng Quận
Nhưng sử Tàu lại bảo rằng:
Tây Âu = Nam Hải + Quế Lâm + Tượng Quận thì mới làm sao đây?
Vậy các ông chỉ còn một cách là cố nhét Giao Chỉ và Tượng Quận vào trong đám địa danh rối loạn ấy, bằng cách ngụy tạo sử liệu, chớ còn biết làm sao nữa bây giờ.
Chính tại L. Aurousseau mà rồi sau năm 1945 vài quyển sử Việt, dựa theo ông để cho rằng:
1. An Dương Vương là tù trưởng Cao Bằng.
2. Trạch Hu Tống là Hùng Vương thứ 16.
3. Trạch Hu Tống là An Dương Vương.
Trước khi 72 trang bản thảo cứu của ông L. Aurousseau ra đời, sử ta tuy cũng có sai về đoạn đó, nhưng chưa bao giờ loạn như từ L. Aurousseau.
Người Âu châu họ không chịu được cái gì mơ hồ nên ông L. Aurousseau ý thức được tầm quan trọng của Tượng Quận, đả kích phái đối lập H. Maspéro bằng câu sau đây: “Nếu Tây Thiểm Tây của ông H. Maspéro về Tượng Quận mà được nhận thì hậu quả trầm trọng của thuyết ấy đối với sử địa cổ thời Việt Nam thật tai hại”.
Ta cũng ý thức như ông L. Aurousseau, nhưng ta nói trái lại, ta thay tên ông H. Maspéro bằng tên của ông L. Aurousseau vì thuyết của ông L. Aurousseau sai hơn và làm rối loạn cả đoạn cổ sử ấy của ta.
Ông H. Maspéro đặt Tượng Quận ở bên Tàu, thì không có hại gì cho sự hiểu lầm về cổ sử Việt Nam hết, còn ông L. Aurousseau gọi Tượng Quận là Bắc kỳ thì một sự kiện lịch sử lớn là nguồn gốc dân tộc Việt Nam phải bị sai lạc.
Thuyết L. Aurousseau nguy hiểm hơn những lời khẳng định sai của sử Tàu và Việt vì Tàu và ta chỉ khẳng định suông, không được ai tin bao nhiêu, còn ông L. Aurousseau thì có chứng minh, khiến người yếu bóng vía và thiếu phương tiện kiểm soát, có khuynh hướng tin theo.
Năm 1923, cũng cứ trong tập kỷ yếu BEFEO, mà ông H. Maspéro đã trình bày năm 1918, ông L. Aurousseau bỏ ra đến 72 trang báo lớn để tìm Tượng Quận, Tây Âu và Âu Lạc, bằng cách ngụy tạo sử liệu:
Ông viết: “Mặt khác chúng ta biết rằng những cuộc Nam xâm của nhà Tần bắt đầu từ năm 221 T.K. bằng cuộc viễn chinh đi qua Ngũ Lĩnh và những cuộc Nam xâm ấy kết thúc năm 214 T.K. với sự thành lập ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Hai quận đầu đã được biết và được định vị trí tại tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (ngày nay), chỉ còn quận thứ ba, tức Tượng Quận.
Người ta lại biết, nhờ các cổ thư như Sử Ký và Tiền Hán thư, thời điểm chinh phục những vùng đất Tây Nam (của Trung Hoa) như Quý Châu, Vân Nam v.v. xảy ra sau Tần Thỉ Hoàng đến một thế kỷ. Những vùng nầy phải được đặt ra ngoài vấn đề. Vậy thì, Tượng Quận chỉ có thể ăn vào những xứ Annam (ý tác giả muốn chỉ Bắc Việt và Bắc Trung Việt). Chính những xứ nầy, cũng cứ theo cái cổ thư trên, đã bị nhà Tần chinh phục vào thời 221-214.
Lối thấy trên đây được quyển Hoài Nam Tử, thế kỷ thứ Hai trước Tây lịch xác nhận, trong cổ thư đó có chép trận đánh 221-214 trong đó một lãnh chúa Bắc Kỳ tên là Trạch Hu Tống tử trận. Vậy không thể còn nghi ngờ gì nữa. Cái quận ở cực Nam mà Trung Hoa đặt ra năm 214 giống hệt như các xứ Annam bị chinh phục, cũng cứ bởi những người Tàu đó vào những năm 221-224. Thế thì cái chữ Tượng chỉ cái quận đó, đích thị là cái tiếng Tàu đã được đặt cho các xứ Annam năm 214”.
Thoạt trông, coi có vẽ chặt chẽ lắm, chính vì thế mà ông L. Aurousseau cứ nói mãi là “chắc chắn như vậy”.
Nhưng thật ra thì rất sai, bởi không hề có cổ thư Trung Hoa nào nói rằng “Các xứ Annam đã bị nhà Tần chinh phục vào thời 220-214” hết, như ông L. Aurousseau vừa nói. Riêng Lưu An, tác giả Hoài Nam Tử, thì lại không bao giờ có nói rằng Trạch Hu Tống là lãnh chúa của Bắc kỳ. Họ Lưu chỉ viết: “Người ta (tức quân Tần) giết được Trạch Hu Tống, vua của nước Tây Âu”. Ông L. Aurousseau tự ý thêm hai chữ “Bắc Kỳ” sau địa danh Tây Âu, rồi nói: “Đó, Lưu An đã nói rằng Bắc Kỳ đã bị chiếm”. Đó là cuộc nguỵ tạo thứ nhứt, bằng chữ nghĩa, lại bằng “phụ đề”. Bằng chữ nghĩa là sự tự ý thêm hai tiếng “Bắc Kỳ”, còn bằng phụ đề là giải thích càn rằng giết lãnh chúa, tức là chiếm nước. Giết lãnh chúa, không bao giờ có nghĩa là chiếm nước, và sự thật thì theo Hoài Nam Tử, vua Trạch Hu Tống bị giết rồi, dân chúng Tây Âu cứ tự động tổ chức để đánh lại Tần mà không cần ông vua nào nữa cả.
“Sát Tây Âu quận Trạch Hu Tống, nhi Việt nhơn giai nhập tùng bạc trung dử cầm thú xứ, mạc chỉ vi Tần cứ, tương trí kiệt tuấn dỉ vi tướng, vi dạ công Tần nhơn, đại phá chi, sát Uất Đồ Thư phục thi lưu huyết sổ thập vạn, nãi phát trương tức dỉ bị chi…”.
Tạm dịch: “Quân Tần giết vua Trạch Hu Tống của người Tây Âu rồi thì dân Việt bèn vào rừng sống với cầm thú, không theo Tần, lại cùng nhau tôn các tay anh hùng để cho làm tướng và về đêm ra đánh quân Tần, và thắng lớn, giết cả tổng tư lịnh Tần là Uất Đồ Thư, máu chảy, thây chất, có đến một trăm ngàn quân Tàu bị sát hại v.v.”.
Có lẽ ông L. Aurousseau ngỡ rằng quyển sách không danh tiếng và khó tìm là quyển Hoài Nam Tử, không ai có, không ai được đọc, ông tha hồ vẽ rắn thêm chơn. Chúng tôi đã phải nhờ người đi Đài Loan mua quyển Hoài Nam Tử để xem lại, vì không tìm được sách ấy ở Sài Gòn. Làm gì có danh xưng Bắc Kỳ vào thế kỷ thứ II? Nhưng chung quy cũng chỉ vì tất cả các ông và ông L. Aurousseau đều không biết địa lý cổ thời của vùng Ngũ Lĩnh và không biết chủng tộc học về các thứ dân ở vùng đó, nên mới gán liều lĩnh nơi nầy vào nơi khác.
Hai yếu tố quan trọng ấy, địa lý cổ thời và chủng tộc học cổ thời, sẽ được trình bày vài trang sắp tới với cả những cổ thư Trung Hoa không viết liều.
Mặc dầu đã ngụy tạo hai lần, bằng chữ nghĩa và bằng giải thích, ông Aurousseau vẫn chưa hạ nổi Tây Âu. Ông tiếp tục tấn công thêm nước đó.
Và ông L. Aurousseau lại nguỵ tạo nữa. Trong câu sử trên, Lưu An nói rõ ràng là Vua Trạch Hu Tống, nhưng ông Aurousseau lại dịch ra là lãnh chúa (chef féodal).
Ông là giáo sư Hán văn thì không thể bảo rằng ông không hiểu danh từ Quân. Nhưng ông dịch sai là cố ý ngụy tạo vậy.
Tàu rất khinh man di. Nếu man di có vua, họ cũng tìm cách hạ vua man di xuống chức chúa, tức thấp hơn vua một bực. Khi mà một ông vua Tàu (Lưu An, tác giả Hoài Nam Tử là một ông vua đấy) nhìn nhận rằng nước Tây Âu có vua, thì ta phải tin Lưu An một ngàn phần trăm.
Tưởng cũng nên định nghĩa rõ về các danh từ Vương, Quân, Chúa, Lãnh chúa v.v.
Cho tới đời nhà Chu thì chỉ có Vương, trên Vương không có ai cả. Đó là Vua. Nhưng các lãnh chúa bên Tàu lại tự ý xưng Vương khi nhà Chu suy vi. Đó là vua tiếm xưng, nhưng vua thật sự là vua nhà Chu vì quá yếu, đành để vậy. Hóa ra trong nước Tàu có lu bù Vương. Đó là hình thức ly khai thành nhiều tiểu bang vậy, và đã là tiểu bang thì có quyền tự xưng Vương.
Thí dụ: An nam quốc vương.
Chợt Tần vương, một ông vua của tiểu bang Tần, đánh dẹp cả và thống nhứt nước Tàu. Đáng lý gì trở về chức Vương cũ, ông ta lại thấy Vương bị hoen ố rồi, nên xưng Đế, và chia nước Tàu ra thành nhiều tỉnh gọi là quận, không còn vua chư hầu nào hết.
Nhà Tần sụp, nhà Hán lên, thấy rằng nước Tàu quá lớn, nhiều tỉnh hóa ra ở quá xa trung ương không đủ sức tự vệ mà cũng không đủ quyền uy để trị dân, thế nên mới tái lập chế độ chư hầu nửa chừng, tức lập ra một số chư hầu lớn và một số tỉnh nhỏ, các tỉnh ấy cũng cứ được gọi là quận như đời Tần.
Đứng đầu chư hầu, không còn là Công, Hầu, Bá gì nữa, mà là Vương, vì Vương đã lên Đế rồi.
Vậy Vương là vua chư hầu của một tiểu bang Tàu một trăm phần trăm. Thí dụ Lưu An, tác giả câu sử trên đây, là ông vua của vùng Nam sông Hoài, với chức Hoài Nam Vương, tác giả của sách Hoài Nam Tử.
Nhưng lại còn có những kẻ đứng đầu những nước ngoại chủng mạnh, thì mới gọi bằng gì đây? Không thể gọi họ là Vương, vì họ kém hơn Vương của Tàu về sự quan trọng, dưới con mắt người Tàu.
Danh xưng Quân được dùng để gọi những ông vua ấy. Thí dụ Tây Âu Quân là vua nước Tây Âu, một nước độc lập chớ không phải là chư hầu. Nhưng vua của người ta thì Tàu lại không cho là xứng đáng tước Vương mà chỉ được gọi là Quân mà thôi.
Thật ra thì trong nghĩa tổng quát ở bên Tàu, Quân cũng cứ là vua y như Vương, Đế, nhưng riêng trong giai đoạn sử nầy thì Tàu phân biệt như thế đó và sau nữa, các vua đời sau cũng phân biệt như vậy.
Còn Chúa? Chúa dùng để chỉ vua của những nước ngoại quốc xa lạ, nó có nghĩa là vua một nước mà quyền uy không được người Tàu biết rõ là to tới đâu, và người Tàu cũng không xem là đáng kể cho lắm.
Chúa và Quân chỉ khác nhau có thế, dưới đời Tần cả hai đều được xem là vua, nhưng Tàu không xem trọng nên không gọi là Vương. Và Quân vẫn được xem hơn Chúa vì có liên lạc với Tàu, có trao sử và có thể nộp cống nữa, nhưng vẫn không hề là vua chư hầu.
Lãnh chúa thì khác xa. Lãnh chúa là chư hầu của bất kỳ nước nào, Tàu hay man di đều là lãnh chúa. Nhưng lãnh chúa lại có thể không phải là chư hầu của ai cả. Khi một quốc gia chưa thống nhứt, không có vương, quân, chúa gì hết thì có thể có lu bù lãnh chúa, mỗi ông cát cứ ở một vùng, như hồi Thập nhị sứ quân ở nước ta.
Vậy khi L. A. dịch quân ra là lãnh chúa là ông ta đã hạ Trạch Hu Tống xuống đến hai cấp.
Với mục đích nào?
Ở mấy mươi trang trước ông vừa chứng minh rằng Cổ Việt chỉ có bộ lạc và tù trưởng, chớ không có vua Lạc Vương hay Hùng Vương gì hết. Nếu ông nhận Tây Âu có Vua, Chúa thì ông không làm sao mà đồng hóa Tây Âu với Cổ Việt được, nên ông phải dịch sai một cách tri tình. Lãnh chúa chỉ là một thứ tù trưởng quan trọng: Khi xứ chưa lập quốc thì chỉ có thể có lãnh chúa của các bộ lạc mà thôi.
Ông lại còn có mục đích thứ nhì nữa trong cuộc ngụy tạo thứ nhì đó. Thuở ấy, vùng đó, Tàu nói rằng đang có hai ông vua, ông Trạch Hu Tống làm vua Tây Âu, ông An Dương Vương làm vua Âu Lạc, mà ông đã trót nhập hai nước lại thành một, mà một nước không thể có hai vua thì làm sao đây?
Nhưng nếu ông hạ Trạch Hu Tống từ vua xuống lãnh chúa thì ổn thỏa, bởi một nước có thể có hai, ba, bốn, năm, sáu lãnh chúa. Chỉ phiền là sử Tàu gọi hai ông đó là Vua. Ông L. Aurousseau phải thủ tiêu bớt cái ông vua đã làm bối rối ông H. Maspéro, ông nầy quá bí, không buồn giải quyết bằng cách nào hết.
Khi ông sếp chỉ là lãnh chúa, thì nước Tây Âu, không có vua, không có chúa, và trái lại có hai, ba, bốn, năm lãnh chúa. Thế thì An Dương Vương có thể là lãnh chúa thứ nhì, thứ ba, thứ tư, đồng hạng với Trạch Hu Tống.
Ông ta không bị thủ tiêu về thể xác, mà về chức vị.
Khi người Tàu nói đến hai ông vua là họ nhìn nhận có hai nước khác nhau. Ông L. Aurousseau không muốn có hai nước khác nhau, muốn hiểu rằng Tây Âu = Bắc Kỳ, thì ông chỉ còn có một cách là thủ tiêu bớt một ông vua vậy, và hạ ông thứ nhì xuống chức lãnh chúa.
Nhưng tưởng nguỵ tạo thứ nhì nầy là thừa, khi ông đã gán cho Lưu An mấy tiếng mà Lưu An không hề nói, thì đâu có cần hạ Trạch Hu Tống nữa:
Tây Âu = Bắc Kỳ
Và vì nguỵ tạo lung tung, nên ông lại mâu thuẫn với ông. Khi Tây Âu có hai, ba, bốn, năm lãnh chúa thì không có chúa, mà hễ không có chúa thì không có nước, vì các lãnh chúa chưa thống nhứt, mạnh ai muốn hành động ra sao tuỳ thích.
Nhưng sử Tàu mà ông rất tin thì lại nói rằng có nước, nước Tây Âu và nước Văn Lang, nước Âu Lạc thì thật là bí quá đối với ông.
Ông L. A. bèn cho rằng sử ta và sử Tàu bịa khi nói đến nước Văn Lang và vua Hùng Vương hoặc Lạc Vương. Nhưng nãy giờ, ta chỉ thấy có ông là bịa thôi.
Xem chừng không xong, sau khi nguỵ tạo đến hai lần, ông L. Aurousseau lại phải nguỵ tạo nữa về Lạc Vương bởi sử Tàu là cái gì rất thiêng liêng đối với ông, mà sử Tàu đã nói có Lạc Vương, ông không dám phủ nhận. Thế nên ông lại nguỵ tạo nữa, ở một nơi khác, trong lối dịch Giao Châu ngoại vực ký.
Cuốn sử độc nhứt có ghi chép về Lạc Vương là quyển Giao Châu ngoại vực ký mà không hề có ai được đọc, chỉ thấy trích dẫn ở quyển Thuỷ Kinh Chú và Quảng Châu ký mà thôi:
“Thuở xưa, vào thời mà xứ Giao Chỉ chưa chia thành quận huyện, đất đã có ruộng Lạc, nước lên xuống sở ruộng tuỳ thuỷ triều. Dân làm ruộng đó mà ăn. Vì vậy mà người ta gọi dân đó là dân Lạc. Lập ra Lạc Vương, Lạc Hầu để coi quận huyện. Có nhiều Lạc Tướng mang ấn đồng giải lụa xanh.
Về sau, con vua nước Thục cầm đầu ba vạn quân, đến diệt Lạc Vương, Lạc hầu và chế phục tất cả các Lạc Tướng, rồi con của vua nước Thục tự xưng An Dương Vương. Đó là đất Âu Lạc vậy”.
Ngày xưa người Tàu nói tắt nên khó hiểu lắm. Ai đặt ra Lạc Vương?
Trong bản dịch chữ Pháp, ông L. Aurousseau tự ý thêm vào là “Chánh phủ Trung Hoa đặt ra Lạc Vương”.
Ông L. Aurousseau là giáo sư chữ Nho thì không thể bảo rằng ông không biết ẩn chủ từ của động từ “Lập”. Lập, ở đây là dân chúng lập ra, hoặc ông ấy tự lập mình làm Lạc Vương, sau khi chế phục được các tù trưởng chớ không thể nào mà là Tần Thỉ Hoàng mà ông gọi là “Chánh phủ Trung Hoa”. Ngày xưa, khi một đế quốc đánh chiếm một nước thì họ diệt ông vua của nước đó ngay, chớ lẽ nào xứ đó đang không có vua họ lại điên rồ mà lập ra một ông vua?
Nhưng ông L. Aurousseau lại gặp rắc rối nữa. Giờ, chỉ có một nước, theo ông, mà lôi ra đến ba ông vua, chớ không phải hai ông. Ông đã hạ Trạch Hu Tống, nhưng xoay thế nào mà lại lôi ra thêm một ông thứ ba là Lạc Vương.
Thế thì phải thủ tiêu nữa vậy, thế nào mà rốt cuộc chỉ còn có một ông là ông Trạch Hu Tống, lãnh chúa Bắc Kỳ. Thật ra, ông L. Aurousseau không ghét ông nào cả, nhưng ai dễ thủ tiêu thì ông thủ tiêu.
Ông thứ ba là Lạc Vương lại được thủ tiêu, không phải thủ tiêu thể xác, cũng không thủ tiêu chức vị như đối với Trạch Hu Tống, mà thủ tiêu uy tín. Ông ta chỉ là bù nhìn mà Tần Thỉ Hoàng mới lập ra sau cuộc chinh phục Bắc Kỳ.
Người ta tự hỏi Tần Thỉ Hoàng có mắc chứng điên hay không mà huy động đến nửa triệu quân, một số quân quá lớn vào thuở đó để giết ông tù trưởng Trạch Hu Tống rồi lại lập lên vua Lạc Vương, ông nầy chẳng có bà con dòng họ gì với Tần Thỉ Hoàng hết.
Ông lại quên mất cả thời điểm. Khi Tần Thỉ Hoàng Nam xâm thì Lạc Vương đã chết thành tro rồi vì bị An Dương Vương diệt từ lâu, khi cướp nước Văn Lang, không cần phải thủ tiêu Lạc Vương làm chi nữa hết.
Nếu còn ai để cho ông bối rối thì chỉ còn có Trạch Hu Tống và An Dương Vương mà thôi, không cần phải bắt Lạc Vương làm vua bù nhìn.
Ông lại thủ tiêu An Dương Vương một lần nữa không về mặt thể xác, mà cũng không về mặt uy tín, mà về mặt cho ông ta trễ đò. Ông lợi dụng hai tiếng “Về sau” để giải thích rằng Về sau có nghĩa rằng Tần Thỉ Hoàng chết rồi An Dương Vương mới thừa cơ hội đánh Bắc Kỳ rồi đặt tên cho nó là Âu Lạc.
Nhưng An Dương Vương vẫn không bị thủ tiêu, khi mà kẻ thủ tiêu chỉ dùng khoé nguỵ tạo. Tần Thỉ Hoàng chết rồi thì Triệu Đà nổi loạn ngay, mà Triệu Đà thì đang có binh mạnh trong tay, thử hỏi làm sao An Dương Vương phỗng tay trên Triệu Đà được?
An Dương Vương là ai mà nhiều binh lực hơn Triệu Đà? Vả lại vì nói thế, nên ông chỉ cho An Dương Vương trị được có hai ba năm. Lại mâu thuẫn nữa! Hai ba năm thì làm sao có đủ thì giờ xây thành Loa.
Ông L. Aurousseau khi thì nói rằng ông vua Thục là con của một tù trưởng của Cao Bằng, khi thì nói rằng ông là dân của xứ “xứ Bắc kỳ”, và sau 1945, có vài quyển sử Việt lặp lại thuyết của ông.
Nhưng thử hỏi tù trưởng Cao Bằng làm gì huy động nổi ba vạn binh sĩ? Thử hỏi ông là dân của “xứ Bắc Kỳ” thì khi ông mộ quân để làm loạn, sao vua Hùng Vương (mà sử Tàu gọi là Lạc Vương) lại để ông yên thân cho ông ta dấy binh diệt mình? Toàn là chuyện vô lý.
Ông L. Aurousseau lại còn mâu thuẫn nữa là rồi ông lại giải thích tại sao An Dương Vương lấy “xứ Bắc kỳ” (mà ông cho là Tượng Quận) được. Ông nói ở đó có quá ít lính Tàu nên không chống nổi quân xâm lăng.
Sự mâu thuẫn và nguỵ biện ở đây quá thô lậu và rất vĩ đại. Ý ông muốn nói vua bù nhìn của Tần Thỉ Hoàng là Lạc Vương cai trị nhờ sức của lính Tàu, nhưng lính đó quá ít, thế nên khi Thục Phán xâm lăng, họ chống lại không được.
A) Tần Thỉ Hoàng đã huỷ bỏ chế độ tiểu bang thì không thể còn kẻ nào mang tước Vương được hết.
B) Khi Tần Thỉ Hoàng chết rồi thì nước Tây Âu, tức hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và một phần đất giữa Quảng Tây và Vân Nam (đó mới đích thị là Tượng Quận) đã lọt vào tay Tàu rồi từ lâu. Vậy Thục Phán ở đâu mà xâm lăng Cổ Việt được, vì ở đâu cũng đã là của Tàu rồi.
C) Nếu Thục Phán ở Cao Bằng thì y là dân của nước Cổ Việt mà như vậy thì làm thế nào mà có sự kiện xâm lăng khi dân Cần Thơ đánh lấy Sài Gòn. Đó là một nội loạn ấy chớ.
Tóm lại ngoài cái việc nói liều rằng An Dương Vương là Tù trưởng ở Cao Bằng, sau đó ông L. Aurousseau lại biến ông ấy thành người nước ngoài mà không chỉ được là ở đâu. Thế mà ông lại bác sử ta lung tung, bác cả niên đại của trào An Dương Vương mà không đưa ra một tài liệu nào hết, theo ông thì An Dương Vương chỉ trị có 2, 3 năm chớ không phải là 49 năm như sử ta viết.
Thuyết L. Aurousseau có thể tóm lược như sau:
1) Tần Thỉ Hoàng xua quân đánh nước Tây Âu, tức nước Bắc Kỳ (nguyên văn). Nhưng Bắc Kỳ đã có nước, mà lại không có vua, cũng không có chúa mà chỉ có lãnh chúa là Trạch Hu Tống bị giết chết rồi. Tượng Quận là tên của xứ Bắc Kỳ, tức Tây Âu do Tàu đặt ra, sau khi chiếm lấy nước Tây Âu.
2) Thắng xong, Tần Thỉ Hoàng giúp nước Bắc Kỳ tiến lên nhảy vọt, nước ấy từ bao lâu nay chưa tiến lên khỏi chế độ bộ lạc, được vua Tần ban cho một ông vua Lạc Vương. Thế là Tần Thỉ Hoàng không phải đế quốc mà là một bậc thánh hiền rồi đấy.
3) Đến khi Tần chết rồi thì một tay phiêu lưu vô danh là An Dương Vương lại bảnh hơn quan Giám (tức quận trưởng) Triệu Đà, cướp ngay xứ Bắc Kỳ, tức nước Tây Âu (nguyên văn của L. Aurousseau). Quân Tàu quá ít nên vua bù nhìn Lạc Vương phải thua An Dương Vương.
Thật là một thuyết động trời, thế mà lại được vài sử gia ta đã cóp theo.
Thử hỏi nếu Tây Âu là Bắc Kỳ, trong đó có quận Tượng, thì hai quận kia nằm ở đâu? Một quận của Tàu thuở ấy to bằng toàn quốc Việt Nam ngày nay, làm gì Bắc Kỳ chứa nổi đến ba quận?
Ông L. Aurousseau đã bị Mã Viện đính chánh. Thật thế, Mã Văn Uyên có kiểm tra dân số cẩn thận. Kết quả cuộc kiểm tra nầy có chép trong Hán thư. Dân số của một phần Tây Âu là Nam Hải đông trên 190 ngàn nhà, còn dân số của cả Giao Chỉ có trên 90 ngàn nhà mà thôi.
Nếu Bắc Kỳ là Tây Âu như ông L. Aurousseau nói, thì Nam Hải nằm trong Bắc Kỳ. Nhưng nó nằm trong đó mà sao dân số lại gấp đôi Bắc Kỳ được?
Nói tầm ruồng vài mươi trang, ông L. Aurousseau thu hẹp Tây Âu lại ở thượng du Bắc Kỳ, thế là còn nhỏ hơn nữa và mâu thuẫn càng lớn hơn vì thượng du là đất không ở được để có thể chứa quá đông dân số như thế vào thời ấy, và để có thể được Tàu xem là ba quận của họ.
Có lẽ ông muốn nói thượng du là một phần của Tây Âu, như H. Maspéro, và ông linh cảm cho rằng Âu và Thái, mà thượng du nay thì rõ ràng là đất Thái, nhưng ông lại không nói rõ ràng minh bạch được như ông H. Maspéro, thành thử còn sai hơn H. Maspéro nhiều. Nói minh bạch như H. Maspéro rằng Tây Âu chạy dài từ Quảng Tây đến tả ngạn Nhị Hà, tuy vẫn có lý mà còn sai, huống hồ gì L. Aurousseau chỉ hạn chế tất cả ở một vùng thượng du Bắc Việt.
Dầu sao ông L. Aurousseau cũng cố làm cho ta thấy rằng Cổ Việt có bị Tần Thỉ Hoàng chiếm.
Mà đó là sai sự thật.
Hết hai ông Tây, đến ông Tàu.
Giáo sư Trần Kinh Hoà, bị thuyết của giáo sư L. Aurousseau gợi ý, còn thu hẹp Tây Âu hơn. Ông viết trong tạp chí Đại học Huế năm 1960 rằng Tây Âu = Tây Vu.
Theo nghiên cứu của ông Madrolle, tác giả Le Tonkin ancien thì huyện Tây Vu gồm các tỉnh sau đây của Bắc Việt: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phú Thọ. Nghiên cứu ấy đúng.
Thế nên ở đó có một tiểu vương quốc là Tây Vu dưới thời Triệu Đà.
Ta có thể suy luận mà đoán được rằng nơi đó là trung tâm văn hoá và hành chánh của Cổ Việt, bằng vào cái luật nầy là dân tộc nào cũng đặt trung tâm tại một vùng mà dân chúng sinh tụ nhiều nhứt.
Hà Nội ngày nay nằm trong tỉnh Hà Đông, nhưng xưa việc sinh tụ của dân khác nay.
Bắc Ninh vào đời Cao Biền trở về sau vẫn cứ còn là trung tâm văn hoá Hoa Việt, bằng vào quá nhiều di tích lịch sử lớn lao ở đó: Chùa Phật Tích, đền Phù Đổng, bao nhiêu mộ quan nhà Hán, miếu Sĩ Nhiếp, chùa Khang Tự, đình Đình Bảng. Cổ Loa thành và nhứt là thành Luy Lâu, kinh đô đầu tiên của thuộc địa Giao Chỉ, tại làng Lũng Khê ngày nay.
Vua An Dương Vương đã đóng đô ở đó, Thái Thú Giao Chỉ đã đóng đô ở đó, và trước nữa, Hùng Vương đã cũng đóng đô ở đó (Phú Thọ).
Đó là cái nôi của văn hoá, của văn minh, của chánh trị, của dân Lạc Việt, y như Paris là cái nôi của Pháp từ ba ngàn năm rồi.
Khi Mã Viện đánh thắng ta xong thì y chạy sớ về Lạc Cương tâu xin chia huyện Tây Vu thành huyện Phong Khê và Vọng Hải, vì huyện đó quá đông dân cư, có đến 32 ngàn hộ, tính trung bình thì có đến 160.000 khẩu trong 32 ngàn hộ đó. Vào đầu Tây lịch mà một huyện chứa bấy nhiêu người như vậy là quá đông, sánh với ngày nay (1965) mà toàn tỉnh Châu Đốc chỉ có 90 ngàn người Việt Nam, mà đó là một tỉnh được xem là trù phú.
Chúng tôi thường khen các ông Tây đọc sử Tàu kỹ hơn ta và Tàu, và quả đúng như vậy. Đất Tây Vu và ông vua Tây Vu Vương đều do các ông Tây khám phá ra, qua cổ sử Trung Hoa.
Đó là một tài liệu phụ, âm thầm nằm riêng trong phụ lục của Hán thư trong biểu Công thần.
Vua Tây Vu Vương là phiên thần của Triệu Đà. Khi họ Triệu bị Lộ Bác Đức diệt thì ông nầy toan nổi loạn, nhưng bị tuỳ tướng là Hoàng Đổng hạ sát, nên Hoàng Đổng mới được nhà Hán xem là Công thần. Chính cái biểu Công thần tăm tối ấy mà không ai buồn đọc, đã tiết lộ sự kiện mới lạ đó.
Hoàng Đổng là người Tàu, và đó là cán bộ nằm vùng mà Triệu Đà đặt ra để kiểm soát Tây Vu Vương, vốn là người Lạc Việt.
Nói Tây Vu Vương gồm 6 tỉnh, nhưng thật ra thì chỉ có 4, vì Việt Trì không phải là một tỉnh như các ông Tây đã viết còn Vĩnh Yên và Phú Yên thì quá nhỏ bé, nên sau Pháp sáp nhập lại thành một, tỉnh Vĩnh Phúc.
Cái nước Tây Âu nhỏ xíu của giáo sư Trần Kinh Hoà lại còn không thể làm được một công việc tày đình mà ông vua đất Giang Hoài là Lưu An đã chép trong sách Hoài Nam Tử: 30 ngàn nhà làm sao chống nổi với 500 ngàn lính Tần trong ba năm và giết tổng tư lệnh của họ?
Thế mà giáo sư họ Trần lại viết rằng dân số Tây Vu quá đông đảo đủ sức làm công việc đó. Cả Giao Chỉ mà chỉ có 90 ngàn nhà, thì riêng Tây Vu, nằm ở tả ngạn Nhỉ Hà, làm gì quá đông đảo được?
Ông Trần Kính Hoà đưa ra những luận cứ sau đây. Chữ Vu đọc giống chữ Âu. Vậy Tây Vu và Tây Âu là một, chỉ vì lầm mà người ta viết hai cách, khiến đời sau ngỡ là hai nơi.
Tây Vu lại có tên là Tây Lý và Tây Ngung để đối với Phiên Ngung.
Tây Ngung bị viết lầm ra Tây Lý, nên Tây Vu mới có hai tên là Tây Vu và Tây Lý.
Nhưng đó là nỗ lực tuyệt vọng của họ Trần.
Chữ Vu, Tàu đọc là Día, còn chữ Âu họ đọc là Ngê-U, theo Quan Thoại, làm thế nào mà ông Trần lại bảo rằng hai chữ đó đọc giống nhau mà có thể lầm âm với nhau?
Dầu sao thuyết Trần Kinh Hoà: Tây Âu = Tây Vu, cũng bất chấp lý trí vì mấy lẽ sau đây:
Tây Âu gồm 190 ngàn nhà ở Nam Hải
90 ngàn nhà ở Giao Chỉ (nếu ta bằng lòng theo ông ấy bỏ Giao Chỉ vào Tây Âu).
Và 100 ngàn nhà ở Quế Lâm.
Tổng cộng là 380 ngàn nhà.
Trong khi đó thì Tây Vu chỉ có 30 ngàn nhà.
Thế thì Tây Vu không làm sao mà là Tây Âu được hết.
Ông Trần Kinh Hoà, mặc dầu có Tây học, vẫn suy luận theo Tàu đời Đường, tức không theo sự hợp lý mà theo cảm giác riêng khi ông nhận thấy Tây Vu hơi giống Tây Âu về giọng đọc, còn về tự dạng nó không giống, nhưng ông lại tạo ra Tây Ngung để cho rằng có sự giống giữa Tây Ngung và Tây Lý, Tây Lý và Tây Vu.
Để chứng minh mạnh mẽ thêm rằng Tây Vu = Tây Âu, giáo sư Trần Kinh Hoà lại trích Sử Ký (Nam Việt liệt truyện): “Nhà Tần mất, Triệu Đà đánh lấy luôn Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương”.
Đây là một sai lầm lớn của Tư Mã Thiên mà giáo sư họ Trần cứ chép. Thật sự thì Triệu Đà chỉ xưng hùng ở quận Nam Hải. Dân Tây Âu còn lại ở Quế Lâm và Tượng Quận rồi cũng nổi loạn và cũng xưng hùng. Ở Mân Việt cũng thế. Thấy mình còn yếu, Triệu Đà đành phải nhìn nhận bọn nổi loạn ấy và thương thuyết với họ để ủng hộ ông ta. Cuộc thương thuyết có kết quả. Các sử Tàu khác đều chép như vậy. Nếu lấy luật đa số thì Tư Mã Thiên phải thua, còn lấy lý mà suy thì cũng thế, bởi Triệu Đà không có đủ quân mà tóm thâu hết các nơi được.
Rồi giáo sư họ Trần viết: “Triệu Đà tự lập làm vua, gồm thâu Quế Lâm, Tượng Quận thì nước ấy (Tây Âu) chưa bị lệ thuộc vào nước Nam Việt”.
Ở câu trước thì lấy xong Quế Lâm, Tượng Quận rồi mới lên ngôi, nhưng cách đó có một trang thì ở đây “Tự lập làm vua rồi mới gồm thâu Quế Lâm, Tượng Quận. Thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nhưng sự xuôi ngược không hại gì. Hại lắm là ý nghĩa của câu thứ nhì đó: Triệu Đà đã tự lập làm vua, gồm thâu Quế Lâm, Tượng Quận thì nước Tây Âu chưa bị lệ thuộc vào nước Nam Việt.
Đây là một câu sử kỳ dị nhứt thế giới.
Để xem:
Tây Âu = Nam Hải + Quế Lâm + Tượng Quận
Mà sử Tàu thì đã đồng thinh, và chính giáo sư họ Trần cũng đã đồng thinh với họ mà nói rằng Triệu Đà xưng hùng tại huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải.
Thế thì đã xưng hùng tại Nam Hải lại còn chiếm luôn Quế Lâm, Tượng Quận nữa, mà nước Tây Âu chưa bị lệ thuộc là làm sao, khi ta nhìn lại phương trình trên đây?
Vì mâu thuẫn như thế nên giáo sư họ Trần phải dời Tây Âu xuống Tây Vu để cho ổn cái vụ Triệu Đà, Triệu Đà xưng hùng ở trên, nên Tây Âu ở dưới chưa lệ thuộc.
Chỉ phiền là sử Tàu lại chép quá đích xác là Triệu Đà xưng hùng tại trung tâm văn hoá của Tây Âu, vì huyện Long Xuyên, nơi Triệu Đà nổi lên là đất dân Tây Âu sinh tụ đông đảo nhứt, vì đó là đồng bằng phì nhiêu nhứt của nước Tây Âu.
Ấy, ông đã chủ trương rằng Tây Âu = Tây Vu, nên ông mất sự thật trên kia đã được tất cả mọi người công nhận, kể cả ông nữa (ở một nơi khác).
Thế rồi ông lại dựa vào tài liệu Nhựt Bổn để viết:
Nhựt Nam = Tượng Quận = Giao Chỉ
Giáo sư Trần Kinh Hoà dẫn giáo sư Nhật Sugimoto Naojiro cho rằng ông R. A. Stein nói: “Hải Vân Quan là Nam giới của Tượng Quận”.
Thật ra thì R. A. Stein không hề nói như vậy. Tài liệu về vị trí của huyện Tượng Lâm dữ dội nhứt là tài liệu của R. A. Stein, trích một số tạp chí Hán học, xuất bản tại Bắc Kinh năm 1948. ông R. A. Stein nghiên cứu về nước Lâm Ấp chớ không phải về Tượng Quận, nhưng dân Lâm Ấp đã dựng nước ngay trong lòng thuộc địa Trung Hoa ở cái huyện cuối cùng là huyện Tượng Lâm (chớ không phải quận) thành ra ông ấy phải nghiên cứu vị trí của huyện Tượng Lâm không ăn thua gì đến Tượng Quận cả. Ông R. A. Stein không bao giờ có nói đến Tượng Quận hết.
Giáo sư Trần Kinh Hoà chuyên môn trích sách mà không hề kiểm soát. Đáng lý vì nghe người Nhật nói thế, ông nên tìm tạp chí Hán Học ở Bắc Kinh, kinh đô của ông để mà đọc.
Nhưng đọc không chưa đủ, còn phải phê bình R. A. Stein.
Đây lại cũng cứ là nguỵ tạo. R. A. Stein chỉ nói đến huyện Tượng Lâm, thế mà người ta đảm bảo rằng R. A. Stein nói đến quận Tượng.
Ta trở lại với kẻ phất cờ ban đầu là H. Maspéro, ông nầy cũng nguỵ tạo sử liệu như ông L. Aurousseau.
Nguyên trong một bức thư mà Triệu Đà gởi cho nhà Hán có câu: “Kỳ đông, Mân Việt thiên nhơn chúng, hiệu xưng vương, Kỳ tây, Âu lạc lõa quốc, diệt xưng vương”.
Ai cũng thấy rõ rằng “Kỳ tây” được viết ra để đối với “Kỳ đông” và những gì sau “Kỳ tây” phải được tách rời ra khỏi “Kỳ tây”. Nhưng ông H. Maspéro lại viết chữ Tây hoa rồi tách ra khỏi chữ Kỳ thứ nhì, và hơn thế lại nhập chữ Tây vào hai chữ Âu Lạc, tân tạo một danh xưng mới là Tây Âu Lạc mà cổ sử Trung Hoa không có ghi chép bao giờ trừ Tư Mã Thiên và Cố Hy Phùng mà ta đã và sẽ thấy hai ông đó viết càn. Tân tạo xong thì ông có thể đồng hoá Tây Âu và Âu Lạc được rồi.
Xin nói rõ hơn, câu chữ Nho đúng là thế nầy:
Kỳ đông, Mân Việt…
Kỳ tây, Âu Lạc…
Ông H. Maspéro sửa lại câu thứ nhì:
Kỳ, Tây Âu Lạc…
Thế là danh xưng Tây Âu Lạc thành hình một cách quái dị, bởi chữ Kỳ thứ nhì, nằm không một mình như vậy, còn có nghĩa gì nữa hở quý vị nhà Nho? Vậy mà ông cứ kết luận rằng có một nước mới được thành lập tên là Tây Âu Lạc. Và cắt nghĩa rằng đó là Tây Âu + Lạc Việt, để rồi kết luận rằng hễ nhà Tần chiếm lấy Tây Âu thì phải có chiếm Lạc Việt vì sự sáp nhập đã xảy ra rồi với An Dương Vương. Câu chuyện kết luận sai, vì lối đọc chữ Nho sai.
(Có một nhà bác học Nhựt Bổn, nhân đọc đoạn sử đó, nói rằng thuở đó ở cạnh nước ta có một nước tên là Lõa Quốc. Một ông Tây lầm chữ Nho thì còn cho qua được, chớ một nhà bác học Nhựt Bổn mà như thế thì thật là phi Á Đông).
Danh xưng Tây Âu Lạc là một danh xưng không bao giờ có, thế mà nó được hai nhà trí thức Trung Hoa thời cổ nói đến.
Trong Sử Ký, thiên Nam Việt liệt truyện, Tư Mã Thiên viết: “Triệu Đà xưng hùng tại Nam Hải rồi lấy tài vật đút lót cho các nước Mân Việt và Tây Âu Lạc để làm nước phụ thuộc.
Thấy quá rõ là Tư Mã Thiên đã viết sai. Thật thế, sau khi xưng hùng, Triệu Đà không đủ quân chiếm hết 3 quận của nước Tây Âu, đành phải bằng lòng với quận Nam Hải nhỏ hẹp. Phần Tây Âu còn lại, được chính dân Tây Âu tự động xưng hùng và quản trị. Triệu Đà đã đút lót cho cấp lãnh đạo của cái phần Tây Âu mà lão ta chưa đủ quân để chiếm. Như vậy họ Tư Mã chỉ có quyền đồng hoá cái phần còn lại đó với cả nước Tây Âu mà thôi, chớ không có quyền nói đến một nước Tây Âu Lạc, vì cái nước đó sẽ được chúng tôi chứng minh rằng không bao giờ có.
Sự cẩu thả của Tư Mã Thiên, về sau được Cố Hy Phùng phổ biến rộng rãi thêm, thành thử danh xưng không có, lại hoá ra có.
Nhưng là nhà khoa học, H. Maspéro thấy rõ đó là sai lầm. Nhưng ông cũng lại rất cần danh xưng đó, thế nên ông nguỵ tạo sử liệu, để cho nó có vẻ khoa học hơn Tư Mã Thiên và Cố Hy Phùng. Hễ có địa danh Tây Âu Lạc thì nghĩa là Tây Âu đã được nhập lại với Cổ Việt Nam (Âu Lạc), và điều đó rất cần cho các thuyết sai lầm của các ông là Tần có chiếm Cổ Việt Nam, và rất cần cho sử gia Nguyễn Phương là Tần có trồng người ở Cổ Việt Nam.
Hiện tượng Tây Âu sáp nhập với Lạc Việt là một quái thai, nhưng không hiểu sao đa số sử gia Tây, Tàu, Nhật, Việt đều bảo là có.
Quả thật thế, Tây Âu là tên nước, Lạc Việt là tên dân. Nếu quả có sự sáp nhập tưởng tượng đó thì người ta ghép hai tên nước lại:
Tây Âu + Văn Lang
Hoặc Tây Âu + Âu Lạc
chớ không bao giờ lại ghép một tên nước với lại một tên dân.
Mà khi Tây Âu được ghép với Âu Lạc thì nó phải biến hoá ra là Tây Lạc, chớ không bao giờ là Tây Âu Lạc cả vì cái lẽ giản dị là cả hai bên đều phải hy sinh một chữ trùng nhau là chữ Âu, chớ không bên nào được phép giữ nguyên tên mình, bắt bên kia phải chịu lép vế giữ có một chữ.
Âu Lạc nhứt định không cho phép Tây Âu giữ nguyên Tây Âu, còn mình thì chỉ được góp phần một chữ Lạc, còn Tây Âu cũng nhứt định không cho phép Âu Lạc giữ nguyên Âu Lạc, còn mình thì chỉ được góp phần có một chữ Tây mà thôi.
Sự sáp nhập đó, do người Tàu làm chớ không phải Âu Lạc hoặc Tây Âu làm ư? Đồng ý, nhưng chính người Tàu mới là có thói quen ngàn đời của họ.
Nhưng rõ ràng Tư Mã Thiên đã viết ra cái địa danh đó thì tính sao đây? Rất dễ hiểu. Trọn bộ Sử Ký, Tư Mã Thiên chỉ viết có một lần cái địa danh đó mà thôi, còn thì họ Tư Mã phân biệt hẳn hoi Tây Âu và Âu Lạc.
Đó là một sự bịa càn, chớ các văn kiện chính thức không có địa danh ấy, và vì bịa càn một cách kỳ khôi, nên họ Tư Mã chỉ viết có một lần địa danh ấy mà thôi. Kỳ khôi vì không ai ghép tên nước (Tây Âu) và tên dân (Lạc Việt) để làm một địa danh bao giờ. Có lẽ họ Tư Mã cũng thấy được rằng là vô lý, nhưng không thể bôi, vì sách Tàu được viết trên một tập giấy in sẵn có dòng có khuôn, hễ bôi thì phải bỏ hết cả cuốn, chớ không thể xé bỏ một tờ như bản thảo của ta, mà xé bỏ cả quyển thì quá mất công.
Tuy nhiên, sự ghép chữ có sai nguyên tắc, nhưng nội dung của sự gán ghép của Tư Mã Thiên không phải là không có lý do, và ta sẽ thấy lý do đó lát nữa đây.
Chương nầy có vẻ như là dư, nhưng thật ra thì không. Then chốt của thuyết Nguyễn Phương là Tần đã trồng người ở Cổ Việt và Hán đã tiếp tục. Rồi lại có di cư ồ ạt, thế nên rồi “man di” Lạc Việt lớp bị tàn sát, lớp bỏ nước mà đi hết, và người Tàu tự xưng là Việt Nam.
Trước khi trưng ra vài trăm trang bằng chứng Việt Nam là một, Lạc Việt cũng thế, và họ cứ còn giữ từ đấy những nay, chúng tôi phải bác bỏ tất cả những gì của bất kỳ ai mà có tánh cách xuyên tạc hay cố ý cho rằng ba sự kiện dưới đây đã xảy ra:
- Tần có chiếm Cổ Việt, có trồng người ở đó.
- Hán có tiếp tục chánh sách trồng người (vốn không có xảy ra).
- Có di cư ồ ạt.
Thành thử thoạt trông, người đọc thấy chương II quá dài nầy như là lạc đề, nhưng quý vị sẽ không còn cảm giác đó nữa, khi rõ được ý định của chúng tôi.
Vậy theo H. Maspéro thì Tây Âu và Âu Lạc là một, và khi Âu Lạc là Bắc Kỳ thì Tây Âu cũng thế và Tần Thỉ Hoàng đã chiếm Tây Âu, tức là chiếm “xứ Bắc Kỳ”.
Nhưng việc tân tạo danh xưng một cách bất chấp thành văn chữ Nho để rồi đồng hoá, không có giá trị khoa học nào hết.
Cả ba thuyết đều đưa đến đẳng thức:
Tây Âu = Bắc Kỳ
Cả ba thuyết trên đều sai. Và Tần Thỉ Hoàng không có chiếm đất và “trồng người” ở Bắc Kỳ gì hết.
Ông L. Aurousseau, sau khi xoay đủ cách để chứng minh rằng: Tây Âu = Bắc Kỳ (nhưng thật ra thì thâm ý của ông là muốn chứng minh một điều mà ai cũng bí là Tượng Quận = Bắc Kỳ. Tượng Quận là một phần của Tây Âu, hễ chứng minh được rằng Tây Âu = Bắc Kỳ, thì Tượng Quận phải đương nhiên được nằm trong Bắc Kỳ). Sau khi làm thế rồi, ông còn thu hẹp Tây Âu lại ở Thượng du Bắc Việt.
Cái Thượng du Bắc Việt nầy lại còn bị thu hẹp hơn nữa là tả ngạn Nhị Hà chớ không có hữu ngạn.
Theo cả hai ông H. Maspéro và L. Aurousseau thì Lạc Việt là từ Nhị Hà trở xuống phía Nam, ở trên là Tây Âu.
Các ông quên mất rằng chính sử Tàu mà các ông rất tin, thú nhận rằng đạo binh viễn chinh của Tần đã thất điên bát đảo tại Tây Âu. Đạo binh đó đông 500 ngàn người. Thượng du tả ngạn có mấy người?
Hiện nay dân ta 30 triệu, thuở ấy non một triệu tức 30 lần ít hơn. Thượng du tả ngạn hiện nay có lối 1 triệu tám, thì thuở ấy hẳn chỉ có 60 ngàn. Bắt được bao nhiêu lính trong 60 ngàn người? Nhiều lắm là 10 ngàn lính. Mười ngàn chú lính Thái làm thế nào để làm khổ 500 ngàn binh Tần và giết được tổng tư lệnh của họ, theo Lưu An đã ghi chép trong Hoài Nam Tử?
Thật là không có một chút xíu sự thật nào hết.
Vả lại hồi cổ thời, người Thái không hề có mặt ở Thượng du Bắc Việt.
Quả thật thế, cổ vật Đông Sơn đã đào được ở Đồng Văn gần biên giới Việt - Quảng Tây, ở Đán Lầu (trên Lào Kay), ở Lạng Sơn, ở Bắc Cạn, ở Tuyên Quang, ở Thái Nguyên, gần đồng tuổi với đồ Đông Sơn, nhưng lại khác loại với đồ đồng của Thái vào thời đó.
Và sử Tàu chép rằng dưới đời Đường, một quan Đô hộ Tàu gốc Nhựt Bổn, phục vụ tại Giao Chỉ, đã chống được cuộc xâm lăng của người Thái vào Thượng du Bắc Việt.
Như thế thì bằng vào sự có mặt ngày nay của người Thái ở Thượng du để bảo rằng nước Tây Âu ăn uống tới tả ngạn Hồng Hà như các ông Tây, ông Tàu đã viết thì thật là không đúng với sử liệu chút nào hết.
Chỉ có cuộc xâm lăng vào thế kỷ 13 là người Thái thành công, vì vua chúa ta bận việc nội bộ, đành phải chịu vậy, nhưng rồi vẫn khắc phục họ được, xem họ là thần dân và họ nhìn nhận chủ quyền của ta dưới sự cai trị của các quan thổ ti người Việt.
Tóm lại, có quá nhiều huyền thoại Tây, Tàu về Tượng Quận, Tây Âu và Âu Lạc, đó là chưa kể huyền thoại Nguyễn Siêu mà chúng tôi không nói tới nhiều vì huyền thoại nầy không được các sử gia chép theo.
Trong Phương Đình Dư địa chí (trang 168) Nguyễn Siêu cho rằng Tượng Quận là nước Phù Nam ở mũi Cà Mau!!!
Nguyễn Siêu nổi danh là một nhà nho đọc sách Tàu nhiều nhứt nước, nhưng ông không biết những quyển sách mà Lão Cán đã đọc để truy nguyên Tượng Quận. Nhưng ta không nên trách Nguyễn Siêu, vì giáo sư Trần Kinh Hoà, đáng lý phải biết rộng hơn Nguyễn Siêu, thế mà cũng chẳng biết Tây Âu và Tượng Quận ở đâu.
Từ năm 1918 đến nay, các nhà học giả bàn cãi với nhau không thôi về nước Tây Âu và Tượng Quận, không bao giờ mà hai nơi chốn lịch sử ở Á Đông, lại được các nhà bác học tìm tòi nhiều cho bằng Tây Âu và Tượng Quận, không phải chỉ là tò mò của những người hiếu học, mà hai nơi đó là hai nơi then chốt, hai cái chìa khoá mở cửa cho thấy rõ những sự kiện lịch sử về trước và về sau, nếu định vị trí sai về hai nơi đó thì những gì xảy ra về sau sẽ hỗn loạn, không còn biết đâu mà theo dõi nữa.
Chung quy chỉ vì các ông không thuộc sử và nhứt là không biết gì hết về địa lý cổ thời, như chúng tôi đã nói. Giờ muốn biết sự thật chúng ta cần nhắc sử lại, và cần viết lại địa lý cổ thời, bằng vào những tài liệu tản mác đó đây, viết cho thật đúng, không được phép mơ hồ nữa.
Ta cần ngược dòng thời gian, đi về lối Khổng Tử, rồi từ đó thả xuôi dòng cho đúng nẻo, mới mong khỏi lầm lạc.
Ở đây, chúng tôi trích một câu Xuân Thu của Khổng Tử, câu nầy sẽ được khai thác lại ở chương khác, cho một vấn đề khác.
Theo Xuân Thu thì năm 317 T.K. Ngô Khởi, một phản tướng của nước Nguỵ, xuống đầu nước Sở, nước nầy bấy giờ đã nuốt mất nước Ngô và nước Việt Cối Kê rồi. Tướng họ Ngô thực thi một chánh sách mới là ký hiệp ước thân hữu với các quốc gia Bách Việt ở phía nam Cối Kê.
Đó là những quốc gia nào, ta chưa cần biết ngay tức thì và ta cần xét lại việc khác nữa, cấp bách hơn.
Bẵng đi 99 năm, sử Tàu không buồn nói đến các quốc gia Bách Việt đó nữa.
Sự rối loạn bắt đầu, sau 99 năm im lặng ấy, chỉ rối loạn ở phía vùng Bách Việt chớ chuyện bên Tàu thì rất rõ: Chư hầu Tần lớn mạnh, nuốt cả Hoa Bắc, rồi nuốt luôn Sở trong lòng nước Sở vốn đã có nước Ngô, nước Việt, binh Tần chỉ đánh tới huyện Cối Kê rồi thôi.
Khổng Tử viết sử có đúng hay không? Nếu không, ta cũng chẳng làm sao được, vì đó là tài liệu độc nhứt, và phụ đề của Tả Khâu Minh cũng là tài liệu độc nhứt. Nhưng nếu cho rằng Khổng Tử bóp méo sự thật thì ngài bóp méo các việc khác, chớ chẳng bóp méo làm gì biên giới cực Nam của nước Trung Hoa vào thời đó.
Thế thì ta có thể tin rằng Khổng Tử viết đúng.
Vậy vài quyển sử Tàu mà sử ta cóp lại viết rằng Dương Việt ăn xuống tới Phúc Kiến (có người viết rằng ăn xuống tới Giao Chỉ) đều sai.
Khổng Tử mà có sai, chúng tôi cũng ít lắm có dựa vào Khổng Tử, còn những quyển sách khác thì không có dựa vào đâu hết, hoặc dựa vào những quyển sách đời Tống về sau, những tác giả ấy không làm sao mà biết sự thật lịch sử thời Xuân Thu cho bằng Khổng Tử.
Vì đây là biên giới thật đúng ở cực Nam Trung Hoa dưới đầu đời Tần. Đó là Ngũ Lĩnh, tên của năm dãy núi lớn và cao, có đèo (passes). Năm dãy núi đó ở đâu và tên gì?
Ông H. Maspéro, L. Aurousseau và R. A. Stein với một ông Việt là sử gia trào Nguyễn, Nguyễn Siêu, đã phải dày công làm con mọt sách mới tìm được vị trí của năm dãy núi đó, vì sử Tàu xưa lộn xộn như một trận thế tru tiên. Mặc dầu có vài quyển cổ thư Trung Hoa viết sai quá xa, các ông trên đây vẫn loại lần để tìm biết đúng sự thật. Nhưng nếu chúng tôi kể lại đây, chắc người đọc sẽ chóng mặt và nhức đầu lắm trong mớ bòng bong hỗn độn mà sử Tàu xưa chồng chất lên nhau.
Thế nên chúng tôi nhờ một hoạ sĩ cóp theo hai quyển sách địa lý, một của Pháp, một của Trung Hoa dân quốc, và quý vị nhìn vào là thấy ngay. Năm dãy núi đó, chạy từ Đông sang Tây Nam, từ Ninh Phố đến Nam Tứ Xuyên, và tên là Ngũ Lĩnh.
Trong Việt Nam Văn Học toàn thư, tác giả là ông Hoàng Trọng Miên, có cho vẽ một bức dư đồ Ngũ Lĩnh. Theo bức dư đồ đó thì Ngũ Lĩnh là một dãy núi độc nhứt có năm đèo, trong khi sự thật nó là năm dãy núi kế tiếp nhau, và chỉ có bốn đèo thôi.
Lĩnh là núi, ngũ lĩnh là năm núi, không thể là năm đèo được. Mà giữa năm núi, chỉ có thể có bốn đèo mà thôi.
Làm thế nào để có năm đèo được giữa năm dãy núi kế tiếp nhau? Làm một bài toán nhỏ thì đủ thấy là chỉ có bốn đèo. Hoặc cứ vẽ ra một bức hoạ thô sơ, thì ta cũng thấy được là chỉ có bốn đèo chớ không thế nào mà có năm đèo.
Đất ở phía Nam của năm dãy núi ấy cũng lại được đặt tên là đất Ngũ Lĩnh.
Nhưng đất Ngũ Lĩnh có biên giới phân minh, chớ không phải là vô bờ bến như các sử gia Pháp và Việt hiểu lầm.
Phía Bắc là nước của Tần Thỉ Hoàng, phía đông là biển cả, phía Tây là Ba Thục, tức cũng là đất của nhà Tần, phía Tây Nam là đất Chơn (Vân Nam), phía Nam vô cùng quan trọng, vì sự ngộ nhận xảy ra ở đó, và sự rối loạn bắt đầu ở đó.
Phía Nam là một thứ Ngũ Lĩnh loại bỏ túi, tức là những dãy núi tại biên giới Hoa Việt ngày nay mà quý vị thấy rõ trong bức dư đồ, những dãy núi nầy tuy không quá hiểm trở như Ngũ Lĩnh chớ cũng là một chướng ngại đáng kể và được người xưa xem là biên giới tự nhiên cho một vùng đất: vùng Ngũ lĩnh (xin xem lại dư đồ nước Tàu).
Thấy rõ là đất Ngũ Lĩnh đích thị là địa bàn của những quốc gia Bách Việt mà Khổng Tử đã nói đến trong Xuân Thu, nhưng không có cổ Việt Nam, tức không có Âu Lạc.
Bức dư đồ cho thấy như vậy, sách địa lý Tàu ngày nay cho biết như vậy, mà cổ sử Tàu cũng xác nhận như vậy. Quả thật thế, trong quyển thứ ba của Đại Việt Sử Ký toàn thư ngoại kỹ, Ngô Sĩ Liên viết “Năm Bính Tý (136 S.K.), năm đầu hiệu Vĩnh Hoà đời Hán Thuận Đế, Thái thú Chu Xưởng cho Giao Châu là ở xa 9 châu, ở ngoài Bách Việt, dưng biểu xin lập ra Phương Bá.
Thế là thật rõ, về mặt chủng tộc học, ta cứ là Bách Việt, nhưng người Tàu từ Ngô Khởi cho tới Chu Xưởng, hiểu Bách Việt theo lối khác. Bách Việt đối với họ thuở đó, là dân của đất Ngũ Lĩnh, không có cổ Việt Nam trong ấy.
Tần không kể Cổ Việt vào Bách Việt không phải vì ngỡ rằng Cổ Việt là dân khác, mà vì nó quá xa, chưa liên lạc với Tàu, Tàu không thèm biết tới nó là một cõi giang san riêng, cách Ngũ Lĩnh bằng cái tiểu Ngũ Lĩnh loại bỏ túi nói trên.
Đất Ngũ Lĩnh được xem là một vùng đất có biên giới rõ rệt ở cả phía Nam nữa.
Thế mà rồi vì vài quyển sách Tàu, vì vài ông Tây lầm mà rồi bao nhiêu sử gia ta đều cho rằng nhà Tần đã đánh chiếm ta, Tây Âu và Tượng Quận gì cũng đều nằm trong nước ta cả thì thật khó chấp nhận.
Danh xưng Bách Việt, nghe tưởng nhiều lắm thì có thể có ta trong đó. Mà quả thật có ta trong đó về mặt khoa học. Nhưng nhà Tần chỉ đánh chiếm được có đất Ngũ Lĩnh mà thôi. Chúng tôi sẽ có nhiều chứng minh vững hơn chứng minh trên đây nhiều lắm, rằng nước ta không nằm trong đất Ngũ Lĩnh và nhà Tần không hề có đánh chiếm nước ta, vì họ đuối sức, hay vì lẽ gì không rõ. Có vài quyển sử Tàu viết rằng vì An Dương Vương đầu hàng nên được để yên. Nhưng có lẽ vì Tần đuối sức và sự đầu hàng của An Dương Vương chỉ là một dịp để Tần rút quân mà không mất mặt, chỉ có thế thôi.
Nhưng riêng chúng tôi lại hiểu hơi khác. Hạ Chí Tuyến (tropiques du Cancer) nằm ngang Phiên Ngung. Dân Tàu chưa chịu đựng nổi khí hậu ở dưới Hạ Chí Tuyến là khí hậu nhiệt đới, thế nên họ mới bằng lòng nhận sự đầu hàng của An Dương Vương và dừng bước lại ở Tây Âu mà không tiến xuống nữa, chớ không phải vì họ đã thật kiệt quệ sau khi bị Tây Âu đánh rát quá.
Cứ theo vào Hoài Nam Tử thì dân Tây Âu đã giết hết 100 ngàn quân Tàu, nhưng họ vẫn còn tới 400.000 quân, tức thừa sức đánh hoài, nhưng họ không đánh vì họ biết là lính Hoa Bắc chịu đựng không nổi khí hậu ở dưới Hạ Chí Tuyến.
Ba quốc gia Bách Việt ở đó mà Khổng Tử đã chép 99 năm trước, cũng được sử nhà Hán kể tên thật rõ, đó là Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu mà bức dư đồ của ông Hoàng Trọng Miên lại bỏ Đông Âu và Mân Việt ở trên Ngũ Lĩnh, trong khi sử Tàu chép rằng đánh Ngũ Lĩnh xong họ mới cướp được cả ba nước Đông Âu, Mân Việt và Tây Âu. Cho đến tên vua của ba quốc gia ấy cũng được chép, và những cuộc rối loạn nội bộ của họ, thì quân, chúa gì, đều được Tàu biết rõ và ghi chép đủ cả, trong khi đó thì họ tuyệt đối không biết gì hết về đất Âu Lạc, trừ cái tên An Dương Vương, và hoàn toàn mù mịt về Văn Lang, trừ nhà vua mà họ không biết cả quốc hiệu, chỉ gọi là vua của dân Lạc (Lạc Vương).
Sự kiện mù tịt của Tàu về Cổ Việt thời đó đã cho thấy rằng Tần không có đánh Cổ Việt, vì cái lẽ giản dị rằng không có đạo quân xâm lăng nào mà lại dám đánh một nước mà họ không thạo sử địa và tình hình dân chúng, địa hình, địa thế cả.
Tuy bao nhiêu đó đã đủ, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục chứng minh để không còn ai cãi được nữa cả.
Biết địa lý ở đó rồi, biết sử thời đó rồi, thì tưởng không còn làm sao mà cho rằng cổ Việt Nam đã bị chiếm và được đặt tên là:
1. Tượng Quận
2. Tây Âu
Xin nhấn mạnh một lần nữa rằng sử chép rõ là binh Tần đánh đất Ngũ Lĩnh, chớ không có nói mơ hồ là đánh phương Nam. Và sử lại chép rõ rằng Tần chỉ chia thành quận huyện có ba quốc gia mà ai cũng biết, chớ không có chia một quốc gia thứ tư nào hết.
Đây là một điều kỳ dị đến khiến ta muốn phát khùng. Sử Tàu chép rõ ràng là họ đánh chiếm được có ba quốc gia, và chia ba quốc gia ấy thành quận, huyện. Cả ba quốc gia đó đều có tên, và không có tên nào trùng với quốc gia của ta cả, thế mà rồi hàng trăm sử gia Tàu đời sau, và Tây, Nhật, Việt đều cứ hiểu là có ta trong đó là thế nào?
Tuy nhiên, sự ngộ nhận của họ, xét kỹ ra, cũng có căn cứ chớ không phải là họ điên khùng và hiểu bậy bạ như kẻ mất trí đâu. Ngộ nhận xảy ra là vì vụ Thục Phán xuất binh từ Tây Âu đến diệt quốc Văn Lang, rồi đặt quốc hiệu của Văn Lang lại là Âu Lạc.
Họ tưởng Âu Lạc bị sáp nhập với Tây Âu, mà sở dĩ họ tưởng như vậy vì Tư Mã Thiên đã viết liều là có một nước tên là Tây Âu Lạc, cái địa danh không bao giờ có, được Tư Mã Thiên bịa ra, khiến cho thiên hạ ngỡ là có sáp nhập.
Nhưng nếu học sử thật kỹ về đoạn đó rồi thì ta thấy ngay là Tư Mã Thiên đã viết liều, địa danh ấy không có bao giờ và sự kiện sáp nhập Tây Âu với Âu Lạc không bao giờ có xảy ra.
Đây là dịp mà ta cần biết Thục Phán là ai, mà từ xưa đến nay không sử gia nào tin là tên Phán ấy là con của vua Thục, mặc dầu thiên hạ tôn kính sử Tàu đến mê muội, nhưng trường hợp nầy, sử Tàu viết đúng lại bị họ nghi ngờ.
Cách đây không lâu, một nhà bác học Trung Hoa, ông La Hương Lâm, có nghiên cứu một nhóm người thiểu số ở Quảng Tây mà Tàu gọi là Khách Gia và khám phá ra rằng Khách Gia đích thị là người Ba Thục di cư xuống nước Tây Âu, sau khi bị Tư Mã Thác diệt quốc.
Chúng tôi không có tài liệu đó để xem ông ấy trưng bằng chứng cách nào, nhưng đồng thời với ông ấy, chúng tôi cũng nghiên cứu về người Khách Gia, ngay tại Chợ Lớn.
Từ Quảng Tây sang Chợ Lớn, người Khách Gia (Quảng Đông đọc là Hạc Cá) được Pháp gọi là Hakkas, nhưng Nam Việt gọi là Hẹ, vì họ tự xưng là Hẹcka, tức họ nói tiếng Tàu sai giọng, Hẹcka bị thu lại thành Hẹ.
Như đã nói, để làm chương Ngôn ngữ tỷ hiệu, chúng tôi phải học tất cả ngôn ngữ Á Đông. Ban đầu chúng tôi ngỡ họ là người Tàu ở Quảng Tây, tức người Tây Âu xưa bị đồng hoá, nhưng hỏi họ, và tra lại sử Tàu, thì không phải thế, mà lại đúng y như nhà bác học Trung Hoa trên kia đã nói. Họ còn nhớ là tổ tiên của họ đã từ Ba Thục đi xuống, mặc dầu câu chuyện đã cũ hơn hai ngàn năm rồi.
Hiện họ nói tiếng Tàu, sai giọng cố nhiên, nhưng y như người Quảng Đông, người Mân Việt, người Triết Giang, họ còn giữ được non một trăm danh từ của họ mà ở chương Ngôn ngữ tỷ hiệu chúng tôi còn gọi là cổ ngữ Ba Thục. Cổ ngữ Ba Thục, xem ra chỉ là ngôn ngữ Mã Lai, y hệt như cổ ngữ Tây Âu, cổ ngữ Mân Việt, kim ngữ Chàm chớ không có gì lạ hết.
Cái nhóm Hẹ nầy tưởng phải được nghiên cứu tỉ mỉ hơn các nhóm khác, vì họ có dính líu với cổ sử của ta và ta đã ngộ nhận rối ren về đoạn sử nước nhà, chỉ vì bọn nầy.
Cho tới ngày nay, không ai tin rằng con của vua Thục (Thục vương tử) lại đi xa đến thế để đánh chiếm nước Văn Lang và tự xưng là An Dương Vương, mặc dầu sử Tàu có chép như vậy.
Nhưng sau cuộc khám phá của các nhà chủng tộc học Tây phương rằng cổ Ba Thục là dân Thái, rồi tiếp theo đó, nhà bác học Trung Hoa La Hương Lâm xác nhận khám phá trên, không còn chối cãi được rằng quả An Dương Vương là con vua Thục.
Nhưng tưởng cũng nên nói rõ thêm vài chi tiết mà các ông Tây và La Hương Lâm không biết, khiến có người còn hồ nghi.
Những sự kiện lịch sử trên đây không phải là do La Hương Lâm khám phá ra được. Chính ta cũng biết, nếu ta đọc kỹ cổ sử của Tàu.
Quả thật thế, Tả Truyện chép rằng sau khi Tư Mã Thác diệt nước Thục thì dân Thục (có lẽ chỉ là quý tộc Thục) bỏ xứ, sang nước Ba, rồi tràn vào nước Sở, nhưng không phải là xâm lăng, mà là để đi đâu nữa đó không biết.
Nước Ba đồng chủng Thái với họ, tuy đã bị Tàu trị rồi, nhưng đa số dân chúng chưa bị Tàu đồng hoá vào thuở ấy, vả lại nó quá nhỏ nên không có ngán (hay ngăn không được) cuộc đi qua ấy. Nhưng Sở thì ngăn quyết liệt, đánh bật họ ra.
Sở, vào thuở đó, hết là Kinh Man rồi, tự xưng là nước Sở, tức là bị đồng hoá sâu đậm và đã văn minh cao rồi. Một nước văn minh và cường thịnh thì không thể chấp nhận một cuộc đi qua của ngoại chủng.
Hẳn đó là một cuộc đi qua, chớ không cố ý xâm lăng, vì họ quá ít, Sở chỉ phái một toán quân nhỏ là đánh bật họ ra được rồi.
Nhưng họ đi đâu?
Dĩ nhiên là họ đi ở trọ với một cường quốc đồng chủng với họ là nước Tây Âu chớ không phải là đi Quý Châu, mặc dầu ở Quý Châu cũng là đất của người Thái, vì Quý Châu là đất núi non nghèo khó, khí hậu lại xấu.
Sử Tàu chép chuyện Con của vua Thục cướp nước của vua Lạc Vương, sử ta xưa chép lại nhưng không tin là con của vua Thục lại có thể đi xa đến thế, từ Tứ Xuyên xuống Cổ Việt Nam, nhứt là nước Thục đã bị diệt hàng trăm năm rồi, còn làm sao mà còn con vua Thục được. Chép lại nhưng không tin, các ông (như Ngô Sĩ Liên) cho rằng ông ấy họ Thục chớ không phải con vua Thục ở đâu dó, phía Bắc nước ta.
Ta còn nghi ngờ, vì cái sự kiện quá xa, và sự so le thời điểm gần một trăm năm. Nhưng cả hai yếu tố ấy đều có thể giải thích rõ ràng.
Ta đã và sẽ thấy rằng dân Thái có địa bàn liên tục từ Tứ Xuyên đến Quảng Đông và Quý Châu, vì đất xấu, nên chỉ được xem là một hành lang liên lạc giữa hai đại quốc đồng chủng: Thục và Tây Âu.
Khi mất nước, người Thục hẳn phải chạy xuống Tây Âu chớ không thể chạy vào một quốc gia khác chủng được. Mà muốn tới Tây Âu họ chỉ phải đi qua có hành lang Quý Châu, chớ không có quá xa như ta tưởng tượng. Mà họ cũng khỏi phải đi bộ, nhờ con sông Tường Kha, sông nầy dùng được từ Quý Châu tới biên giới Quảng Đông nay. Theo Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sỹ thì khi bà Lữ Hậu muốn đánh Triệu Đà, bà không biết làm thế nào để tiến quân vì không có con đường đi, con đường mà quân của Tần Thỉ Hoàng đã dùng, không tiện và rất là mạo hiểm.
Một ông vua Thái ở Vân Nam, tên là Đường Mông vốn ghét Triệu Đà đã cướp đất Thái Tây Âu, bèn mách cho bà ấy con sông nói trên.
Các sử gia ta cứ nói Tứ Xuyên và Việt Nam quá xa, không thể đi được vào thời đó, nhưng thật ra thì con vua Thục đâu có đi thẳng từ Thục tới Văn Lang, mà ông ấy chỉ đi từ Thục tới Quảng Tây, qua hành lang Quý Châu nhờ sông Tường Kha.
Sở dĩ thoạt tiên họ mượn đường của nước Sở để bị đánh bật ra là vì hành lang Quý Châu có những nơi phải đi bộ, trèo núi cực nhọc, chớ không phải sông Tường Kha là con sông suôn sẻ từ đầu đến cuối. Nhưng rốt cuộc rồi họ cũng phải dùng cái hành lang Quý Châu đó vì bị Sở ngăn cản.
Rồi từ Quảng Tây đến Cổ Việt Nam tình hình chỉ là chuyện vượt biên giới.
Nhưng phải tốn thời gian, năm bảy mươi năm, và cái thời gian nầy làm cho các sử gia ta không hiểu được tiếng con vua Thục của sử Tàu, bởi năm bảy mươi năm qua thì con vua Thục phải đã chết già rồi.
Khi chúng tôi đi học cổ ngữ Ba Thục để viết chương Ngôn ngữ tỷ hiệu cho sách nầy, chúng tôi càng thấy rõ hơn là An Dương Vương quả đúng là con của vua Thục, vì Thục ngữ, Thái ngữ, Việt ngữ đều do Mã Lai ngữ mà ra cả.
Xin nhắc lại rằng nước Thục rất văn minh, ít lắm cũng bằng Trung Hoa vào thuở đó và có vài nét, họ hơn hẳn Trung Hoa vì thuở mất nước, họ đã biết nghề sơn mài, còn Trung Hoa thì chưa biết món tương Tàu, thật ra là phát minh của dân Thục. Đất Cao nguyên của họ là quê hương của đậu nành chớ không phải đất Tàu.
Di cư đến Hoa Nam, họ hoạt động rất mạnh, lập ra một thành phố lừng danh vào thuở ấy là Đại Phố, và hoạt động được nhờ sự kiện đồng chủng đồng ngôn ngữ với dân Tây Âu.
Họ tài ba lắm, nhưng không lấy nước lại được bao giờ vì khí hậu của Thục hợp với người Trung Hoa thuở ấy nên Hoa chủng di cư vào Thục rất đông, nên ảnh hưởng Trung Hoa ở đó quá mạnh, địa phương bị diệt quá nhanh chóng.
Ở Sài Gòn, họ cũng tài giỏi hơn tất cả các nhóm Trung Hoa khác, nhứt là về văn hoá. Trong 10 tờ báo hằng ngày, có đến sáu bảy tờ là của người Hẹ và tờ báo mạnh nhứt ở Chợ Lớn là của người Hẹ.
Muốn hiểu Con vua Thục, ta cần lập ra giả thuyết sau đây:
La Hương Lâm nói chuyện tổng quát, chớ thật ra thì chỉ có quý tộc Thục mới di cư còn dân Thục thì không. Một dân tộc đã văn minh cao, không hề bỏ nước khi bị xâm lăng. Họ ở lại để chờ dịp khởi nghĩa. Chỉ có dân kém mở mang mới tự thấy bất lực, bỏ nước đi tìm đất mới mà thôi.
Tả Truyện có chép chuyện đám di cư nầy bị nước Sở đón đánh tại Hồ Nam là đất Nam Sở. Đó là tài liệu cổ nhứt về con vua Thục di cư nhưng ít ai chú ý tới. Họ chọn đường Hồ Nam cho dễ đi. Nhưng gặp người Tàu lai Việt ở đó là Sở, khác giống, họ bị đánh bật ra, mà đành phải dùng con đường khó đi hơn là đường Quý Châu.
Quý tộc Thục hẳn đông hàng ngàn lại có thê tử và nô bộc và một mớ quân sĩ trung thành nữa, thành thử họ tuy không phải là dân, họ cũng có thể đông đến vài ba ngàn.
Nhưng Vua, Hoàng hậu, Hoàng tử và các Thế tử Thục đều bị tướng Tư Mã Thác của Tần giết chết rồi thì làm sao mà còn con vua Thục được?
Ta giả thuyết rằng một bà thứ phi Thục thoát nạn. Thứ phi thì dễ thoát, không như Hoàng hậu. Bà phi ấy đang mang thai. Tới Tây Âu một ít lâu, bà hạ sanh một đứa con trai.
Đó là con người rất quý báu mà quý tộc Thục rất cần để dựng lại cơ nghiệp về sau. Vì thế mà chú bé ấy không được xem là Con Vua Thục mà được tôn làm Vua Thục trong cộng đồng lưu vong Thục. Đó là Vua lưu vong bé tí hon.
Mặc dầu tài giỏi, bọn lưu vong vẫn chưa đủ sức vẫy vùng, nhứt là Tần lại quật cường, làm bá chủ Trung Hoa và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Vậy họ âm thầm đợi. Ông vua Thục lưu vong ấy chết đi, có thể để lại một đứa con trai, có thể quả thật tên là Phán như Ngô Sĩ Liên đã chép, nhưng không phải họ Thục như họ Ngô đã lầm. Hắn ta đích thị là con vua Thục, một từ ngữ có vẻ bí hiểm của cổ sử Tàu mà ta không tin, vì biết cha con của vua Thục đã bị giết từ năm 316 T.C. rồi. Nhưng vua đây, chỉ là ông vua lưu vong, chớ không phải là ông vua vong quốc và con là con của vua lưu vong đó, tức cháu nội của vua vong quốc.
Thế thì mấy tiếng “Thục Vương tử” đã được giải thích ổn thoả.
Năm mà kẻ tên Phán ấy 23 tuổi là năm 268 trước Tây lịch. Mười một năm sau, tức năm ông ấy 34 tuổi, ông ấy mới cất quân đánh Hùng Vương thứ 18. Đó là vào năm 257 T.K.
Năm ấy nhà Chu chưa bị diệt và chư hầu Tần vừa bị thua một trận lớn do Tin Lăng Quân của nước Nguỵ chủ phá.
Nhưng thời cuộc ở nước Tàu thật ra thì không liên hệ tới thời cuộc của vùng dưới nầy.
Do đâu mà Thục Vương tử mộ quân Tây Âu được? Bọn quý tộc có thoát được đông hàng ngàn, cũng chỉ là sĩ quan. Lính phải là người bản xứ.
Sự kiện những vua lưu vong được các nước tiếp khách giúp đỡ cho, không thiếu, trong lịch sử thế giới. Phương chi như đã nói, dân Thục lưu vong lại tài ba, hoạt động nhiều để được sự giúp đỡ ấy bằng cách giúp cán bộ cho cái nước Tây Âu ở Lưỡng Quảng. Nước Thục là nước phát minh nhiều thứ công nghệ như đã nói thì hẳn họ có nhiều cán bộ để cho vua Trạch Hu Tống mượn hầu đổi lấy quyền mộ binh.
Sự giúp đỡ của Tây Âu thật ra chỉ là việc nhắm mắt cho họ mộ quân bằng vàng mà họ mang theo.
Thục Vương tử đánh Hùng Vương để chi?
Nói nước Thục văn minh và hùng cường, nhưng dầu sao họ cũng đã bị Tần cướp nước, tức Tần còn giỏi hơn họ nữa. Trong tình thế đó, họ không hy vọng khôi phục lại cơ đồ thì chỉ còn cách cướp nước khác, vẫn hơn là ở trọ nước Tây Âu mãi. Cũng nên biết rằng người Hẹ được người Hoa Nam gọi là Khách từ thuở ấy cho tới bây giờ. Đó là khách được ưu đãi, nhưng vẫn cứ là Khách, không có quyền như chủ nhà.
(Dân ta cũng có danh từ “Khách” nhưng chắc chắn là danh từ của ta trỏ người Tàu mới đến sau khi Đinh Bộ Lĩnh thu hồi độc lập, còn người Khách của Tây Âu thì đã đến xứ ta với tư cách kẻ xâm lăng mà có lẽ tổ tiên ta phải gọi họ là chủ chớ không phải khách).
Vậy Thục Vương tử đã mộ quân được và sử liệu về sự thù hiềm hỏi vợ thất bại của Thục Phán, cũng là sự thật… ở bên ngoài. Kẻ tên Phán ấy chỉ mượn cớ đó để đánh Hùng Vương mà thôi.
Đó là một cuộc xâm lăng, nhưng kẻ xâm lăng, từ thủ lĩnh (Thục) đến lính (Tây Âu) đều đồng chủng với ta, chủng Mã Lai tức Âu, tức Thái, thế nên kẻ xâm lăng thắng trận rồi, không diệt Lạc Hầu, Lạc tướng hai cấp cán bộ của vua Hùng Vương, vì họ cũng có chế độ y như vậy và rất cần hai cấp đó. Họ cũng không đặt tên nước một cách mới lạ, mà đặt là Âu Lạc, tức nước mà dân Âu lãnh đạo dân Lạc, chớ không phải nước Tây Âu nhập với dân Lạc Việt. Nhưng chỉ có họp tên mà không có sáp nhập đất như H. Maspéro đã viết vì ông Phán không dại mà đi cướp đất để dâng cho Trạch Hu Tống hưởng.
Nếu có sáp nhập đất đai thì chỉ có một ông vua là vua Trạch Hu Tống, còn tên Phán thắng trận chỉ là tướng mà thôi. Nhưng sử Tàu chép rằng có hai ông vua cai trị song song với nhau vào thời ấy thì không làm sao có sáp nhập đất đai được.
Các sử gia, bắt đầu từ Tư Mã Thiên, đều hiểu lầm một cách vô lý rằng có sự sáp nhập đất đai, nhưng nếu có sáp nhập thì làm sao mà có hai ông vua cai trị song song với nhau tại hai nơi, và ông An Dương Vương vẫn toàn quyền độc lập chớ không hề là phó vương của Trạch Hu Tống.
Cổ sử Tàu xét ra thì rất rõ, chỉ tại các ông sử gia về sau suy luận tầm ruồng nên mới tưởng tượng ra sự sáp nhập đó, và Tư Mã Thiên lại đi xa hơn, tưởng tượng xong, họ Tư Mã lại bịa thêm một địa danh là Tây Âu Lạc để ngầm nói là có sáp nhập (nhưng lại bịa sai nguyên tắc là lấy tên một nước ghép với tên một dân tộc, chớ nếu bịa đúng thì phải là Tây Lạc mới được).
Có lẽ họ Tư Mã cho đó là đất man mọi, đã thành các quận huyện của Tàu rồi thì viết sao cũng được, có sai chút đỉnh cũng chẳng việc gì, bởi những nơi ấy sẽ là đất của Tàu một trăm phần trăm với các tên khác, chẳng ai buồn biết tới sử của các nơi ấy mà chi. Không dè nó lại không thành đất Tàu, và trái lại, nó có tham vọng biết chắc về nguồn gốc của nó, nó tò mò, lần dò, lục lạo tỉ mỉ, và làm cho lòi ra cái sự viết liều của ông ta.
Cũng xin nhắc lại rằng trong chương đó Tư Mã Thiên cũng chỉ dùng có một lần cái danh xưng bịa kỳ khôi ấy mà thôi, còn thì ông tiếp tục gọi đất phía Tây của Triệu Đà là Âu Lạc, chớ không nói lần thứ nhì là Tây Âu Lạc nữa, vì lẽ gì thì chúng tôi đã giải thích rồi: ông ta chợt thấy mình ghép chữ sai, nhưng không thể bôi xoá được mà cũng lười bỏ cả để viết lại trọn quyển.
Và cũng xin nhắc rằng Ban Cố thì lại khác, gọi phía Tây của Triệu Đà là Tây Âu. Nhưng hai ông đó không có sai, cũng không có mâu thuẫn với nhau.
Họ chỉ hai nơi khác nhau chớ không phải một.
Tư Mã Thiên: “Kỳ Tây, Âu Lạc…”
Ban Cố: “Tây hữu Tây Âu…”
Họ nói đến các vùng phía Tây của quận Nam Hải, các vùng đó giống nhau về phong tục, về y phục, Tây Âu và Âu Lạc đều có thói ăn, nếp ở như nhau, thì chỉ nước nào cũng được, cũng đúng cả, chớ không phải là họ xem hai địa danh đó đồng nghĩa, cùng chỉ một nước.
Và cũng xin nói rõ là Triệu Đà chỉ chiếm được có quận Nam Hải. Phần đất còn lại của nước Tây Âu được chính dân Tây Âu quật cường, quản trị và lãnh đạo. Ban Cố gọi các phần đất còn lại đó là Tây Âu, là gọi đúng chớ không phải sai. Như ở nước ta hiện nay ta mất hết miền Bắc, nhưng phần còn lại ở miền Nam cũng cứ được ta và các nước khác gọi là Việt Nam.
Mà cả ở miền Bắc họ cũng xưng họ là Việt Nam và các nước bạn của họ cũng gọi miền Bắc là nước Việt Nam.
Nhiều sử gia không hiểu cái lẽ đó nên quá bối rối về địa danh Tây Âu. Tây Âu đã bị Tần diệt rồi, rồi lọt vào tay Triệu Đà, cớ sao lại cứ còn Tây Âu mãi, khiến họ nghĩ Tây Âu là nước khác, mà cái nước khác đó chỉ có thể là Cổ Việt Nam.
Họ quên mất rằng Tây Âu của Tàu chỉ lọt vào tay Triệu Đà có 1/3, 2/3 còn lại được chính dân Tây Âu quật cường và lãnh đạo hoặc bị hai ông quận trưởng (Giám) ở đó lãnh đạo, cũng đồng cách với Triệu Đà là nổi loạn với chính quốc của họ, và cũng cứ còn được gọi là Tây Âu, vì Triệu Đà không có cướp địa danh, mà lấy địa danh khác là Nam Việt, tại huyện Long Xuyên.
Vì Tư Mã Thiên tiền hậu bất nhứt nên H. Maspéro thấy rằng danh xưng Tây Âu Lạc của Tư Mã Thiên không thể dùng làm chứng tích được, nên ông phải viết chữ nho kỳ dị:
Kỳ, Tây Âu Lạc…
để cho danh xưng đó xuất hiện một cách mà ông ấy tưởng là ổn thoả hơn.
Nhưng nếu ổn thoả tạm thì Tư Mã Thiên mới là ổn thoả, họ Tư Mã đưa ra cái danh xưng không có ấy là nói tắt theo Tàu rằng có sự sáp nhập đất đai của hai nước đó, sự kiện đúng hay sai không chưa biết, nhưng lối nói tắt của Tàu là như thế đó.
Người Tàu không ưa cắt nghĩa dài dòng. Đưa ra một danh xưng mới là đã nói thầm lên rất nhiều việc, không riêng gì Khổng Tử đã làm như vậy trong Xuân Thu, mà tất cả các tác giả Tàu xưa đều làm như vậy hết. Cả dân chúng cũng làm như vậy nữa.
Chẳng hạn dân chúng có lối tả kỳ dị như sau đây: Tỵ ẩm = Uống bằng mũi. Nhưng làm thế nào để uống bằng mũi được kia chớ?
Đó là họ tả người man di chưa biết dùng chén bát, cúi mặt xuống dòng nước để uống bằng… miệng, nhưng mũi chạm phải nước luôn luôn.
Kể ra thì họ cũng giỏi lắm, bởi không thể diễn cách nào khác hơn được để nói ra 24 tiếng mà chỉ phải dùng có hai chữ.
Ông H. Maspéro không biết lối ăn nói co rút như vậy nên ông không dám dùng danh xưng mà Tư Mã Thiên đã đưa ra, nhưng họ Tư Mã có đầy đủ lý do để tạo một danh xưng, chỉ có điều là lời giải thích thầm lặng, chứa đựng trong đó, không đúng với sự kiện mà thôi.
Đây là một điểm sử cần được phanh phui, vì có quá nhiều cuốn sử của Tàu và ta nói rằng có sự kiện sáp nhập đất đai giữa Tây Âu và Âu Lạc. Nhưng hai lý do mà chúng tôi đã đưa ra, đính chánh mạnh sự ngộ nhận đó. Xin nhắc lại hai lý do:
A) Tên Phán không dại mà chinh chiến khó nhọc để dâng kết quả cho Trạch Hu Tống, khi y chỉ là thường dân ở trọ, chớ không hề là quan là tướng của Trạch Hu Tống.
B) Sử Tàu nói là y xưng Vương và toàn quyền độc lập, không hề là phó vương của Trạch Hu Tống, như vậy thì không có thể có một cuộc sáp nhập lỏng lẻo nào hết.
Ta lại cần phanh phui điểm sử nầy vì bao nhiêu ngộ nhận về Âu Lạc và Tây Âu đều do danh xưng bịa càn Tây Âu Lạc của Tư Mã Thiên mà ra cả.
Nếu không có danh xưng bịa đó thì đâu đã ra đấy, ông H. Maspéro, ông L. Aurousseau, ông Trần Kinh Hoà, v.v. sẽ không hiểu lầm Tây Âu là Âu Lạc, là Tây Vu, là Thượng du Bắc Kỳ, v.v, và v.v.
Nhưng Tư Mã Thiên không là chánh phạm, tại các sử gia ấy thiếu tinh thần khoa học đó thôi, vì sử Tàu chép rõ rằng họ chỉ chinh phục được có ba nước chớ không phải bốn, rõ như ban ngày, thế mà các ông lại đưa một quốc gia thứ tư vào là Âu Lạc.
Mà cũng có ông hiểu rằng Tây Âu đích thực là Âu Lạc mới chết chớ. Nhưng hiểu như thế làm sao được, nước Âu Lạc chỉ nhỏ bằng bàn tay (nguyên văn của vua trào Trần) thì làm sao mà chứa nổi ba quận, mỗi quận lớn hơn cả toàn quốc Việt Nam ngày nay nữa.
(Một vài sử gia ta và Pháp cho rằng sử Tàu bịa ra An Dương Vương. Thử hỏi các sử gia Trung Hoa bịa ra An Dương Vương để làm gì? Và một nhơn vật chỉ xuất hiện một vài năm, còn có thể bịa được chớ một nhơn vật đã cai trị nửa thế kỷ thì không sao bịa mà khỏi bị người đồng thời hoặc các sử quan khác tố cáo.
Hơn thế, cái nhơn vật An Dương Vương đó không hề giúp cho Trung Hoa hãnh diện chút nào về phương diện nào hết thì họ không có lý do bịa ra ông ấy).
Thuyết về An Dương Vương trên đây không ổn nếu tin theo Tư Mã Thiên. Tác giả Sử Ký viết rằng Triệu Đà diệt An Dương Vương năm 180 T.K.
Thế thì vua An Dương Vương đã 100 tuổi rồi vào năm đó, thì còn làm sao mà đánh giặc được? Nhưng Tư Mã Thiên đã viết sai sự thật. Quả thật thế, Triệu Đà đã qua đời năm 137 trước Kitô kỷ nguyên. Ông ta ở ngôi được 70 năm. Đó là hai điểm chắc chắn. Như vậy năm ông ta diệt An Dương Vương và lên ngôi phải là: 137 + 70 = 207 trước Kitô kỷ nguyên. Năm 180 thì Triệu Đà chưa làm tri huyện (Uý).
Sai lầm rõ ràng nầy của Tư Mã Thiên, cho thấy rằng không phải luôn luôn Sử Ký viết đúng sự thật như nhiều sử gia đã tin và lấy Sử Ký làm tài liệu căn bản.
Xin “biên niên” lại tất cả mọi sự kiện để kiểm soát thử xem:
Nước Thục bị diệt năm 316 trước T.K.
Thục Vương tử lưu vong thứ nhứt sanh năm 315 -
Thục Vương tôn mà cũng cứ được gọi là
Thục Vương tử, tên là Phán sanh năm 290 -
Phán hưng binh để diệt Hùng Vương 18 năm 257 -
Phán lên ngôi lấy hiệu An Dương Vương năm 257 -
An Dương Vương bị Triệu Đà diệt năm 207 -
Nhưng không nên quên sự kiện nầy là Phán chỉ đặt lại tên của nước Văn Lang mà không bao giờ có sáp nhập Văn Lang vào Tây Âu.
Ta nên thử tưởng tượng ra điều nầy. Sau khi An Dương Vương diệt Hùng Vương 18 rồi thì chưa có danh xưng Âu Lạc mà cũng cứ chỉ có danh xưng Văn Lang mà thôi, và trong giây phút mà An Dương Vương nghĩ ra một danh xưng mới, cũng chưa có danh xưng Âu Lạc thì làm sao mà có được Tây Âu + Âu Lạc.
Trong cái giây phút đó thì An Dương Vương nghĩ đến hai giải pháp:
1. Nhập tên hai nước lại. Mà như vậy thì phải là Tây Văn hoặc Tây Lang.
2. Nhập tên hai dân lại. Như vậy thì: Âu + Lạc.
Ông đã chọn giải pháp thứ nhì vì giải pháp thứ nhứt ông không có quyền dùng cũng không được phép lạm dụng tên của một cường quốc đã cho ông ở trọ.
Không thể có giải pháp thứ ba là Tây Âu + Âu Lạc vì trong giây phút đó chưa hề có danh xưng Âu Lạc kể cả trong ý nghĩ thầm kín của ông ấy nữa.
Có thế nào mà cải Văn Lang lại thành Âu Lạc rồi mới có việc sáp nhập tên hay chăng? Không. Vì không có lý do, vả lại nếu có thì phải:
Tây Âu + Âu Lạc = Tây Lạc
chớ không không làm sao mà Tây Âu Lạc được cả.
Chúng tôi còn nhớ khi làng của chúng tôi là làng Tân Uyên nhập với làng quá nhỏ ở liên ranh, tên là làng Hiệp Hưng, hương chức hội tề của hai làng đã cãi nhau đến một năm mới xong cái tên mới của làng, khiến hành chánh tỉnh đã phải sốt ruột và thúc giục, cảnh cáo nhiều phen.
Người ta chọn năm tên tất cả:
1. Tân Uyên + Hiệp Hưng = Tân Hiệp
2. Tân Uyên + Hiệp Hưng = Tân Hưng
3. Tân Uyên + Hiệp Hưng = Hiệp Tân
4. Tân Uyên + Hiệp Hưng = Hưng Tân
5. Tân Uyên + Hiệp Hưng = Hiệp Uyên
Rốt cuộc danh xưng Uyên Hưng ra đời, từ 40 năm nay, vì dân làng Tân Uyên bám níu vào chữ Uyên quan trọng, nó tả địa hình của làng cạnh bên bờ vực cao của sông Đồng Nai.
Nhưng Hiệp Uyên thì không ổn vì dân làng Hiệp Hưng bám níu vào chữ Hưng của họ. Các tên khác thì quá xoàng như Tân Hiệp, Tân Hưng, v.v.
Tên của một làng tăm tối mà còn như thế đó, thì tên nước không phải muốn đặt sao thì đặt mà không kể đến quá nhiều yếu tố chống chọi với nhau. Phương chi Trạch Hu Tống lại là vua của một đại cường quốc đã hạ sát được tổng tư lịnh của đạo binh viễn chinh của Tần Thỉ Hoàng, thì ông ta hẳn có nhiều đòi hỏi, còn An Dương Vương vừa thắng trận, vừa có nước, không phải là dễ sai khiến.
Chỉ vào lúc Triệu Đà diệt An Dương Vương rồi thì mới có sáp nhập, nhưng lại sáp nhập dưới một cái tên mới lạ hoàn toàn: Nam Việt.
Ở đây, vấn đề Tượng Quận lại bỗng hoá ra hết quan trọng nếu chứng minh được rằng Tần không có chiếm Âu Lạc thì thuyết Tượng Quận là Cổ Việt Nam tự nhiên phải đổ vỡ, bởi hễ không chiếm Âu Lạc thì không làm sao mà biến Âu Lạc thành Tượng Quận được cả.
Nếu Âu Lạc có đầu hàng nhà Tần như vài quyển sử đã nói và An Dương Vương chịu làm quan Giám quận để được yên thân thì hẳn sử có chép đến quan Giám An Dương Vương, cai trị Tượng Quận, đằng nầy sử cứ tiếp tục gọi ông là vua nước Âu Lạc thì cũng không có vấn đề Tàu biến Âu Lạc ra Tượng Quận, không bằng chiến tranh, mà bằng sự ưng thuận của An Dương Vương.
Tưởng như thế, đủ chứng minh rằng Tây Âu hay Tượng Quận gì cũng không hề dính líu đến cổ Việt Nam.
Nhưng, như đã nói, Lão Cán đã trưng ra đầy đủ văn kiện cổ để chỉ Tượng Quận là ở đâu rồi thì suy luận nữa cũng bằng thừa.
Chúng tôi chỉ đưa thêm chứng tích để củng cố thêm tài liệu của Lão Cán mà thôi, vì tài liệu đó ít ai có để mà đọc, nhưng đọc chứng tích của chúng tôi tưởng cũng đủ, hơn thế nó lại mới lạ hơn của Lão Cán, Lão Cán chỉ chép tài liệu cổ trực tiếp còn chúng tôi thì trình tài liệu cổ gián tiếp, tuy là gián tiếp, nhưng rất vững.
Chúng tôi lại đi xa hơn Lão Cán là chứng minh được về sự kiện Âu Lạc và Tây Âu là hai nước khác nhau, và Tần không có bao giờ đánh Âu Lạc cả, trong khi Lão Cán chỉ chứng minh được về Tượng Quận mà thôi.
Bằng chứng thứ nhứt
Trước khi tìm được tài liệu cổ kim đính chánh Tượng Quận là cổ Việt Nam, và Tây Âu là Âu Lạc, chúng tôi có thử tìm, bằng toán pháp, và nay so lại thì kết quả của sự tìm tòi của chúng tôi ăn khớp với sự thật lòi ra ở những bằng chứng sử liệu Tàu.
Chúng ta nên viết tắt các tên quận đời Tần và các quận đời Hán đợt đầu như sau đây, các quận nầy đều ở Hoa Nam và trong đó có nước Tây Âu.
Nam Hải = NH
Tần Quế Lâm = QL
Tượng Quận = TQ
Nam Hải = NH
Uất Lâm = UL
Thương Ngô = TN
Hán đợt I Giao Chỉ = GC
Cửu Chơn = CC
Nhựt Nam = NN
Hợp Phố = HP
Nói đời Hán đợt đầu vì ở đợt đầu, Hán chưa chinh phục Hải Nam và chưa có hai quận Châu Nhai, Thiềm Nhĩ, nên mới có 7 quận thôi, chớ không phải 9 như Ngô Thì Sĩ đã chép sai.
Ta đặt ra phương trình sau đây:
TẦN HÁN
NH + QL + TQ = NH + UL + GC + CC + NN + HP + TN
Ta loại lần các quận trùng nhau ở cả hai vế. Vòng loại đầu, ta bỏ Nam Hải và Quế Lâm ở cả hai bên vì hai quận đó giống nhau ở cả hai đời Tần và Hán. Ta còn:
TQ = GC + CC + NN + HP + TN
Ta lại bỏ GC + CC + NN là đất cổ Việt vừa được tướng Hán là Lộ Bác Đức mới chiếm, đời Tần chưa có, ta còn:
TQ = HP + TN
Biết rằng Hợp Phố là quận đặt sau, cắt bớt đất Giao Chỉ và Nam Hải mà lập ra, ta bỏ HP. Vậy ta còn:
TQ = TN
Tượng Quận = Thương Ngô
Bài toán trên đây rất phù hợp với sử liệu đời Hán, vì sau cuộc thắng trận của Lộ Bác Đức thì Tượng Quận biến mất ở vùng đó mà Thương Ngô lại xuất hiện. Nếu không ai biết Tượng Quận và Thương Ngô ở đâu thì Thương Ngô là tên mới của Tượng Quận rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Đành rằng Giao Chỉ, Cửu Chơn, Nhựt Nam cũng mới xuất hiện, nhưng ai cũng biết đó là đất mới chiếm và ta biết vị trí, còn Thương Ngô thì tại không biết ở đâu thì Thương Ngô là Tượng Quận vậy. Hán không có chiếm đất nào mới hơn là Giao Chỉ, Cửu Chơn, Nhựt Nam, thì một danh xưng mới, phải là tên mới của một đất cũ mà danh xưng biến mất.
Lại xin nhắc rằng cái Tượng Quận bị cắt làm hai nhập vào Uất Lâm và Tràng Sa về sau đó là Tượng Quận đời Hán, không dính líu gì đến Tượng Quận đời Tần là Thương Ngô. Nhưng cả hai Tượng Quận nầy đều không khác nhau bao nhiêu như ta đã thấy ở ám chỉ về nghiên cứu của Lão Cán.
Nay truy ra thì Thương Ngô nằm giữa Vân Nam và Quảng Tây ở sát Hạ chí Tuyến; về mặt Bắc của Hạ chí tuyến.
Thương Ngô sản xuất rất nhiều voi, mà nếu quả Tượng Quận là quận có nhiều voi thì Thương Ngô không trái với sự kiện voi.
Toàn thể các nhà bác học đều bị ám ảnh vì loài voi, nhưng chưa chắc nhà Tần đặt tên như thế là vì loài thú đó. Dưới thời Xuân Thu, ở nước Vệ có Tượng Ấp, nhưng nước Vệ ở mãi tận Hoa Bắc, nơi đó không có con voi nào cả thì bảo sao?
Nhưng nếu muốn voi, cứ được voi, vì dầu sao Thương Ngô cũng vẫn là nơi sản xuất voi chớ không riêng gì “Bắc Kỳ”, mà còn trái lại nữa. Bắc Việt chưa bao giờ có nhiều voi, từ cổ đến kim, nơi đó không hề nổi danh vì voi.
Nhưng một tài liệu cổ Trung Hoa mà chúng tôi moi ra, cho biết Tượng là gì. Đó là một điều mà không ai chú ý đến cả.
Sách Lễ Ký, chương Vương Chế, cho biết rằng người Tàu các đời Hạ, Thương, Chu, gọi
phương Đông là Kỳ,
phương Nam là Tượng,
phương Tây là Đích Đề,
phương Bắc là Dịch.
Lễ Ký lại còn cho biết thêm rằng dưới đời Chu có một chức quan tên là Tượng tư, quan ấy có nhiệm vụ trông nom việc bang giao với các man di ở phương Nam.
Vậy Tượng Quận chỉ có nghĩa là một quận ở phương Nam, chớ chẳng liên hệ gì tới voi cả mà bao nhiêu học giả cứ nói đến voi mãi.
Còn cái huyện Tượng Lâm của quận Nhựt Nam (Huế) thì mới có thể là huyện Rừng Voi, vì quả ở đó có voi nhiều và nghĩa cũ của chữ Tượng = Phương Nam cũng đã mất rồi vào năm nhà Hán đặt tên cho huyện Tượng Lâm.
Tới đây thì các ông quả quyết rằng Tượng Quận là Nhựt Nam, vì ở đó có huyện Tượng Lâm, là những ông quả quyết liều.
Viết sử bằng cảm giác Tượng là voi không có gì nguy hiểm bằng.
Danh từ Tượng bị hiểu lầm là voi, giống tiếp đầu ngữ Austro bị hiểu lầm là Úc Châu, nhưng cả hai chỉ có nghĩa là Phương Nam.
Bằng chứng thứ II
Bằng chứng nầy của ông L. Bézacier, nguyên quản thủ các di tích lịch sử Việt Nam cho tới năm 1944: “Tất cả những ngôi mộ cổ của quan Tàu ở Đông Dương, toàn là mộ đời Hậu Hán về sau (tức từ sau Mã Viện). Không hề có mộ Trung Hoa cổ từ thời Mã Viện về trước”.
Thế nghĩa làm sao? Rất dễ thấy sự thật. Từ đời Tần cho đến Mã Viện, không có quan Tàu sang nước ta. Nếu nước ta là Tây Âu, là Tượng Quận như các ông nói thì họ đã có chiếm, đã có quan của họ chết và được chôn ở đó, và mộ quan phải còn.
Cũng không hề có dân Tàu di cư như các ông O. Jansé và Nguyễn Phương đã quả quyết rằng có, mà đừng tưởng rằng vì dân di cư nghèo làm mộ đất mà không có dấu vết. Chính ông O. Jansé đã quả quyết rằng họ là rể của Lạc Tướng, Lạc Hầu, thì họ phải là những nhơn vật Hoa Kiều rất quan trọng.
Suy luận viển vông, dựa vào sử liệu gián tiếp không sao thắng nổi khoa khảo cổ. Nhưng buồn cười lắm là chính ông O. Jansé làm công việc đào mồ cuốc mả, nhưng ông lại không biết thấy sự thật lịch sử ở đó, để cho người khác thấy là ông L. Bézacier, ông O. Jansé đã không thấy lại còn kết luận ngược lại là từ đời Chu đã có người Tàu đến làm rể của các lãnh chúa (chefs féodaux) ở cổ Việt Nam rất đông. Có lẽ là Thi Sách, chồng bà Trưng chăng?
Bằng chứng thứ III
Bằng chứng nầy lại càng mạnh hơn vì đó là sử của Tư Mã Thiên.
Chúng tôi thấy là Tư Mã Thiên viết sai sự thật rất nhiều. Tuy nhiên, cũng có vài điểm họ Tư Mã viết đúng, chớ không phải điểm nào cũng sai hết.
Về việc Tần đánh Ngũ Lĩnh tới đâu thì ta có thể tin Tư Mã Thiên được vì ta kiểm soát chặt chẽ thì thấy ở đoạn đó Tư Mã Thiên không vô lý ở điểm nào hết.
Thế nên vừa công kích mạnh Tư Mã Thiên ở các trang trước ở đây chúng tôi lại đưa Tư Mã Thiên ra để làm nhân chứng với tinh thần vô tư và không thành kiến với sử gia đó, cái nào ông ấy sai thì cứ công kích thẳng tay, nhưng cái nào ông ấy đúng thì cần nghe theo ông ấy, không sợ bị mắng là khen chê bất nhứt.
Một người viết một bộ sử dày hàng ngàn trang, tất nhiên cũng viết đúng được chút ít, ta không nên thấy người ấy sai nhiều điểm quá rồi gạt quyển sử của người ấy ra một cách bất công.
Câu sử quan trọng chỉ đích xác Tượng Quận ở đâu, do chính ông L. Aurousseau tìm ra, nhưng ông lại không dùng câu ấy được, đúng theo nghĩa của nó, vì ông không hiểu câu đó muốn nói gì.
Sử Ký của Tư Mã Thiên có một câu ngắn khẳng định về biên giới cực Nam của Ngũ Lĩnh dưới đời nhà Tần. Theo Sử Ký thì sau khi chiếm xong Ngũ Lĩnh, biên giới cực Nam của nhà Tần là nơi mà thiên hạ cất nhà day cửa về hướng Bắc.
Tư Mã Thiên đã dùng từ ngữ bí hiểm là “Bắc Hộ” để diễn cái ý trên đây. Ông L. Aurousseau là giáo sư chữ Nho, ông hiểu “Bắc Hộ” là cất nhà day cửa về hướng Bắc, nhưng ông lại không biết cái thiên văn sai lầm mà Tư Mã Thiên đã biết. Hơn thế, ông không hề nghe nói có một nơi nào mà dân chúng cất nhà kỳ dị như vậy, nên ông cho là Tư Mã Thiên bịa, nên ông bỏ qua, đi phỏng đoán cho sai sự thật.
Theo khoa thiên văn thật đúng thì trên trái đất, vào những giờ trưa và vào vài ngày nào đó trong một năm, nói đích xác là vào những ngày Hạ chí (Soistice d’été) có những nơi mà con người thấy mặt trời nằm ở hướng Bắc của họ.
Người Tàu đã biết điểm thiên văn ấy rồi, vào thuở đó. Nhưng những nơi ấy là những nơi nào thì người Tàu chỉ bắt đầu biết chắc vào đời Tần mà thôi, bằng cách đặt Nhật Khuê (Ngomon) tại Phiên Ngung, sau khi chiếm trọn Ngũ Lĩnh. Có lẽ đó là lý thuyết thiên văn của Hy Lạp mà người Tàu học được, nhưng họ có kiểm soát lại, không biết họ bắt đầu kiểm soát từ thời nào, nhưng họ chỉ thành công sau cuộc chinh phục của Tần Thỉ Hoàng mà thôi và họ thấy rằng lý thuyết ấy đúng, vì khi đặt nhật khuê tại Phiên Ngung thì họ thấy hiện tượng đó xảy ra.
Đó là nơi mà ngày nay khoa thiên văn gọi là Hạ chí Tuyến Bắc (Tropiques Nord du Cancer). Hạ chí Tuyến Bắc chạy ngang thành Phiên Ngung, ở dưới Quảng Đông tỉnh lỵ ngày nay chừng một cây số.
Tư Mã Thiên chỉ mới biết tới đó mà thôi rồi ông chết đi. Những kiểm soát về sau, do Mã Viện thực hiện, ông không được hưởng.
Đám trí thức Tần nằm nhà, nghe tin sự thành công khoa học ấy, bày ra cái huyền thoại nầy là dân ở đó cất nhà day mặt hướng Bắc vì họ suy luận theo lối Tàu rằng hễ khi mà mặt trời nằm ở hướng Bắc của con người thì hẳn con người phải day cửa hướng Bắc để hưởng mặt trời. Họ không biết rằng hiện tượng ấy chỉ xảy ra có vài ngày trong một năm, và có vài giờ trong vài ngày đó, thì dân không dại gì mà cất nhà như vậy.
Huyền thoại “Bắc Hộ” chắc không phải do Tư Mã Thiên bịa ra, nhưng ông đã dùng huyền thoại đó trong Sử Ký.
Tư Mã Thiên không phải là một người nằm nhà, ông đã đi nhiều nhứt trong các sử gia Tàu, nhưng ông tự thú rằng về phía Nam, ông chỉ đi tới Giang Hoài (Sử Ký). Như vậy, ông dùng huyền thoại là chuyện dĩ nhiên, bởi ông không thấy cảnh vật Phiên Ngung.
Soạn giả Sử Ký chết đi với cái huyền thoại thứ nhứt đó.
Rồi Mã Viện lớn lên, đi viễn chinh, kiểm soát lại, và một huyền thoại thứ nhì lại ra đời.
Xin nhắc rằng sử nhà nước của Tàu chép rằng Mã Viện đuổi theo tàn quân của hai bà Trưng đến Cư Phong diệt được họ rồi thôi.
Nhưng những quyển sử không chính thức, thí dụ quyển Thủy Kinh Chú, thì lại chép tỉ mỉ rằng Mã Viện còn đi nữa, đi cho tới cực Nam của quận Nhựt Nam mới thôi, cái phần sau đó Thủy Kinh Chú viết rất dài, chớ không phải chỉ có 6 chữ như Hậu Hán thư.
Tác giả Thủy Kinh Chú, Lệ Đạo Nguyên, là một thứ sử Giao Chỉ. Suốt nhiệm kỳ của ông ấy, ông không có làm gì quan trọng cả, mà dân ta cũng không có nổi loạn, nên sử Tàu không hề nói đến tên ông, sau sắc phong thứ sử. Nhưng ông có viết một quyển sách rất quan trọng đối với dân ta, đó là quyển Thủy Kinh Chú, trong đó việc Mã Viện đi xa xuống phương Nam, được ghi chép tỉ mỉ từng li, từng tí, khó có thể nói rằng ông bịa. Sở dĩ sử nhà nước không chép đoạn sử ấy vì một bí mật quốc gia của Tàu sẽ được tiết lộ ở chương Bí mật Mã Viện.
Mã Viện không có đánh ai cả, từ Cư Phong đổ xuống, nhưng ông có hai sứ mạng khoa học mà chúng tôi chỉ kể ra đây sứ mạng thứ nhứt mà thôi, là đặt nhật khuê để kiểm soát thêm về lý thuyết thiên văn nói trên.
Mã Viện đã đặt thêm hai nhật khuê, một ở Giao Chỉ và một ở Huyện Tỵ Ảnh, quận Nhựt Nam.
Vài quyển sử ta viết về phong tục người Chàm, thường nói đến vụ cất nhà day mặt hướng Bắc của người Chàm. Họ viết theo các sử gia Tàu sai lầm, chớ sự kiện ấy không hề có bao giờ.
Sự thật khoa học nầy, Mã Viện chỉ biết có 1 phần 10, vì hiện tượng ấy kéo dài cho đến đường xích đạo, tức cách Phiên Ngung 5 ngàn cây số, cách Nhựt Nam 4.000 cây số.
Mã Viện rất cẩn thận, và ông biết rằng hiện tượng mặt trời ở hướng Bắc của con người vào buổi trưa, chỉ xảy ra có vài giờ trong vài ngày của một năm mà thôi.
Thấy rõ là sự hiểu biết về thiên văn của người Tàu vào thuở đó còn thô sơ lắm; và chính vì thế mà ông L. Aurousseau cho rằng Tư Mã Thiên bịa nên không dùng câu đó làm tài liệu, bởi trên thực tế, không ai lại dại mà cất nhà day mặt hướng Bắc để chỉ hưởng lợi được có mấy tiếng đồng hồ trong vài ngày của mỗi năm.
Mà cũng tại ông L. Aurousseau không biết cái trình độ kém về thiên văn của Tư Mã Thiên, chớ nếu ông biết, ông đã cố tìm hiểu Tư Mã Thiên.
Mã Viện chợt thấy Tư Mã Thiên sai:
1. Không có ai cất nhà day mặt về hướng Bắc cả, bất kỳ ở đâu.
2. Nhiều nơi khác cũng đồng tánh cách với Phiên Ngung. Họ Mã đã đặt Nhật Khuê ở Giao Chỉ và Tỵ Ảnh. Vì thế mà chỗ đó mới được đặt tên là huyện Tỵ Ảnh. Tỵ Ảnh là trốn hình bóng của mình hoặc bóng của mình trốn mất, hoặc mình che bóng của mình vào giờ Ngọ vì ở Hoa Bắc vào giờ Ngọ thì bóng của con người ngã dài ra về hướng Bắc tức mặt trời ở hướng Nam con người chớ không có tình trạng Đứng bóng như ở Việt Nam. Tỵ Ảnh dịch thật đúng từ ngữ Đứng bóng của ta.
Cái quận Nhựt Nam (gồm huyện Tỵ Ảnh) sở dĩ trước kia được Lộ Bác Đức đặt tên như vậy vì họ Lộ nghe đồn ở đó con người ở phía Nam của mặt trời còn nhiều hơn ở Phiên Ngung nữa.
Lộ Bác Đức cũng là một viên tướng nằm nhà. Diệt Triệu Đà xong, ông ta tiếp tục chánh sách của Triệu Đà, tức gởi đại diện Tàu xuống cai trị vùng dưới, vùng Cổ Việt, mà không hề dám ra khỏi thành Phiên Ngung vì sợ cái nóng nhiệt đới.
Thế nên đặt tên quận, huyện, ông ta phải căn cứ trên lời đồn. Ông nghe đồn rằng ở dưới Cửu Chơn, hiện tượng mặt trời lại còn ở phía Bắc con người nhiều hơn ở Phiên Ngung nữa, nên ông tách quận Cửu Chơn quá dài thành hai quận, phía dưới là Nhựt Nam, có nghĩa là mặt trời của phương Nam rất độc đáo, chớ không phải là mặt trời nằm ở phía Nam con người, vì như đã nói, càng đi xuống, mặt trời càng ở phía Bắc của con người vào mùa Hạ chí.
Tóm lại, Tư Mã Thiên chỉ biết có tình hình khí tượng Phiên Ngung là nơi mà nhà Tần đã thí nghiệm xong. Nhưng nếu họ Tư Mã biết nhiều hơn thì ông ấy cũng sẽ nói Phiên Ngung là nơi “Bắc Hộ”, vì biên giới là một lằn mức mỏng như sợi chỉ, chớ không thể là một phần đất dài 5.000 cây số được. Như vậy muốn lấy thiên văn để chỉ cái lằn mức đó, người viết sử chỉ có thể dùng hai nơi là nơi bắt đầu và nơi cuối cùng vì hai nơi đó có tánh cách tiêu biểu, tánh cách tượng trưng. Nơi cuối cùng là đường xích đạo, nơi bắt đầu là thành Phiên Ngung.
Ngày xưa ở Trung Hoa (mà cho cả ở Địa Trung Hải cũng thế) những nhà sử địa thường dùng thiên văn để định vị trí của những nơi xa xôi đối với xứ của tác giả.
Như vậy Tư Mã Thiên không có làm việc trái đời chút nào hết, mà làm đúng theo phương pháp thuở đó khi lấy hai tiếng “Bắc Hộ” để chỉ biên giới cực Nam của nước Tàu dưới đời Tần, sau trận Ngũ Lĩnh.
Chỉ rắc rối là cái khoa thiên văn ấy chỉ mới được kiểm soát lần đầu vào nơi bắt đầu của vùng nhiệt đới dài mười ngàn cây số mà thôi, vùng nầy chạy từ Phiên Ngung cho đến đường xích đạo là lên tới cực điểm rồi hạ xuống lần lần cho tới Nam Chí Tuyến (tropiques du Capricorne), chạy ngang giữa xứ Úc Đại Lợi, tổng cộng là 10 ngàn cây số là hết và phiền nữa là sự kiểm soát ấy lại bị huyền-thoại-hoá với vụ “Cất nhà day mặt hướng Bắc” ly kỳ ấy.
Chúng tôi nói rằng chỉ có thể dùng hai nơi là Hạ Chí Tuyến Bắc (tropiques Nord du Cancer) và đường xích đạo để làm nơi tiêu biểu cho lằn ranh giới. Nhưng có thế nào mà Tư Mã Thiên lại làm sai phương pháp, lấy một lằn mức ở Giao Chỉ hay không?
Không, bởi vì sử Tàu chỉ nói đến việc đặt nhựt khuê tại Phiên Ngung dưới đời Tần mà không nói đến việc đặt ở nơi khác như đã nói vào thời Mã Viện.
Câu sử trên đây giải quyết một lượt đến hai vấn đề: Tượng Quận và Tây Âu. Khi biên giới cực Nam của Tàu mà nằm tại Hạ chí tuyến Bắc thì Tần không có chiếm Âu Lạc, vì Hạ chí Tuyến Bắc là Phiên Ngung.
Người đặt tên cho quận Nhựt Nam cũng bí hiểm không kém Tư Mã Thiên vì Nhựt Nam cũng gây ngộ nhận.
Thứ nhứt, hai tiếng Nhựt Nam đã làm cho nhiều người hiểu sai rằng ở đó mặt trời ở phía Nam con người, mà thật ra thì ở đó mặt trời ở phía Bắc của con người vào mùa Hạ chí.
Đã bảo Nhựt Nam là Mặt trời phương Nam độc đáo. Nhưng làm sao mà hiểu như vậy cho được chớ?
Các ông Tàu dùng chữ quá bí hiểm như vậy đó. Chính ở Hoa Bắc thì hiện tượng Nhựt Nam mới xảy ra hằng ngày, nếu hiểu theo nghĩa thông thường Nhựt Nam là mặt trời ở phía Nam của con người.
Cũng như hiện tượng ban ngày mặt trời bị mặt trăng che, họ gọi là Nhật thực tức Mặt trời ăn. Sự thật thì chính mặt trăng ăn mặt trời ấy chớ, và phải gọi là Nguyệt thực mới đúng cho. Còn như muốn dùng chữ Nhật thì phải nói Nhật bị thực mới ổn.
Lại còn Tỵ Ảnh nữa. Thật ra thì chỉ có tại đường Xích đạo mới có thể đặt tên là Tỵ Ảnh, còn đứng về mặt tương đối thì chính huyện Tượng Lâm tỵ ảnh nhiều hơn huyện Tỵ Ảnh, bởi huyện Tỵ Ảnh ở trên Tượng Lâm khá xa, tức ít Tỵ Ảnh hơn Tượng Lâm nhiều lắm.
Thấy rõ là họ đặt địa danh bậy bạ hết, và ai tin rằng Việt Thường là đất của dân Việt Thường đời Chu Công Đán là lầm to.
Thứ hai, lối đặt tên bậy bạ như vậy đã gây ngộ nhận cho vua Tàu một cách buồn cười và ngộ nghĩnh.
Sử Tàu chép rằng một ông quan ở Nhựt Nam được sang Tàu, được chầu vua, và vua Tàu hỏi có phải ở Nhựt Nam thiên hạ cất nhà day cửa hướng Bắc hay không? Người Nhựt Nam trả lời rằng làm gì có cái việc kỳ lạ như vậy, mỗi người day cửa theo hướng tiện lợi thôi chớ, như ở gần sông day cửa xuống sông, gần biển day cửa ra biển mà biển thì ở hướng Đông.
Ở đây sự ngộ nhận lại chạy sang nẻo khác nữa và người mình lại hoan hô ông Nhựt Nam ấy dữ lắm. Nguyên vua Tàu có tục bắt các phiên thần day về hướng Bắc để tỏ ý thần phục vì hướng mà Trung Hoa cho là tốt, là đáng nhìn, là hướng Nam. Vì vậy mà người mình ngỡ câu hỏi của vua Tàu có ẩn ý muốn biết người Nhựt Nam quả có thần phục nước Tàu đến mức mà cả toàn dân đều thực hiện cái lịnh day mặt hướng Bắc hay không, còn câu đáp của ông Nhựt Nam cũng có ẩn ý rằng dân Nhựt Nam không thần phục Trung Hoa.
Đó là một ngộ nhận, chớ thật ra, vua Trung Hoa chỉ hỏi thật tình vì kém thiên văn và địa lý, còn ông Nhựt Nam cũng chỉ đáp thành thật mà thôi.
Ta lại ngộ nhận một lần thứ ba nữa, ta khen người Nhựt Nam đó biết binh vực cho tinh thần bất khuất… Việt Nam. Nhưng thật ra thì Nhựt Nam là đất Chàm, mà ai cũng cứ tưởng là đất Việt. Ta sẽ thấy rõ ở chương Chàm. Nếu có kẻ nào binh vực cho nước nào thì cái nước được binh vực là nước Chàm chớ không phải là nước Việt.
Nhưng không có ai binh vực ai cả, vì kẻ đó là người Tàu.
Cái ông Nhựt Nam đó tên là Trương Trọng, không phải là người Việt Nam hay người Chàm. Ông ta là người Tàu và được bổ nhiệm làm quan ở Nhựt Nam. Có dịp về Lạc Dương chầu vua Tàu, nên mới có câu chuyện trên đây.
Như vậy thì không có vấn đề “ái quốc”, vấn đề “binh vực thể thống quốc gia” như vài nhà học giả ta đã đưa ra để ca ngợi Trương Trọng. Đó chỉ là một ngộ nhận của vua Tàu, cả vua Tàu và Trương Trọng đều thành thật. Chỉ có ta là ngộ nhận thêm rằng vua Tàu quá tin nơi sự thần phục của “man di”, còn “man di Trương Trọng” thì lại biết binh vực màu cờ xứ sở Việt Nam. Trương Trọng là người Tàu đi trị man di, còn Nhựt Nam cũng không phải là đất của Việt Nam vào thuở đó, hay nói cho đúng ra đó là thuộc địa mới của vua Hùng Vương, người Chàm còn đông đặc ở đó.
Người Tàu Trương Trọng binh vực màu cờ Việt Nam làm gì, khi ông là người Tàu di cư đến Hợp Phố và đi trị Chàm?
Kết luận: Nhà Tần không bao giờ có đánh chiếm đất Bắc Việt ngày nào hết, câu sử của Tư Mã Thiên đã đính chánh mạnh tất cả mọi thuyết.
Chúng tôi không hề nhắm mắt mà tin Tư Mã Thiên như có một số sử gia đã tin, nhưng riêng câu sử trên kia thì Tư Mã Thiên phải được tin bằng lời bởi chúng tôi đã đưa ra nhiều sự kiện khác để chứng minh rằng nhà Tần không hề có chiếm Cổ Việt, tức Tư Mã Thiên bị kiểm soát cẩn thận.
Theo Ngô Sĩ Liên thì vào đời Đường và đời Tống, Trung Hoa lại kiểm soát lại một lần nữa tại Giao Châu và Lâm Ấp. Và đây là nguyên văn họ Ngô:
“Tống dựng nêu (ngomon) tại Lâm Ấp thì nhìn thấy mặt trời ở phía Bắc cây nêu 9 tấc 1 phân. Ở Giao Châu thì bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc 3 phân.
Nhà Đường đo bóng mặt trời ngày Hạ chí. Ở Giao Châu thì bóng ở phía Nam cây nêu, y như vào đời Tống”.
Nên biết rằng Ngô Sĩ Liên viết chữ Tàu nên phần trên của câu chuyện nầy có thể gây ngộ nhận, vì chữ Tàu là một thứ văn tự nói không rành mạch. Làm thế nào mà người đời Tống có thể thấy mặt trời ở phía Bắc cây nêu 9 tấc 1 phân được? Nói như ở phần sau là thấy bóng mặt trời (ở phía Nam) tức thấy bóng cây, thì ai cũng hiểu được hết.
Hễ bóng cây ở phía Nam (theo đoạn sau) thì mặt trời phải ở phía Bắc, nhưng sự kiện mặt trời ở phía Bắc không thể thấy được thì không nên viết như thế ở đoạn trước. Mà Tàu thì lại viết như thế về đủ cả vấn đề, khiến ta đọc sách Tàu nhức đầu lắm.
*
* *
Ở chương sau chúng ta sẽ biết thật rõ hơn nước Tây Âu về mặt chủng tộc học. Ở đây, chỉ tạm khẳng định rằng nước ấy chẳng dính líu gì hết đến Cổ Việt tức đến Âu Lạc.
Dầu sao đất của An Dương Vương cũng còn ở ngoài vòng đô hộ của nhà Tần, và nước Trung Hoa không bao giờ có chiếm Cổ Việt trong cuộc viễn chinh của Đồ Thư như bài nghiên cứu dài 72 trang khổ lớn của ông L. Aurousseau đã muốn chứng minh, và nhiều sách ta chép theo.
Đây chỉ là sự thật lịch sử chớ không vì tự ái quốc gia hay gì gì khác, bởi vua Tần Thỉ Hoàng vẫn hãnh diện cho ta hơn là thua An Dương Vương. Nhưng ta đã nhận có bị An Dương Vương chinh phục vào thuở đó là vì sự thật mà thôi.
Bị Tần Thỉ Hoàng chinh phục, không xấu hơn là bị Thục Phán chinh phục chút nào, trái lại, còn vinh diệu hơn, vì Tần sử dụng đến nửa triệu quân còn Thục Phán thì chỉ dùng có ba mươi ngàn. Nhưng chúng tôi cứ nỗ lực phủ nhận cuộc chinh phục của Tần Thỉ Hoàng là chỉ vì sự thật.
Bằng chứng thứ IV
Đây là bằng chứng cuối cùng và quyết định, có giá trị hơn cả vụ Bắc Hộ huyền hoặc của Tư Mã Thiên nhiều lắm.
Quyển sách độc nhứt có tả rõ chiến trường Ngũ Lĩnh của Tần Thỉ Hoàng là quyển Hoài Nam Tử của Lưu An, và câu sử quan trọng nhứt cho biết Tần Thỉ Hoàng đánh tới đâu, nằm rõ trong đó.
Câu sử ấy đã được hầu hết các sử gia ta trích dẫn, nhưng họ chỉ dùng về mặt khác mà không bao giờ chú ý đến chiến trường, thế nên họ trích sót cái đoạn quan trọng nhứt mà chúng tôi sẽ trích ra đây. (Một ngày trước khi đưa cho nhà xuất bản tập bản thảo nầy thì tôi thấy có một vị có trích đoạn đó, đó là giáo sư Nguyễn Đăng Thục trong tạp chí Sử Địa cuối năm 1970. Nhưng giáo sư lại có chú thích. Giáo sư trích đoạn đó, nhưng chẳng dùng nó để chứng minh cái gì, có lẽ vì lúc dịch, tiện tay dịch hết câu vậy thôi, nhưng lời chú thích lại khiến người muốn dùng sẽ hiểu khác. Chúng tôi viết những dòng nầy khi rượt theo nhà xuất bản để ghi thêm vào, và để nói rõ rằng chúng tôi chú thích khác và câu sử đó quan trọng lắm, khi chú thích đúng).
Đây, mấy chục chữ tối quan trọng đối với lịch sử ta: “Sai Uất Đồ Thư xuất 50 vạn quân, chia làm 5 đạo, một đóng ở Đàm Thành, một đóng ở Cửu Nghi, một đóng ở Phiên Ngung, một chận ở đất phía Nam, một đóng ở sông Dư Can”.
Những địa danh ở câu trên đây đều được ta biết, đại khái Dư Can ở Quảng Tây, Phiên Ngung ở Quảng Đông, Cửu Nghi ở Hồ Nam, Đàm Thành thì có tự điển cho rằng cách phía Tây Phiên Ngung không xa nhưng giáo sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Đàm Thành ở tận mãi trên núi Ngũ Lĩnh thì hơi khả nghi vì từ Ngũ Lĩnh đổ lên là đất của Tần, man di Việt có thua cũng không dám chạy lên đó mà phải đóng quân nơi đó. Nhưng Đàm Thành ở đâu, chú thích sai hay đúng không quan trọng.
Quan trọng nhứt là đất phía Nam mà trong nguyên văn là Nam dã.
Ông Nguyễn Đăng Thục chú thích rằng Nam Dã là Dự Chương.
Nhưng nếu là Dự Chương thì đất ấy lại cũng ở phía trên. Hai ông Lê Chí Thiệp và Phạm Văn Sơn cho rằng Dự Chương là Vũ Xương ngày nay, còn sách địa lý của Jean Brunhes thì vẽ Dự Chương ở xa hơn vào phía trong, cách Vũ Xương lối 500 cây số.
Nhưng theo Tối tân Trung Quốc phân tỉnh đồ là sách giáo khoa của Tàu ngày nay, tức sách đáng tin cậy. Dự Chương nằm ở phía Nam hồ Động Đình, cách hồ nầy vài chục cây số, tức ở trên Ngũ Lĩnh rất xa. Như vậy thì nhà Tần không có lý do nào cả mà đóng một cái nút ở đó, vì như đã nói, nếu man di có thua thì chạy xuống chớ không điên rồ mà chạy vào nước Tàu.
Hơn thế, cứ nhìn kỹ vào trật tự của câu văn thì thấy rõ rằng Nam Dã không thể nào là Dự Chương. Lưu An là một bậc danh nho, nổi danh về văn học hơn là nghề làm vua vùng phía Nam sông Hoài thì ông không thể nào mà để Dự Chương nằm xen giữa hai địa điểm Quảng Đông. Ông nói về phía trên xong thì nói đến Dư Can và Phiên Ngung ở phía dưới. Ông không có lý do mà thêm một vị trí ở trên là Dự Chương vào hai địa danh Dư Can và Phiên Ngung, vì viết như vậy không còn trật tự gì nữa hết. Nói chuyện phía Bắc xong rồi thì nói chuyện phía Nam là hữu lý, nhưng cớ sao lại nhét một vị trí Bắc vào giữa hai vị trí Nam?
Không rõ giáo sư Nguyễn Đăng Thục tự ý chú thích như vậy hay căn cứ trên sách nào. Có lẽ là theo một sách rất cổ chăng, vì đối với nhà Chu thì bất kỳ nơi nào ở Nam Sở cũng bị gọi là Nam Dã được hết thì gọi Dự Chương là Nam Dã là gọi đúng. Nhưng nó không còn đúng nữa trong trận đánh của Đồ Thư mà Nam Dã đã hoá ra Bắc Dã rồi.
Lưu An sống vào đời Hán, mà đời Hán thì Dự Chương thuộc Hán Trung, tức là Trung Dã, hoặc Bắc Dã chớ không thể là Nam Dã.
Hai tiếng Nam Dã mơ hồ đó không phải là một địa danh nào mà chỉ là một danh từ, chỉ đất phía Nam của Phiên Ngung, trỏ đất Cổ Việt, nói cho thật đích xác đó là cái tiểu Ngũ Lĩnh loại bỏ túi thấy trong bức dư đồ khi nãy.
Cả ba nhơn vật Đồ Thư, Lưu An và Lộ Bác Đức đều không biết gì về nước Âu Lạc, nên họ phải dùng một danh từ, mà không dùng địa danh. Lộ Bác Đức là tướng Nam chinh mà cũng không ra khỏi thành Phiên Ngung thì Lưu An chỉ cần gọi phía dưới là “Đất phía Nam” là đủ rồi.
Ngăn chặn ở biên giới đất phía Nam chỉ có thể hiểu là ngăn chặn tại biên giới Tây Âu và Âu Lạc, nói theo ngày nay là biên giới Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam.
Tại sao lại ngăn? Ngăn để tận diệt quân Tây Âu, không cho họ rút lui. Và ngăn để An Dương Vương không thể cấp cứu Tây Âu. Tại sao An Dương Vương lại phải tiếp cứu Tây Âu? Vì ơn nặng mà An Dương Vương đã thọ lãnh của vua Trạch Hu Tống, của nước Tây Âu.
Thế thì một lần nữa, một sử gia khác, cho biết cái nơi dừng quân cuối cùng của Tần Thỉ Hoàng. Đó là Hạ chí Tuyến Bắc, tức Phiên Ngung.
Đã bảo Tàu Hoa Bắc vốn là dân xứ lạnh, quen chịu khí hậu lục địa, không thể nào mà ở được dưới Hạ chí Tuyến vào thời đó mà đánh xuống đó cho mất công.
Về sau nầy thì được, mà đó chỉ là dân Quảng Đông và Phúc Kiến di cư, hai dân đó vốn nằm ngay tại Hạ chí Tuyến, cơ thể quen được với vùng nhiệt đới phần nào, chớ vào thời cổ thì quân lính toàn là người Hoa Bắc.
Tất cả người Tàu di cư xuống Đông Nam Á đều là người Quảng Đông và Phúc Kiến, ai tìm được một người Hà Bắc hay Hồ Bắc hay Thiểm Tây ở Đông Nam Á, chúng tôi dám đưa đầu ra cho họ chặt.
Còn đây là chuyện phụ. Câu sử của Lưu An trong Hoài Nam Tử được các sử gia Pháp, Việt, Nhật thường trích dịch nhưng chúng tôi e là có chỗ nghi ngờ.
Thí dụ quý vị ấy dịch là “quan Uý Đồ Thư”, quan “Giám Sử Lộc”.
Dưới đời nhà Tần, quan Uý ở dưới quyền quan Giám thì tại sao quan Uý Đồ Thư lại là thượng cấp của quan Giám Sử Lộc được?
Có sách (sách Tàu) giải thích rằng Uý là Hiệu Uý. Nhưng dưới thời ấy lại chưa có chức Hiệu Uý, là chức của đời Hán.
Bản in Hoài Nam Tử mà chúng tôi có trong tay, quá tốt, địa danh và nhân danh đều được họ đánh dấu riêng để cho đừng lầm với danh từ. Cứ theo bản in của chúng tôi thì chữ Uý là nhân danh, mà khi Uý là nhân danh thì phải đọc là Uất. Ông ấy họ Uất, tên Đồ Thư, chớ không phải họ Đồ, tên Thư và làm quan Uý.
Và cũng cứ theo bản in của chúng tôi thì Sử là động từ còn Giám là nhân danh. Sử Giám Lộc là sai, ông Giám Lộc chớ không phải là ông ấy họ Sử tên Lộc, làm quan Giám.
Lưu An nói rằng đó là quân của Tần Thỉ Hoàng đánh với quân Việt và toàn thể sử gia Việt Nam đều hiểu: Việt đó là Việt Nam. Nhưng đâu có phải như vậy. Tất cả dân Ngũ Lĩnh đều được gọi là Việt vào thuở ấy (Bách Việt kia mà) và mãi cho tới năm nay (1970) dân Quảng Đông cũng cứ còn được gọi là dân Việt và giọng đọc tiếng Tàu của Quảng Đông được sách giáo khoa Tàu gọi là Việt ngữ.
Việt đó có phải là Việt Nam hay không thì chắc chắn là không, vì sử Tàu có viết rằng dân Việt đó là dân của nước Tây Âu mà Tàu cũng gọi là đất Lục Lương, tức đất của dân cứng đầu cứng cổ. Tàu có gọi ta như thế bao giờ đâu.
Và nước Tây Âu là nước của dân nào thì lát nữa ta sẽ biết đích xác. Họ không phải là Việt Nam.
Nhượng Tống đã chưởi Giám Lộc tắt bếp vì sử Tàu ghi rằng Giám Lộc là người Việt, khiến ông tưởng Giám Lộc là Việt Nam phản quốc. Đã bảo bất kỳ dân nào ở Hoa Nam cũng bị gọi là dân Việt hết kia mà.
Đây là nguyên văn câu sử độc nhứt và quan trọng vào bậc nhứt để biết rõ giai đoạn cổ sử Việt Nam đó.
Chúng tôi đánh dấu theo sách Tàu mới, sách nầy cũng chấm phết y như sách Tây, lại có gạch những từ phải được xem là nhân danh chớ không phải là danh từ thường.
“… hựu lợi Việt chí tê giác, tượng xỉ, phỉ tuý, châu, cơ, nãi sử Uất Đồ Thư phát tiết ngũ thập vạn chi ngũ quân, nhứt quân trắc Đàm Thành chi lãnh, nhứt quân thủ Cửu Nghi chi tắt, nhứt quân cứ Phiên Ngung chi đô, nhứt quân thủ Nam dã chi giới, nhứt quân kiết Dư Can chi thuỷ, tam niên bất giải giáp thì nổ, sử Giám Lộc (vô dĩ) chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dỉ dữ Việt nhân chiến, sát Tây Âu quân Trạch Hu Tống, nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dử cầm thú xứ, mạc chỉ vi Tần cứ, tương trí kiệt tuấn đỉ vi tướng, vi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát Uất Đồ Thư phục thi lưu huyết sổ thập vạn, nãi phác trương tức dỉ bị chí”.
Với câu sử của Tư Mã Thiên và Lưu An và những gì chúng tôi đưa ra để bác bỏ các thuyết, ta đã làm sáng tỏ được:
1. Tần không hề đánh xuống khỏi Hạ chí Tuyến Bắc, tức Tây Âu không là Cổ Việt.
2. Tây Âu Lạc là một địa danh hoàn toàn không có.
3. Huyện Tây Vu không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.
4. Thượng du tả ngạn Nhị Hà không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.
5. Trạch Hu Tống là vua của Tây Âu, theo Lưu An chép. Khi Tây Âu không là Bắc Kỳ, không là Thượng du Bắc Việt thì Trạch Hu Tống chẳng dính líu gì tới Cổ Việt hết.
6. Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ, vì Tần Thỉ Hoàng không có chiếm Bắc Kỳ mà lại có chiếm Tượng Quận.
7. Không có chánh sách trồng người tại Cổ Việt Nam để đẩy dân Lạc Việt vào thế thiểu số.
Nhưng còn đến ba ông vua, ông Hùng Vương, ông An Dương Vương, ông Tây Vu Vương mà vài sử gia cũng làm cho rối nùi. Ta thử giải quyết Tây Vu Vương trước vì đó là một ông vua bé tí hon.
Tây Vu Vương chỉ là một quý tộc Âu Lạc được Triệu Đà để lại sau khi diệt An Dương Vương. Đó là chánh sách cổ điển được thi hành vào thuở đó cho tới thời Mã Viện, người Trung Hoa mới trực trị được dân ở đó. Phong tục, tôn giáo, pháp luật hai bên còn quá xa lạ nên luôn luôn họ cần người “rợ để trị rợ”.
Sử Tàu chép rằng sau khi diệt An Dương Vương rồi, Triệu Đà đặt hai điền sứ dễ kiểm soát cán bộ bản xứ còn được giữ lại là cấp Lạc Tướng. Ông Tây Vu Vương đã toan nổi loạn, sau khi Triệu Đà chết là một sứ giả đó, có thể ông ấy là em hay con cháu của An Dương Vương mà Triệu Đà, vì tình sui gia, tha chết cho, và ban cho một huyện Tây Vu để ăn lộc, nhưng cũng bị người Trung Hoa của Triệu Đà coi chừng, kẻ coi chừng là phó tướng Hoàng Đồng, người đã giết ông ấy.
Ức đoán nầy, xem ra có lý, vì ông phó tướng được ghi tên trong sử còn ông vua thì lại không. Ông phó tướng Hoàng có vẻ Trung Hoa lắm, còn ông vua thì “man di” nên không được kể đến, tên ông phải phiên âm phiền phức nên người chép sử bỏ luôn.
Các ông Tây, ông Tàu đồng hoá Tây Âu và Âu Lạc một cách độc đoán nên mới tạo hỗn độn ở đoạn sử nầy. Tây Vu nằm trong Âu Lạc chớ không phải trong Tây Âu. Còn Tây Âu và Âu Lạc thì không có bằng chứng là một, lại có bằng chứng là hai. An Dương Vương ở đâu chưa rõ, đến đánh diệt Hùng Vương, rồi sử Tàu chép rằng: “Đó là đất Âu Lạc vậy”. Một địa danh mới hoàn toàn được phân biệt với địa danh Tây Âu. Không ai được quyền đồng hoá hai danh xưng đó vào thời ấy.
*
* *
Vua Hùng Vương (hoặc nếu không có tên đó thì vua Lạc Vương) dĩ nhiên không làm sao mà là Trạch Hu Tống được như vài sử gia đã viết vì bị rối trí bởi những suy luận, những giả thuyết viển vông của hai ông H. Maspéro và L. Aurousseau, vì cái lẽ giản dị là nước Tây Âu không bao giờ là Cổ Việt Nam, cũng không bao giờ có việc sáp nhập đất đai.
Sự thật thì quả Âu Lạc hàm cái ý Âu với Lạc nhập lại, nhưng chỉ là nhập trong tưởng tượng chớ không có nhập đất đai, vua An Dương Vương là người nước Thục di cư xuống nước đồng chủng là nước Tây Âu, và sống ở đó hai thế hệ, nên ông tự xem ông là người Tây Âu. Hơn thế lính mà ông mộ để xâm lăng Văn Lang của Hùng Vương toàn là người Tây Âu.
Như vậy khi cải quốc hiệu Văn Lang thành ra Âu Lạc, ông chỉ muốn ngầm nói rằng đó là nước của dân Lạc, nhưng do dân Âu lãnh đạo, nhưng không có sự kiện sáp nhập Âu Lạc vào Tây Âu bao giờ.
Quả thật thế, ông ta không hề là tướng của vua Tây Âu, và cuộc xâm lăng đó là việc làm riêng của ông ta, ông ta hưởng lấy, chớ sao lại khổ công mạo hiểm đi đánh giặc để rồi trao kết quả tốt lại cho nước Tây Âu hưởng là nghĩa làm sao?
Viết về đoạn sử đó, ông Phạm Việt Châu cho rằng đó là lần đầu tiên trong lịch sử mà hai nhóm Việt sáp nhập với nhau, nhưng không hề có việc sáp nhập vào thời đó. Trái lại, nếu có, cũng không phải là lần đầu tiên. Lần đầu tiên xảy ra cách đó 2.500 năm tại Hoa Bắc khi mà một nhóm Lê họp với một nhóm Lạc và được Tàu gọi là nhóm Lạc Lê.
Sự ngộ nhận âm thầm của sử gia Tàu và Việt là có sáp nhập Tây Âu và Âu Lạc được H. Maspéro viết rõ ra trên giấy trắng mực đen, nhưng ông ấy đã viết một điều quá vô lý vì chúng tôi vừa trưng ra bằng chứng không thể bác bỏ được là không thể có một sự sáp nhập như vậy vì hai lẽ:
1. Thục Phán chỉ là thường dân chớ không bao giờ là tướng của vua Tây Âu.
2. Như thế, y làm y hưởng, chớ không thế nào mà mạo hiểm để rồi dâng đất cho vua Tây Âu.
3. Sự kiện không có sáp nhập lộ rõ ra ở chỗ y làm vua, một ông vua trọn quyền độc lập, song song với vua Trạch Hu Tống của nước Tây Âu.
Ông H. Maspéro cũng kém tinh thần khoa học lắm khi ông quả quyết một điều vô lý. Nếu ông có thử đặt ra ba điểm trên đây để xét kỹ, hẳn ông sẽ tự trả lời ông, như chúng tôi đã quan niệm, và ông đã không viết liều như thế.
Dầu sao, trước H. Maspéro, Tàu và ta cũng đã hiểu lầm y như H. Maspéro rồi, mặc dầu không viết ra. Họ hiểu lầm như thế nên họ mới kết luận rằng hễ Tần Thỉ Hoàng chiếm được Tây Âu thì đương nhiên chiếm được Âu Lạc vì hai nước đó đã được sáp nhập lại rồi, và gọi Cổ Việt là Tây Âu, cứ được.
Tài liệu tham khảo riêng cho chương nầy:
Nguyễn Phương: Việt Nam thời khai sinh, Huế 1965
H. Maspéro: Étude d’histoire d’Annam, Hà Nội 1918
O. Jansé: Archeological Research in Indochina, H.Y.I 1946
L. Aurousseau: La première conquête chinoise des pays annamites, Hà Nội 1923
Khổng Tử: Xuân Thu, Bản dịch Legge
Ancourt: Les Annamites avant la dynastie des Hán
Lưu An: Hoài Nam Tử, Đài Loan
R. A. Stein: Trích dẫn Thuỷ Kinh Chú; Giao Châu ngoại vực ký, Phù Nam Ký, Lâm Ấp Ký về Cổ Việt, Tạp chí Hán Học, Bắc Kinh
L. Bezacler: L’armé e ancienne et l’art militaire du Việt Nam, Paris 1954
L. Bezacier: L’art Vietnamien, Paris 1954
Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Sài Gòn
Tả Khâu Minh: Tả Truyện, Bản dịch Legge
Phạm Việp: Hậu Hán thư, Đài Loan N.T.N.S.
Tư Mã Thiên: Sử Ký, Bản dịch E. Chavannes, Paris 1927
Nguyễn Siêu: Phương Đình dư địa chí, Sài Gòn
Phạm Văn Sơn: Việt sử tân biên, Sài Gòn
O.K. Ghéquier: La littérature chinoise, Paris
Trần Kinh Hoà: Tạp chí Đại học, Huế 1910
Nguyễn Hiến Lê: Bản dịch Ý lữ văn, Sài Gòn
Lão Cán: Tạp chí Lục Đồng biệt lực, Tứ Xuyên 1946
Ban Cố: Hán thư, Đài Loan N.T.N.S.
Ngô Sĩ Liên: Đại Việt Sử Ký toàn thư ngoại kỷ, Sài Gòn
R.A. Stein: Nước Lâm Ấp, Tạp chí Hán Học, Bắc Kinh 1947
R. Grousset: Histore de la Chine, Paris
Nguyễn Bá Trác: Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu, Sài Gòn
M. T. : Synchronisme chinois, Changhai 1905
Nhà Lưu Tống được sử gia Nguyễn Phương gọi là nhà Tống, gây lẫn lộn với nhà Tống thật sự sau nhà Đường.