MỤC LỤC
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: CÁC TRIỀU ĐẠI
Phụ lục 2: HỌ MẠC Ở HÀ TIÊN VÀ 10 BÀI THƠ VỊNH
Phụ lục 3: LOÀI VẬT, ĐỒ VẬT, ĐO LƯỜNG
Phụ lục 4: GIẢI NGHĨA MỘT SỐ TỪ NGỮ
Phụ lục 5: TỪ VỰNG NHÂN DANH
Phụ lục 6: TỪ VỰNG ĐỊA DANH
Bảng chữ viết tắt
PCGBC Petit cours de géographie de la Basse : Cochinchine
NKLTDĐC Nam Kỳ lục tỉnh Dư địa chí :
GĐTTC Gia Định Thành thông chí :
VSH Viện Sử học :
VHN Viện Hán Nôm :
Bt Chú thích : của Biên tập.
Các chú thích còn lại là của dịch giả và người hiệu đính.
TIỂU SỬ
Trịnh Hoài Đức (1765-1825) có tên gọi khác là An, tên tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai; tổ tiên gốc người huyện Trường Lạc, Phúc Kiến (Trung Quốc). Đầu đời nhà Thanh, ông nội là Trịnh Hội (hiệu Sư Khổng) di cư qua Việt Nam, ngụ tại Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay).
Cha Trịnh Hoài Đức là Trịnh Khánh, đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) được bổ làm Cai thu, sau được thăng Cai đội. Khi cha mất, Trịnh Hoài Đức mới 10 tuổi, sau theo mẹ dời vào Phiên Trấn (Gia Định - TP. Hồ Chí Minh ngày nay). Tại đây, ông theo học Xử sĩ Võ Trường Toản.
Năm Mậu Thân (1788), khi Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, Trịnh Hoài Đức cùng nhóm Lê Quang Định ra ứng cử, được bổ làm Hàn lâm viện Chế cáo. Năm 1789, ông nhậm chức Điền Tuấn sứ huyện Tân Bình. Sau đó, ông đổi qua bộ Hình, kế nhiệm chức Thị giảng Đông cung. Năm 1794 ông được bổ làm Ký lục dinh Trấn Định (Mỹ Tho ngày nay). Năm 1801, Trịnh Hoài Đức làm Tham tri bộ Hộ.
Năm 1802, Trịnh Hoài Đức được thăng Thượng thư bộ Hộ, làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Năm 1804, ông hộ giá Gia Long về Phú Xuân, vẫn đảm nhiệm chức Thượng thư bộ Hộ.
Năm 1802, Trịnh Hoài Đức được cử làm Hiệp Lưu trấn Gia Định. Năm 1808, Gia Định trấn được đổi thành Gia Định thành, Trịnh Hoài Đức được bổ làm Hiệp Tổng trấn.
Năm 1812, ông được triệu về kinh, cải nhiệm Thượng thư bộ Lễ, kiêm quản Khâm Thiên giám. Năm sau (1813), ông được chuyển sang làm Thượng thư bộ Lại. Đến năm 1816, ông lại được nhiệm chức Hiệp Tổng trấn Gia Định thành.
Năm 1820, thời Minh Mạng, ông tạm lãnh chức Tổng trấn Gia Định thành, sau đó được triệu về kinh, lãnh chức Thượng thư bộ Lại.
Năm 1821, Minh Mạng thăng cho Trịnh Hoài Đức hàm Hiệp biện Đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ Lại kiêm Thượng thư bộ Binh, trở thành nguyên lão của triều đình.
Tháng 3 năm 1822, ông được sung làm Chánh Chủ khảo trường thi Hội; tháng 11, ông kiêm lãnh Thượng thư bộ Lễ.
Tháng 7 năm 1823, Trịnh Hoài Đức xin về Gia Định nghỉ vì sức khỏe. Đến tháng 9 cùng năm, ông trở lại kinh lãnh chức Thượng thư bộ Lại và bộ Lễ. Tháng 10 cùng năm, ông trở về Gia Định liệu việc nhà. Tháng 3 năm 1824 trở ra kinh, lãnh chức Thượng thư bộ Lại kiêm quản Lễ bộ sự vụ. Tháng 7 cùng năm, ông được sung chức Tổng tài và quyền lãnh công việc ở ty Thương Bạc. Chẳng bao lâu, do bệnh nặng, tuổi cao, ông từ trần tại Quỳ Viên (3‑1825), thọ 61 tuổi.
Khi ông mất, triều đình cho bãi triều ba ngày, truy tặng ông làm Thái bảo, Cần Chánh điện Đại học sĩ (hàm Chánh nhất phẩm), đặt tên thụy là Văn Khác. Thi hài ông được đưa về chôn tại quê nhà: làng Bình Trước, huyện Phước Chánh, phủ Phước Long (nay là phường Trung Dũng, TP. Biên Hòa).
Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức gồm có:
- Cấn Trai thi tập gồm 3 tập: Thối thực truy biên tập, Quan quang tập, Khả dĩ tập.
- Gia Định Thành thông chí.
- Bắc sứ thi tập (có ý kiến cho rằng Bắc sứ thi tập chính là Quan quang tập trong Cấn Trai thi tập.
- Lịch đại kỷ nguyên.
- Khang tế lục.
- Gia Định tam gia thi tập: chung với Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh.
Đương thời, ông cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tĩnh được mọi người tôn làm Gia Định tam gia.
LỜI GIỚI THIỆU
1. Gia Định Thành thông chí là một bộ địa chí về vùng đất Nam Bộ xưa được Trịnh Hoài Đức kỳ công ghi chép vào đầu thế kỷ XIX. Theo Yang Baoyun - một nhà nghiên cứu của trường Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc: Có thể thận trọng nói rằng, việc biên soạn cuốn Gia Định Thành thông chí được tiến hành trong giữa các năm 1820 và 1822.
Những ai tìm hiểu về lịch sử - văn hóa Nam Bộ đều tham khảo bộ sách này. Việc tham khảo thường chỉ phải dựa vào các bản dịch, bởi nguyên bản rất khó tìm, hầu như đã thất truyền. Bản dịch sớm nhất có lẽ là Gia dinh thung chi dịch sang tiếng Pháp của Aubaret, năm 1863, chỉ những người biết tiếng Pháp mới dùng được. Duy Minh Thị có biên soạn Nam kỳ lục tỉnh Dư địa chí được Thượng Tân Thị dịch năm 1944, được xem là một dạng thoát thai của Gia Định Thành thông chí, ấn bản không nhiều. Thông dụng, phổ biến nhất là bản dịch của nhóm Tu Trai Nguyễn Tạo xuất bản năm 1972. Do xuất bản đã lâu, giấy in chưa tốt nên công chúng vẫn đang trông chờ một bản dịch khác, chuẩn xác và đẹp hơn. Năm 1998, Nhà Xuất bản Giáo dục xuất bản Gia Định Thành thông chí (Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, 1998) với giấy in đẹp, gồm dịch nghĩa và cả bản chữ Hán, có giải thích chữ khó và trình bày cẩn thận. Bản dịch này đã đáp ứng được nhu cầu thực tế, làm tài liệu tốt cho nghiên cứu, và giáo dục trong nhà trường; nhất là trong dịp các tỉnh thành ở Nam Bộ chào mừng 300 năm hình thành và phát triển.
2. Tuy nhiên, trong quá trình khảo cứu để biên soạn Địa chí Đồng Nai, người địa phương nhận thấy giữa các bản dịch nêu trên còn có nhiều điều chưa thống nhất và nhiều điều khác với thực tế. Việc này được nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng lưu ý, dày công tìm hiểu, tổng hợp sai sót ở các bản dịch trước thành 6 nhóm:
- Dịch nhầm địa danh.
- Dịch nhầm nhân danh.
- Dịch nhầm tên sản vật địa phương.
- Dịch nhầm ngữ nghĩa Hán văn.
- Chép thiếu hoặc sai nguyên văn.
- Lỗi morasse.
Lỗi morasse do kỹ thuật in ấn, ấy là chuyện thường tình, không kể. Đáng nói là 5 nhóm lỗi thuộc nội dung. Lỗi không ít. Chỉ xin nêu những trường hợp đáng lưu ý nhất để tham khảo, không nhằm chỉ trích bản dịch cụ thể nào.
2.1. Những trường hợp nhầm địa danh:
- Nguyên văn có địa danh Mỗi Suy, người địa phương gọi là Mô Xoài; Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của ghi là Mọi Xoài; Trương Vĩnh Ký (trong tác phẩm Petit Cours de Géographie de la Basse Cochinchine) ghi là Mô Xoài; thảy đều có thể hiểu được. Nhưng, dịch là Mỗi Xoài thì xa lạ với tên gọi của địa phương.
- Nguyên văn có địa danh Ba Cụm, tên của một vùng thuộc Chợ Đệm, Chợ Lớn, TP. Hồ Chí Minh hiện nay, do xưa có ba cây da chụm lại; có bản dịch ghi là Ba Khóm, người địa phương không hiểu là nơi nào.
- Sông Lá Buông chảy qua địa bàn xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, do ven sông có nhiều lá buông mà thành tên; tác giả Trịnh Hoài Đức ghi tên chữ là Bối Diệp, có bản lại dịch là sông Lá Bôn.
- Nguyên văn có địa danh Cái Vồn, địa điểm được mô tả nằm ở bờ Bắc bến phà Cần Thơ, trước kia còn gọi là Chợ Bà (chỉ bà Năm Lửa, vợ yêu của Năm Lửa Trần Văn Soái); dịch thành Cái Bồn là không đúng tên gọi địa phương.
Tương tự, rất nhiều chỗ dịch sai khiến tên gọi quen thuộc của địa phương thành địa danh xa lạ: Vàm Nao thành Vàm Giao; Láng Thé thành Lãng Đế; Cần Giuộc thành Cần Dọt...
2.2. Những trường hợp dịch nhầm nhân danh:
- Nguyên văn có câu: Ốc nha cao la hâm Mang, nghĩa là quan Ốc nha áo đỏ tên Mang (tiếng Khơme: Kralahâm có nghĩa là màu đỏ; quan Ốc nha áo đỏ là đại quan). Có dịch giả ghi Ốc nha Cao La Hâm Mang như là nhân vật ấy tên Cao La Hâm Mang quả thực không đúng.
- Nguyên văn có cụm từ: Chưởng tượng quân Nguyễn Đức Xuyên; có bản dịch ghi là Chưởng tướng quân Nguyễn Đức Xuyên, như thế không phù hợp; bởi vì không có chức danh chưởng tướng quân, chữ tướng có thể nhầm từ chữ tượng; chưởng tượng quân là người chỉ huy tượng binh trong quân đội chúa Nguyễn xưa.
- Nguyên văn có đoạn: Kỷ Mùi niên, tứ nguyệt, nguỵ tư võ Trần Tuấn, binh bộ Nguyễn Phác dĩ Qui Nhơn thành hàng. Có dịch giả dịch là: Tháng tư năm Kỷ Mùi, quân giặc là Võ Trần Tuấn cùng với binh bộ Nguyễn Đại Phác đem thành Qui Nhơn về hàng. Dịch như thế, chưa chính xác, vì tư (ti) võ là tên gọi khác của chức quan tư mã; trong cấu trúc câu trên, nó đối xứng với chức quan binh bộ. Đáng lẽ, dịch là: Tháng tư năm Kỷ Mùi, tướng giặc là tư võ Trần Tuấn cùng binh bộ Nguyễn Phác đem thành Qui Nhơn về hàng.
- Nguyên văn có câu: Thắng thủy hầu Mạc Tử Thảng, chữ thảng nghĩa là sóng to hoặc nước chảy xuôi; dịch giả nhầm chữ thảng với chữ thượng nên đã dịch nhầm tên nhân vật Thắng thủy hầu Mạc Tử Thượng.
2.3. Những trường hợp dịch nhầm về sản vật:
- Nguyên văn có tên Nôm ông luồng do người địa phương gọi con sấu ăn thịt người ở vùng sông Sốc Sãi Hạ, bản dịch ghi là ông Rồng là không đúng thực tế.
- Nguyên văn có từ ô lô, có thể đọc thành ô lư; nhưng trong trường hợp này, dịch thành ô lư thì người địa phương không hiểu cây gì; chính ra đó là cây ô rô, một loại cây quen thuộc ở vùng ngập mặn.
- Nguyên văn có câu: Diên giang thủy liễu âm sum; có sách dịch: Ven sông thì liễu nước mọc um tùm. Người Nam Bộ không hiểu liễu nước là cây gì. Thực ra, ấy là cây bần, cũng một loại cây quen thuộc của vùng rừng Sác Nam Bộ.
Tương tự, câu: Thủy mai đính ngọc, hương toán quải châu, được dịch là: Cây thủy mai rũ ngọc, quả hương tiễn đeo vàng. Dịch giả không sai nhưng lời dịch khó hiểu, lại tội nghiệp cho câu văn tài hoa của Trịnh Hoài Đức. Lẽ ra, cần dịch: Mù u rải ngọc, xoài cây treo vàng (thủy mai: Cây mù u; hương toán: Cây xoài).
Nguyên văn có từ chỉ trái hổ qua, theo tác giả miêu tả, ấy là trái dưa chuột (dưa leo); có dịch giả cho là dưa cọp, một tên gọi không có thực trong họ nhà dưa.
Nguyên văn có câu: Hà mễ, can lệ ngư, điền ư hàm. Sách dịch: Tôm, nỏn, cá lệ khô, mắm cá ruộng. Hà mễ là tên gọi của một món sản vật địa phương, người Quảng Đông phát âm là há mại, người Tiều Châu phát âm là hề bí, không có nghĩa là hạt gạo mà chỉ vật được phơi teo khô như hạt gạo, đó là tôm khô; (ví dụ: tề bí = trà mễ, tức là đọt trà khô). Can lệ ngư, cần được hiểu là thứ nước nhỏ giọt từ cá mà ra, chính là nước mắm; nếu dịch cá lệ khô khó ai biết được món gì. Ngư hàm, tác giả lấy chữ hàm là mặn, thêm bộ ngư, ý nói chất cá đem muối mặn, người địa phương gọi là mắm. Điền ngư, mặc dù điền nghĩa là ruộng, nhưng người địa phương không ai nói cá ruộng mà quen gọi là cá đồng. Như vậy, nếu dịch câu trên: Tôm khô, nước mắm nhỉ, mắm cá đồng mới đúng với sản vật địa phương.
Nguyên văn có câu: Đao ngư, đầu xuất trường cốt, nha thích như cự, nghĩa là: Cá đao, trước đầu mọc cái xương dài, hai bên mép có răng nhọn như răng cưa; chẳng rõ vì sao có bản dịch lại cho là con cá đối, một loại cá rất khác với cá đao.
Tương tự, ở những trang khác, dịch giả dịch cá ngừ thành cá sen, cá rựa ra cá dưa, cá bẹ (vị ngư) thành cá lanh, cá thòi lòi (phương ngư) thành cá vuông, cá buôi (buôi ngư) thành cá heo, cá kèo (hoa mạn ngư) cho là cá nan hoa, giác ngư nghĩa là cá chốt dịch ra cá giốc, con đẻn (man xà ngư) nhầm ra cá ngát, chim cú (phục điểu) dịch thành chim đại bàng, chim chìa vôi (choai choai) thành chim choi choi...
2.4. Những trường hợp nhầm lẫn ngữ nghĩa Hán văn:
- Ở câu: Chiêu Thái sơn vi trấn thành chi triều bình, có lẽ dịch giả hiểu nhầm chữ triều (vốn nghĩa là chầu) theo nghĩa danh từ là buổi sáng cho nên dịch: Núi Chiêu Thái làm bức bình che buổi sáng cho Trấn thành. Thực tế, núi Châu Thới ở hướng Tây Nam trấn thành Biên Hòa, không thể nào làm bình phong che buổi sáng cho trấn thành được. Đúng ra, nên dịch: Núi Châu Thới làm bức bình phong chầu về trấn thành (Biên Hòa).
- Nguyên văn có viết: Phủ thị đại giang, hành khách đăng lâm hữu tiêu sái xuất trần chi tưởng. Có sách dịch: Cúi trông sông lớn thấy hành khách leo lên có vẻ tiêu sái, thoát trần. Dịch như thế e rằng hỏng mạch văn của tác giả, nhầm chủ thể. Rõ ràng, câu văn có hai ý: Một là, ngọn núi (trên có chùa Vân Sơn) trông xuống sông lớn Phước Giang. Hai là, hành khách lên tới ngọn núi trông có vẻ tiêu sái, thoát trần.
- Nguyên văn viết: Cẩn thận hầu bị thương cổn hạ bào tẩu, xế thủ bích giá phốc đao sát tặc ngũ lục nhân. Có dịch giả cho rằng, phốc đao là con dao bửa củi nên dịch: ‘Cẩn thận hầu bị thương, lăn xuống bỏ chạy, lấy được con dao bửa củi ở vách giết được 5, 6 tên giặc. Phốc đao là một trong những loại binh khí của võ tướng xưa, đó là loại đao lưỡi nhỏ, cán ngắn hơn đại đao, có quấn dây kim loại, khó thể hiểu nhầm thành con dao bửa củi ở đây.
- Nguyên văn viết: Thị dạ ngụy hổ tướng Hãn, chiến thuyền nhị thập, tự Thán Tân phan mệnh tẩu hạ Cần Giờ dữ Định Tường gian tặc chi ngụy Chu, Thuận An giang tặc chi ngụy Ngạn, hiệp bôn hồi Qui Nhơn, nghĩa là: Đêm đó, ngụy hổ tướng Hãn đem 20 chiến thuyền từ Bến Than liều mạng xuống Cần Giờ cùng với tướng giặc ở sông Định Tường là ngụy Chu, tướng giặc ở sông Thuận An (tức sông Bến Lức ở Tân An) là ngụy Ngạn, hợp thuyền lại chạy về Qui Nhơn. Có lẽ do chấm câu sai và không hình dung đầy đủ về không gian của sự kiện, không rõ Thuận An giang tức là sông Bến Lức (nay thuộc tỉnh Long An) nên có sách dịch: Đêm ấy, hổ tướng giặc là Hãn đem 20 chiếc thuyền chiến từ Bến Than liều mạng chạy xuống cửa biển Cần Giờ, cùng với giặc ở Định Tường là Chu Thuận, giặc ở An Giang là Ngạn, hợp nhau chạy về Qui Nhơn. Dịch như vậy, tướng giặc vốn phiếm danh (Chu) thành Chu Thuận, biến sông Thuận An tức Bến Lức thành đạo An Giang; điều phi lý là trong một đêm, với phương tiện thuyền buồm thời ấy, khó có thể liên lạc, kết hợp được giữa tướng Hãn ở Cần Giờ với tướng Ngạn ở An Giang (lưu ý: Đạo An Giang trong Gia Định Thành thông chí ở vùng Cà Mau chứ không phải tỉnh An Giang hiện nay).
2.5. Những trường hợp nguyên văn chép sai hoặc thiếu:
Ở đây có nguyên nhân từ việc xử lý văn bản Hán văn. Có một bản dịch Gia Định Thành thông chí đã lưu ý việc hiệu đính: ...Khi Viện Sử học giao cho Tổ phiên dịch của Ban Cổ sử dịch sách này, công việc phiên dịch lại phải bắt đầu bằng việc hiệu đính văn bản chữ Hán. Có điều, văn bản chữ Hán được in trong sách là bản chép tay, những bản khác hiện có (như bản sử dụng của nhóm Tu Trai Nguyễn Tạo, bản mang ký hiệu VHC 01604 và VHV 335/1 ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm) cũng đều là bản chép tay, hiện chưa thấy xuất hiện bản in khắc gỗ cho nên không hiểu việc hiệu đính của các dịch giả đã dựa vào đâu, đúng sai ra sao. Khi đối chiếu sự mô tả văn bản Hán văn in kèm trong sách của nhà nghiên cứu Đào Duy Anh với trang in thực tế, vẫn thấy có điều còn chưa khớp; ví dụ: Số dòng mỗi trang đúng là 8 dòng, nhưng số chữ mỗi dòng không thống nhất là 21. Mặt khác, chữ viết thì tốt, nhưng quá nhiều lỗi. Chỉ cần đối chiếu với một số sách có ghi những chi tiết liên quan đến nội dung của Gia Định Thành thông chí, như: Phủ Biên tạp lục, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, Nam Kỳ lục tỉnh Dư địa chí... có thể dẫn ra nhiều trường hợp chép sai hoặc thiếu của văn bản khiến có thể hiểu sai về nghĩa. Ví dụ: Địa danh Lấp Vò chép nhầm rồi dịch là núi Tịnh Vu; Thuyền Úc tục danh Vũng Tàu chép nhầm chữ nôm Vũng thành Vụng và dịch thành Thuyền Úc tục danh Vụng Tàu; chữ Sãi trong câu Tiên Thủy (tục danh Sóc Sãi Hạ) chép nhầm thành chữ trụ; chữ Nôm mặc trong mặc ngư tức con cá mực chép nhầm thành chữ hắc do thiếu bộ thổ; chữ tự nghĩa là thờ trong câu phục phạm đồng vi tượng, tự vu kỳ tự bị chép nhầm thành chữ tự nghĩa là chùa...
Nêu trên chỉ là phần nhỏ trong số nhiều lỗi rõ ràng, đáng tiếc. Nguyên nhân chủ yếu của các lỗi ấy có lẽ là sự thiếu cẩn trọng trong xử lý văn bản; thiếu điều kiện điền dã thực tế để am hiểu địa danh, sản vật, phong tục địa phương và phong cách viết chữ Nôm của tác giả Trịnh Hoài Đức. Chính Trịnh Hoài Đức đã lưu ý cách viết chữ Nôm của mình (chương Phong tục): Nếu gặp quốc âm hay tên địa phương thì cũng lấy trong sách chữ Hán có âm y hệt hay na ná rồi thêm vào trên đầu hay bên hông trái, khi thì bộ sơn để chỉ chữ thuộc núi non, bộ điểu thuộc chim chóc, bộ mộc thuộc cây cối, bộ thảo thuộc hoa cỏ... Tác giả đã trân trọng, kỹ lưỡng trong việc ghi chép thì việc dịch nghĩa, chú giải càng phải trân trọng và kỹ lưỡng hơn.
3. Với mong muốn có được một bản dịch sát hợp với thực tế địa phương hơn, Nhà Xuất bản tổng hợp Đồng Nai đã kiến nghị, được Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận cho thực hiện công trình biên dịch, chú giải Gia Định Thành thông chí bằng sự tài trợ của ngân sách Nhà nước. Nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng được mời thực hiện công trình này.
Bằng tâm huyết nhiệt thành và vận may được đi nhiều, biết nhiều về các tỉnh Nam Bộ, dịch giả Lý Việt Dũng đã tra cứu sách vở, điền dã thực tế, học hỏi đồng nghiệp và các bậc kỳ lão; được sự tận tình giúp đỡ của bạn bè, nhất là của An Chi Huệ Thiên và Thượng tọa Thích Lệ Trang... Sau 7 năm kiên trì, bản dịch mới và chú giải về Gia Định Thành thông chí tạm được hài lòng. Những sai sót về nhân danh, địa danh, sản vật, sử liệu, ngữ nghĩa... nêu trên đã được lý giải hợp lý hơn, sát hợp với thực tế hơn. Mỗi khi gặp chỗ có ý kiến khác nhau, dịch giả Lý Việt Dũng khảo sát thực tế, so sánh đối chứng với nhiều nguồn tư liệu, như sử liệu của triều Nguyễn, di cảo của Trương Vĩnh Ký, ghi chép của Vương Hồng Sển, tư liệu của nước ngoài... để chọn cách dễ chấp nhận nhất. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tồn nghi được nêu ra để bạn đọc cùng suy nghĩ, mong đợi cao kiến người khác, không dám lạm dịch. Việc làm cẩn trọng này rất đáng được trân trọng và tin cậy.
Phần phụ lục được chọn lựa, sắp xếp theo hệ thống cũng là một cố gắng lớn để người đọc tiện tra cứu theo ý muốn. Lẽ ra, phần này phải được dụng công nhiều hơn nữa, đầy đủ hơn nữa mới đáp ứng được nhu cầu. Nhưng, sức người có hạn, điều kiện có hạn, đành phải chấp nhận kết quả ban đầu. Sau này, ắt có điều kiện tốt hơn để sửa chữa, bổ khuyết cho hoàn chỉnh.
4. Chắc là còn nhiều thiếu sót ngoài ý muốn. Nhưng, bản dịch Gia Định Thành thông chí của Nhà Xuất bản Tổng hợp Đồng Nai ra mắt bạn đọc lần này đã bằng tất cả sự cố gắng chân thành, công phu và trách nhiệm cao nhất; mong các học giả và bạn đọc đón nhận với sự chia sẻ và cảm thông nhiều nhất. Xin trân trọng được đón nhận sự góp ý, bổ khuyết của mọi người.
Biên Hòa, tháng 10 năm 2004
Tiến sĩ HUỲNH VĂN TỚI
Quyển I: TINH DÃ CHÍ
[chép về các ngôi sao]
Trời gắn sao ở trên, đất cắm núi ở dưới, loài người được nuôi dưỡng phát triển tốt đẹp ở giữa; tam tài lưu thông, nên mọi vật được thành tựu.
Nước Việt ta, cơ đồ dựng ở Viêm Thiên ([2][1]) như rồng uốn quanh Quế Hải ([3][2]), thánh thần kế truyền, dân ấm no, vật thịnh vượng. Vàng tốt có ở phủ Thăng Hoa, phủ Điện Bàn, kỳ nam sinh ở Khánh Hòa, Yên Quảng sản xuất ngọc trai, Thanh Hoa (Thanh Hóa) sản xuất nhục quế. Của quý trong đất đai, vật tốt nơi núi biển, của cải phong phú như vậy là do sự ngưng tụ khí thiêng của trời đất, hòa hợp gom góp mà sinh ra vậy.
Nay xét sách Xuân thu, chương Nguyên mạng bao ([4][3]) nói: Sao Khiên Ngưu ([5][4]) đóng ở địa phận Dương Châu, phân làm nước Việt. Chu lễ sớ [1b] nói về vị trí của Ngô, Việt và Dương Châu rằng: Nam Đẩu ([6][5]) ở hạ lưu sông Ngân Hà, đóng vào khoản Hoài Hải ([7][6]) là phần của nước Ngô; sao Khiên Ngưu xa sông Thiên Hà ([8][7]), từ Dự Chương ([9][8]) đến Cối Kê ([10][9]), về phía nam vượt quá Ngũ Lãnh (Lĩnh) phần của nước Việt. Lại nói thêm: Các châu ở Nam thuộc phía đông thượng nguồn sông Ngân Hà, thuộc sao Thuần Hỏa ([11][10]) mà các sao Liễu, sao Tinh, sao Trương ([12][11]) đều đóng ở trung châu, không phụ liền với đất miền biển, cho nên Nam Việt thuộc sao Thuần Vĩ ([13][12]).
Chương Địa lý chí - Tiền Hán thư ([14][13]) chép rằng: Việt Nam ở vào phần sao Khiên Ngưu và sao Vụ Nữ ([15][14]). Theo sách Tinh kinh ([16][15]) sao Khiên Ngưu có 6 ngôi thì ngôi thứ 1 và thứ 2 là chủ về Nam Việt, 2 sao ấy sáng tỏ thì vương đạo vượng tốt. Hoài Nam tử trong Thiên Văn huấn Tinh bộ địa danh nói: Nước Ngô, nước Việt thuộc sao Ngưu, sao Tu Nữ ([17][16]). Thẩm Hoài Viễn ([18][17]) trong Nam Việt chí ([19][18]) nói: Đất Nam Việt thuộc phần sao Ngưu, sao Nữ, Đường thư - Thiên văn chí ([20][19]) chép: Sao Nam Đẩu là phần nước Ngô, [2a] sao Khiên Ngưu là phần nước Việt. Sách Sơn đường khảo sách ([21][20]) lại nói: sao Ngưu, sao Nữ, là phần nước Việt. Xét: Thuở đời Đường có người đi đến Quỳnh Hải ([22][21]) vừa lúc tháng 8, thấy dưới sao Lão Nhân ở Nam Cực có vô số sao lớn mà thời xưa chưa đặt tên. Sách Sử ký - Thiên quan thư ([23][22]) chép: Sao Hồ Thỉ ([24][23]) hướng thẳng vào sao Thiên Lang ([25][24]). Dưới sao Thiên Lang gần đất có sao lớn, gọi tên là Nam Cực Lão Nhân. Sao Lão Nhân ([26][25]) xuất hiện thì nước được yên, thường đến tiết thu phân thì trông thấy ở hướng Nam. Tinh kinh chép sao Hà Mậu có 6 ngôi giáp sao Đông Tỉnh ([27][26]) ở hai hà Nam Bắc, mỗi hà có ba sao. Ba sao ở Nam Hà gọi là sao Nam Thú, sao ấy gần sao Lão Nhân, chủ về cửa ngõ nước Việt. Muốn xem sao xứ Việt Nam thì xem sao Nam Thú, và muốn xem sao Nam Thú thì xem sao Nam Đẩu. Xét 6 sao Nam Đẩu, trong có sao thứ 3 phía tây cách cực 1190 là chủ xứ Nam Việt. Vậy thì đất Gia Định gần giới hạn sao Ngưu, là sao thứ nhất ở phía nam của chùm sao Nam Thú, là sao thứ hai đóng ở sao Nam Cực Lão Nhân, gần bên phần sao Tỉnh [2b] mà không thuộc phần của sao Tỉnh. Như vậy, đất Gia Định tuy ở phía nam mà lại có thế tiến tới hướng Đông vậy. Vả lại sao Lão Nhân thường đến tiết thu phân trời trong tạnh thì thấy xuất hiện ở vị trí Bính Đinh (phương Nam), gần nơi Nam Cực, cho nên gọi là sao Nam Cực Lão Nhân, không phải ở ngay nơi Nam Cực; cũng như sao Bắc Đẩu không phải ở ngay chỗ Bắc Cực. Qua khỏi khoảng đó, Nam Cực lên cao dần, Bắc Cực xuống thấp dần, những sao ngoài phạm vi cực ấy thì trong sách Tinh kinh phần nhiều không thấy chép. Ở đất Gia Định đến ngày Mang Hiện (Tua Rua Hiện) hàng năm người ta thường xem sao để gieo mạ. Ví như thấy sao Lê Vĩ (sao Chuôi Cày) xuất hiện thì mạ chết, thấy sao Trư Vĩ (Đuôi Heo) xuất hiện thì mạ vàng, 2 sao ấy đều ở dưới sao Lão Nhân mà từ xưa cũng chưa đặt tên là sao gì.
XEM KHÍ HẬU (Phụ)
Phương Nam thuộc quẻ Ly, Ly là tượng mặt trời, thuộc hỏa. Người Gia Định ở vùng gần biển, thường thấy trước mặt trời mới mọc, hình thể to lớn [3a] bởi vì biển Nam cách nơi mặt trời mọc không xa, cho nên trông thấy mặt trời lớn ([28][27]). Vả lại thấy trọn cả phần ngoài của mặt trời cho nên hình nó lớn. Vành ngoài có lớp ánh sáng, vành trong chiếu tia sáng, khi đầu mới mọc thấy phần ngoài trước mà chưa thấy phần chói sáng ở trong. Phần ngoài thuộc âm khí, chưa phải là dương khí, rồi lại bị khí núi rừng sông đầm bốc lên che lấp, nên thấy nó lớn mà lại mát mẻ.
Khí hậu Gia Định thường ấm, cứ vào quí xuân (tháng 3) mới bắt đầu mưa, mùa hạ là mùa mưa chính, mùa thu thì mưa rào, mỗi khi mưa to chẳng khác nghiêng vò mà đổ, nhưng chỉ trong 1, 2 giờ rồi tạnh nắng. Cũng có đôi khi mưa dầm dề 1, 2 ngày, nhưng không có khi nào khổ vì mưa cả tuần cả tháng. Tuy 4 mùa đều có mưa nhưng chỉ tiết đông chí mới hơi lạnh. Khí hậu không thường nên 4 mùa hoa đều đua nở tỏa ngát hương thơm, khi trời mát trăng trong tức là Trung thu, không cần phải lấy tháng ngày mà xét đoán. Tô Thức ký ([29][28]) có câu: Tứ thời câu thị hạ, Nhất vũ tiện thành thu (bốn mùa đều nóng như mùa hạ, một trận mưa trở thành mùa thu). Lại có câu: Lãnh (Lĩnh) Nam vạn vật giai xuân sắc [3b] (muôn vật ở Lãnh (Lĩnh) Nam đều có sắc xuân). Khí hậu Gia Định giống như thế.
Khí trời Nam Việt nóng mà đất lại ẩm thấp do âm hỏa hun đúc, khí biển tác động thành ra sấm, cho nên mỗi khi mưa thì đồng thời có sấm sét. Chất đất ở nơi bờ biển lại thưa mỏng, không đủ chứa hỏa khí cho bền chặt, nên lúc dương khí quá mạnh, gặp âm khí xông lên, chúng chạm nhau hóa ra đường lửa chớp, gặp những vật đứng cao như cột buồm hay cây cối ngăn trở, khí ác đó bèn bị ép mà nổ tung vào, vậy thì người hay vật bị sét đánh chết là bởi gặp rủi ro bất chợt thôi ([30][29]), còn mùa đông mà có sấm sét là sự thường.
Gia Định ở về phương Ly ([31][30]), âm ít mà dương nhiều, thường có nhiều gió nam. Vì mặt trời ở phương Nam mà gió cũng từ phương Nam đến, nên có nhiều gió nam thổi mạnh, nhưng không lo có gió bão, bởi gió bão là gió tập hợp đủ cả 4 phương lại [4a]. Gió khởi đầu ở phía đông bắc, tức từ phía bắc thổi qua tây, khởi đầu ở phía tây bắc, tức từ phía bắc thổi qua đông, nhưng đều đến phía nam thì ngừng. Vả gió ở Gia Định lấy phía nam làm hướng chính, phàm gió bão ắt phải quay về phía nam rồi ngừng, cho nên Gia Định không có gió bão.
Gia Định núi chằm thông thoáng, lại nhiều gió thổi, không tụ được khí lam chướng, mà lại ở ngoài Ngũ Lãnh (Lĩnh) ([32][31]) nên không có băng tuyết. Vả móc là khí thuần kim, phương Nam thì hỏa thạnh (thịnh) kim suy, đến tiết cuối thu khí trời vẫn còn nóng, khí kim không đọng thành giọt được nên ít có móc, ít móc nên không kết tụ thành sương, cho đến mùa đông thấy lá úa vàng rụng mới biết có sương rơi chút ít mà thôi.
Khí núi chằm khi mới bốc lên thành khói mù, lên giữa trời làm ra mây, cuối cùng làm ra mưa, mưa ấy do mây mà ra, mây từ trong núi bay ra thì gây u ám, từ biển bay vào thì gây mưa. Ở Gia Định thường có nhiều mây đỏ, ấy là do Ly hỏa phát sanh, có mây [4b] từ trong đất liền bốc lên mù mịt đen tối tỏa rộng đến 1, 2 dặm, ẩn hiện như đầu rồng hoặc như đuôi rồng, đến khi gặp gió cuộn lại thì nước phun lên làm cho sông cạn đầm khô, nhà cửa cây cối bay tốc, khí mù đen xoáy tròn từ dưới đất xoáy lên rồi bỗng nhiên mưa lớn, tục gọi là rồng lấy nước nhưng hiện tượng ấy cũng ít thấy.
Nước là mạch máu của đất, tùy theo khí đưa đẩy mà làm ra ngọn triều, buổi sáng lên gọi là triều, buổi chiều xuống gọi là tịch, nhưng gọi chung là thủy triều. Triều cùng mặt trăng hưởng ứng với nhau, hoạt động của âm dương không sai với thời tiết, nên gọi triều tín. Ta thường thấy khi nước vừa lớn thì có gió; khi nước đứng thì gió lặng; sau ngày mùng một, ngày rằm 2 - 3 ngày nước bắt đầu lên, gió cũng thổi mạnh; sau các ngày thượng huyền (ngày 8 và ngày 9) và hạ huyền (ngày 22, 23) 2, 3 ngày nước rút dần xuống thì gió cũng dịu dần, bởi vì gió là mẹ của nước, nên mới nói nước sinh ra bởi gió là vậy. Thủy triều ở Gia Định có khác so với các nơi, mỗi tháng có 2, 3 ngày nước ươn (không có lớn, ròng) mùa đông thì tới 3, 4 ngày. Tháng 8 tháng 9 ([33][32]) [5a] thủy triều lớn khác thường, tiết hạ chí lớn vào ban ngày, tiết đông chí lớn vào ban đêm; ngày 25, 26 nước bắt đầu lên, đến mùng một đã mạnh, qua mùng 3 lại mạnh hơn nữa, rồi sau dần dần nhỏ lại. Đến ngày 11, 12 thì nước lại lên, đến ngày rằm đã mạnh, qua ngày 18 ([34][33]) mạnh hơn nữa, sau lại nhỏ dần. Ấy là do xem theo mặt trăng đầy vơi làm chừng. Tục thường lấy khi nước lớn làm thủy đầu, tục gọi đầu con nước cũng gọi nước rong, nước sát xuống làm thủy vĩ tục gọi cuối con nước, cũng gọi nước kém. Dân đánh cá thường xem buổi nước lớn nước ròng mà hành nghề đánh bắt, khi đầu con nước thì nhiều cá, khi cuối con nước thì ít cá. Khi giao thời giữa mùa hạ và mùa thu, con nước lớn buổi mai chưa xuống, mà con nước ròng buổi chiều đã nối tiếp, thêm có gió đông nam kế tiếp đẩy mạnh nên nước biển dâng lên, ấy gọi là đạp triều (tục gọi là nước ươn rong) ([35][34]). Ấy là do triều tịch biến chuyển mà nước không ứng kịp theo tiết nhịp vậy. Gia Định giáp bờ biển, dưới thềm biển có nhiều dòng nước chảy ngầm trong lòng biển, nên thủy triều dâng mạnh, mau tràn ngập bờ bến. Vả lại, địa thế phía tây bắc rất cao [5b], phía đông nam lại rất thấp, cho nên khi nước rút lại chảy cuồn cuộn về phía đông, làm cho bãi sông khô cạn. Người ta đo được mực nước rút lui sâu xuống đến 13 thước ta ([36][35]).
Vùng các huyện, đạo ([37][36]) nằm dọc theo bờ biển Gia Định, đất đai thường ẩm thấp, khí dương thường tiết ra, khí âm thấp thường nung nấu; khí dương tiết ra, nên thân người đoạn trên úng trệ, sớ thịt thưa khô, nhiều mồ hôi ướt thấm lưng, mùa hạ ưa uống nước mát, đến mùa thu, mùa đông thường phát bệnh sốt rét, bởi vì hàn khí nhiễm vào tỳ, mà tỳ là thuộc thổ, chủ tín (đúng hẹn), cho nên cữ sốt rét thường phát vào khoảng thời gian nhất định trong ngày chẳng sai chạy. Gia Định là nơi chứa khí Khiên dương ([38][37]), tích tụ khí thấp nhiều, trong 1 năm gió mưa lạnh ấm, ít khi theo đúng thời tiết, cho nên có nhiều luồng gió nghịch mùa, mà con người thì sớ thịt thưa hở, dễ bị ngoại tà cảm mạo, bởi bệnh phát thường từ gió, rồi gió độc ấy nhiễm sâu vào trong, thành ra bệnh phong. Xem trong chữ phong có chữ Phong (gió) thì biết nguyên nhân của bệnh ấy ([39][38]).
([1][1]) Có tài liệu nói ông sinh năm 1764.
([2][1]) Viêm Thiên (炎天):Sách Lã thị Xuân thu ghi: Phương Nam gọi là Viêm Thiên. Chú: "Nam phương tháng năm kiến ngọ, là trung tâm của lửa. Lửa đứng đầu nóng bức, cho nên mới gọi là Viêm Thiên".
([3][2]) Quế Hải (桂海):Biển Nam Hải có nhiều quế nên gọi là Quế Hải. Thơ "Viên Thái úy thúc tùng giá" của Giang Yêm: Văn Chẩn bạt Quế Hải, Thanh giáo chúc băng thiên.
([4][3]) Nguyên mạng bao (元命苞): Cũng viết 元命包 là một loại sách sấm kí coi về âm dương của Xuân thu. Sách này đã thất lạc.
([5][4]) Khiên Ngưu (牽牛): Tên ngôi sao. Thời xưa lấy Khiên Ngưu làm biệt danh của Ngưu Tú, nay đều cho là tên riêng của Hà Cổ. Ngưu Tú là một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, là ngôi sao thứ hai của chùm sao Huyền Võ, có 6 sao, đều thuộc tòa Ma Yết.
([6][5]) Nam Đẩu (南斗):Còn gọi là Đẩu Tú, là tên một ngôi sao. Sách Tinh kinh chép: "Năm ngôi Đẩu Tú ở về phía tây Nam của Hoạn tinh, chủ về cân đong, đo lường".
([7][6]) Hoài Hải: (chưa tra cứu được).
([8][7]) Thiên Hà (天河): Còn gọi là Ngân Hà, Tinh Hà, Minh Hà, Giáng Hà, Trường Hà, Thu Hà, Ngân Hoàng, Ngân Hán, Thiên Hán, Vân Hán, Hà Hán, Tinh Hán, Thiên Hàng, Thiên Tân, chỉ dãy ngôi sao tập hợp thành một chuỗi dài vô cùng, màu mây trắng rất dễ nhìn thấy.
([9][8]) Dự Chương (豫章): Tên đất xưa, là vùng đất Hán Đông, Giang Bắc, tức tại Giang Bắc, Hoài Nam, Trung Quốc ngày nay.
([10][9]) Cối Kê (會稽): Tên quận do nhà Tần thiết lập, nay ở phía đông Nam tỉnh Giang Tô và tỉnh Chiết Giang. Đời Tống đổi làm phủ Thiệu Hưng.
([11][10]) Thuần Hỏa (鶉火):Tên sao, còn gọi là Tâm Tú, Liễu Tú, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ năm trong bảy ngôi sao Thương Long, thuộc Yết Tòa. Tâm Tú còn được gọi là Thương tinh.
([12][11]) Liễu - Tinh - Trương (柳 - 星 - 張):Đây là ba ngôi sao thuộc phương Nam trong Nhị thập bát tú. Sao Liễu tức sao Thuần Hỏa (xem chú thích chữ Thuần Hỏa bên trên). Sao Tinh là một ngôi sao trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ hai trong chòm sao bảy ngôi Chu Điểu. Sao Tinh có bảy ngôi, 6 ngôi thuộc Trường Xà tòa, chỉ riêng sao Tinh là một tòa chiếu sáng lẻ loi. Sao Trương là sao Thuần Vĩ ( xem chú thích sao Thuần Vĩ bên dưới).
([13][12]) Thuần Vĩ (鶉尾):Tên sao còn gọi là Trương Tú, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi thứ năm trong chòm sao Chu Điểu, có 6 ngôi tất cả, đều thuộc Trường Xà tòa.
([14][13]) Tiền Hán thư - Địa lý chí (前漢書地理志):Tiền Hán tức thời kỳ đầu nhà Hán tính từ Hán Cao Tổ Lưu Bang sáng nghiệp cho đến Nhụ Tử Anh. Hậu Hán tính từ Hán Quang Vũ cho đến Hiến Đế. Tiền Hán thư - Địa lý chí có lẽ là sách địa lý trong Hán thư thời Tiền Hán.
([15][14]) Vụ Nữ (務女): Tên ngôi sao, tức là Nữ Tú, Tu Nữ, là một trong Nhị thập bát tú, là ngôi sao thứ ba trong chòm sao Huyền Vũ bảy ngôi. Sách Nhĩ nhã chép: "Vụ Nữ tức sao Tu Nữ". Sách Bát nhã cũng viết: "Tu Nữ là sao Vụ Nữ".
([16][15]) Tinh kinh (星經):Tên sách thiên văn xưa. Tống sử Nghệ văn chí có "Cam Thạch vu hàm thị Tinh kinh" một quyển, "Lưu Biểu Tinh kinh" một quyển.
([17][16]) Tu Nữ (須女): Tu Nữ tức sao Vụ Nữ bên trên.
([18][17]) Thẩm Hoài Viễn (沈懷遠):(Tra chưa ra).
([19][18]) Nam Việt chí (南越志):Có lẽ là sách viết về nước Nam Việt bên Trung Quốc. Xưa Hán Cao Tổ phong Triệu Đà làm Nam Việt vương. Sau khi Triệu Đà mất, đến đời Ai vương, Thái hậu họ Cù vốn người Hán muốn dâng nước cho nhà Hán bị Tể tướng Lữ Gia giết, tôn lập Kiến Đức làm vua (tức Thuật Dương vương). Sau Hán cử Lộ Bác Đức sang đánh bắt được Lữ Gia, Nam Việt diệt vong.
([20][19]) Đường thư, Thiên văn chí (唐書天文志):Sách thiên văn trong bộ Đường thư. Đường thư chia ra Tân Đường thư và Cựu Đường thư. Tân Đường thư do Âu Dương Tu và Tống Kì đời Tống soạn gồm 225 quyển. Cựu Đường thư gồm 200 quyển do Lưu Hú đời Hậu Tấn phụng sắc soạn.
([21][20]) Sơn đường khảo sách (山堂考索):Tên sách do Chương Dư Ngu đời Tống soạn, tiền tập 60 quyển, hậu tập 65 quyển, tục tập 56 quyển, biệt tập 25 quyển. Tiền tập chia ra làm 30 loại, hậu tập chia ra làm 7 loại, tục tập 15 loại, biệt tập 11 loại, đề mục đều khác nhau, nhưng đại để phần nọ bổ sung cho phần kia nên thể thức rất phức tạp, tuy nhiên dẫn cứ sâu sắc, khảo biện tinh tường, là một quyển sách tốt thời Nam Tống.
([22][21]) Quỳnh Hải (瓊海): Còn gọi là Quỳnh Châu, Quỳnh Châu đảo, tức đảo Hải Nam ngày nay, ở phía nam huyện Quỳnh Sơn, tỉnh Sơn Đông.
([23][22]) Sử ký, Thiên quan thư (史記 - 天官書):là sách Thiên quan trong bộ Sử ký, tức sách thiên văn thời xưa. Thiên quan là từ chỉ tinh quan trong môn thiên văn, bởi tinh tòa có thứ bậc cao thấp cũng giống như tôn ti trong quan chức triều đình, cho nên mới gọi là Thiên quan.
([24][23]) Hồ (弧): tức sao Hồ Thỉ (弧矢). Theo sách thiên văn Sử ký Thiên quan thư thì ở dưới sao Thiên Lang có bốn ngôi sao gọi là Hồ hướng thẳng vào sao Thiên Lang (Chính nghĩa): Chín ngôi sao Hồ ở đông nam sao Lang, là cây cung của trời. Hồ Thỉ hướng thẳng về sao Lang. Sách Tống sử Thiên văn chí cũng chép: "Chín ngôi sao Hồ Thỉ tại đông nam là sao Lang, là cây cung của bầu trời".
([25][24]) Lang (狼): Tức sao Thiên Lang (天狼). Theo sách Sử ký, Thiên quan thư: "Phía đông có một ngôi sao lớn gọi là Thiên Lang". Sách Tấn thư, Thiên văn chí: "Sao Thiên Lang ở về phía đông nam của sao Đông Tỉnh". Lang là sao man dã, chủ xâm lược. Xét sao Thiên Lang thuộc tòa Đại Khuyển, sắc xanh trắng, sáng nhất trong nhóm các hành tinh.
([26][25]) Lão Nhân (老人):Tức sao Nam Cực Lão Nhân (南極老人) Theo sách Sử ký, Thiên quan thư thì dưới sao Lang gần mặt đất có một ngôi sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân. Tấn Chước chú "Lang tỉ địa" là chỗ sao Lang gần đất nhất". (Chính nghĩa: "Ngôi sao Lão Nhân ở tại phía nam của sao Hồ gọi là Nam Cực). Sách Quan tượng ngoạn chiêm: "Ngôi sao Lão Nhân ở phía nam Hồ Thỉ còn gọi là sao Nam Cực Lão Nhân, chủ thọ khảo, cho nên còn gọi là Thọ tinh". Xét sao Lão Nhân thuộc tòa Long Cốt, tên Tây là Canopus, màu xanh trắng lợt, cách phía nam Thiên Lang ước 360, chỉ tháng hai mới xuất hiện chếch ở phụ cận Nam thiên địa bình, cho nên ít ai thấy được ngôi Thọ tinh này. 12.000 năm sau khi sao Chức Nữ ở cương vị Bắc Cực tinh thì sao Lão Nhân thành sao Nam Cực.
([27][26]) Đông Tỉnh (東井):Tên sao, tức Tỉnh Tú, là một trong Nhị thập bát tú, cũng là ngôi sao đầu trong chòm sao Chu Điểu 7 ngôi gồm tám vì sao thuộc tòa Song Tử.
([28][27]) Đây là quan niệm thiên văn thời 200 năm trước.
([29][28]) Tô Thức người Mi Sơn đời Tống, con Tô Tuân, anh Tô Triệt, tự Tử Chiêm, đỗ Tiến sĩ năm Gia Hựu, sung sử quán. Vì dâng sớ lên Thần Tông can việc thi hành tân pháp của Vương An Thạch nên bị đày đi Hàng Châu, Hồ Châu, Hoàng Châu, Huệ Châu, Quỳnh Châu. Lúc ở Hoàng Châu, xây nhà triền núi phía đông (Đông Pha) nên xưng là "Đông Pha cư sĩ". Đến đời Triết Tông gọi về làm quan trải nhiều chức, đến Đoan Minh điện Thị độc học sĩ, khi mất được thụy là Văn Trung.
([30][29]) Đây là cách lý giải gần với khoa học của Trịnh Hoài Đức. Thuở đó dân gian cho rằng người bị sét đánh là do ăn ở ác đức bị trời phạt.
([31][30]) Ly phương (離方): Quẻ Ly thuộc phương Nam, vậy Ly phương là phương Nam. Quẻ này (Ly thượng, Ly hạ) thuộc tượng hỏa, nhựt điện, trung nữ.
([32][31]) Ngũ Lãnh (Lĩnh) (五嶺): Chữ Lĩnh, Tiền Hán thư và Hậu Hán thư đều viết là 領. Hán thư, Trương Nhĩ truyện: Nam hữu Ngũ Lĩnh chi thú. Phục Kiền chú: "Sơn Lĩnh có năm ngọn, cho nên gọi là Ngũ Lĩnh. Địa giới xứ Giao Chỉ và Hợp Phố có các ngọn núi đó". Xét lời chú giải của Sư Cổ: "Lời giải thích của Phục Kiền là nhầm. Lĩnh là phía tây, là Nam Hoàng Sơn, Đông cùng ở biển, là giới hạn của một ngọn núi, nhưng gọi tiêu chí chung là Ngũ Lĩnh". Sách Quảng Châu ký của Bùi Thị thì Ngũ Lĩnh là "Đại Dữu, Thỉ An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương (tức Đô Bàng)". Còn Nam Khang ký của Đặng Đức Minh thì cho Ngũ Lĩnh là: Đại Dữu Lĩnh, Quế Dương Kỵ Điền Lĩnh, Cửu Chân Đô Bàng Lĩnh, Lâm Hạ Mạnh Chữ Lĩnh, Thỉ An Thành Việt Lĩnh. Còn theo sách Độc sử Phương Dự kỷ yếu thì Ngũ Lĩnh là 5 con đường nhập lĩnh: Một là đường từ Phước Kiến vào Quảng Đông Tuần Mai, hai là đường từ Nam An Giang Tây vào Nam Hùng Quảng Đông, ba là đường từ Hồ Nam vào Liên huyện Quảng Đông, bốn là từ Đạo Châu Hồ Nam vào Quảng Tây, năm là từ Toàn Châu Hồ Nam vào Tịnh Giang Quảng Tây.
([33][32]) Người làm nghề hạ bạc rất chú trọng tới con nước. Trong thực tế, tháng 10 âm lịch là cường triều to nhất.
([34][33]) Cũng theo thực tế, ngày 17 âm lịch nước rong cao nhất vì có câu tục ngữ Nước mười bảy nhảy bờ.
([35][34]) Nước ươn rong là do nước lớn chưa dứt thì tới cữ nước ròng, nước ròng chưa kịp rút thì gió đạp nước biển vào nên nước ròng phải dừng lại, do đó nước cứ lình bình một thời gian không ròng rồi lớn lại.
([36][35]) Theo Histoire du Viet Nam của Lê Thành Khôi, 1 thước ta bằng 0,425 m. Năm 1900, triều đình Huế định lại một thước ta bằng 0,4 m. Còn một thước Trung Quốc bằng 0,325 m.
([37][36]) Huyện, đạo tức quận và hạt đạo. Nhiều huyện thành một đạo, nhiều đạo thành một trấn. Nếu hiểu đạo là "đạo binh" là nhầm, tỉ như "Long Xuyên đạo" là hạt đạo Long Xuyên (Cà Mau) thuộc trấn Hà Tiên, chớ không phải "Đạo binh tỉnh Long Xuyên".
([38][37]) Khiên dương (愆陽): là ánh dương quang nhiều quá. Sách Tả truyện, Đông vô Khiên dương chú: Khiên (愆) nghĩa là "nhiều quá". Dương (陽) nghĩa là "ánh nắng mặt trời".
([39][38]) Suy chữ phong (瘋) vừa có nghĩa là bịnh phong điên vừa bịnh phong hủi, nhưng trong ngữ cảnh này có lẽ nghĩa "phong hủi" thích hợp hơn, vì đoạn văn đang tả bịnh từ da. Nhưng cũng có thể hiểu là bịnh phong thấp, phong hàn cũng được vì không có chi tiết nào xác định tác giả muốn nói về bịnh phong nào!
Quyển II: SƠN XUYÊN CHÍ
[chép về núi sông]
Núi non là xương của đất, sông nước là máu của đất, núi sông ấp ủ sinh dưỡng lưu thông, mà tạo nên đất đai một phương vậy. Những bậc anh hùng hào kiệt, trung thần liệt nữ cũng nhân đó mà sản sinh ra. Cũng ở đó sinh ra nhiều vật quý phát triển và bao của cải sinh sôi không gì là không đầy đủ. Tuy sách vở trong ngoài ([1][1]) có chỗ chép chỗ không, tên gọi xưa nay cũng khác, ấy là tùy vào từng thời đại, tùy từng vùng đất mà cách gọi có chỗ không giống nhau.
Sách Quản tử ([2][2]) chép: Trong thiên hạ có 5.370 ngọn núi có tiếng. Hoài Nam tử nói: Núi ở Nam Cực gọi là Thử Môn ([3][3]). Sử ký ([4][4]) chép: Trong thiên hạ có 8 ngọn núi lớn, 3 ngọn ở ngoài, còn Trung Quốc có 5 ngọn. Sách Thập châu ký ([5][5]) chép: nhà Phật bảo trên đỉnh núi Tu Di có 4 ngọn núi đứng cao vút lên, mỗi ngọn đều cao 700 nhận ([6][6]), mỗi ngọn chủ một phương trong thiên hạ.
Nam thiên hạ gọi là châu Diêm Phù Đề ([7][7]). Địa lý thư chép: Núi Thái Tổ là ngọn núi cao nhất, là nơi phát tích xưa cũ của một phương [1b], các long mạch đều xuất phát từ đó. Nguyên trung ký chép: Trong thiên hạ nước là vật nhiều hơn cả; nâng trời, đỡ đất, chỗ cao chỗ thấp không đâu là không đến, muôn vật đều được thấm nhuần. Vật luận chép: Cái thành lập ra trời đất là nước, nước là gốc của trời đất, việc nhả ra nguyên khí, phát ra nhật nguyệt, giăng bày tinh tú, tất cả đều do nước mà hình thành, ngoài 9 châu ra ([8][8]) đều là nước cả. Nay xem lại các sách thì trong khoảng trời đất, núi sông chiếm phần lớn; người xưa đều ước lược lấy lý mà bàn một cách tổng quát chưa thể khảo cứu đến cùng để định ra tên gọi của nước, chỉ biết mỗi phương có trưởng một phương, tùy theo núi cao sông lớn của phương đó mà phân làm thân chính tổ tông rồi chia ra ngành dòng con cháu dẫy đầy ra mà tiếp tục nhau, đại để là theo người ở tại địa phương đó xưng hô mà đặt ra tên tuổi mà thôi, không cần câu nệ rằng núi sông ấy từ đâu dẫn đến, mà đắm chìm vào những điều nghe biết cũ trong sách xưa chép ra mà làm gì!
TRẤN BIÊN HÒA
LONG ẨN SƠN (NÚI LONG ẨN)
Ở về phía tây, cách trấn ([9][9]) 4 dặm rưỡi, đất đá cao chót vót, cây cối tốt tươi, nó làm bình phong sau cho Văn Miếu, thế núi quanh co đẹp đẽ, ở dưới có đá thủy tinh.
BỬU PHONG SƠN (NÚI LÒ GỐM) ([10][10])
Ở phía tây trấn cách 4 dặm, phía tây nam trông xuống sông lớn, làm tấm che đằng sau của núi Long Ẩn. Suối bàu tẩm nhuận, dẫn tưới ruộng đồng. Trên núi có chùa Bửu Phong, phía trái có đá đầu rồng đứng sững, phía phải có nhiều đá phẳng mặt như thiền sàng ([11][11]), khói mây man mác, cây cối um tùm, văn nhân nghiêng chén vịnh mùa đẹp, mỹ nữ nối gót kẻ hành hương, thật là thắng cảnh hạng nhất của trấn thành.
QUY DỰ (HÒN RÙA)
Hòn nằm giữa dòng sông Phước Long ([12][12]), cách phía tây trấn đến 9 dặm ([13][13]). Hòn dài 3 dặm, ở đó có dân cư cày cấy, dưới có [2b] sông dài uốn khúc quấn quanh, thuyền buồm ra vào, sóng xao khói lượn, khi ẩn khi hiện như hình con rùa thần tắm sóng, đẹp nhất là cảnh mưa rơi.
BẠCH THẠCH SƠN (NÚI ĐÁ TRẮNG)
Ở về phía tây, cách trấn 10 dặm. Núi rừng quanh co, nước suối róc rách, các loài tê giác, voi, nai, hươu, ra vào từng bầy. Chân núi gối lên sườn cỏ, phía nam trông xuống chợ Ngư Tân (chợ Bến Cá).
THẠCH HỎA SƠN (HÒN ĐÁ LỬA)
Ở địa phận thôn Bình Thạnh, tổng Phước Vinh. Gò đá từng khối lởm chởm, có nhiều khối đá lửa. Khi trời nóng nắng gắt thì đá nẩy lửa bắn ra bốn phía, trông như sao sa.
ĐÀO CANG (HÒN GÒ ĐÀO)
Tục gọi là núi Lò Gốm, ở về phía đông, cách trấn 4 dặm. Đá dựng chập chồng, sóng nước lao xao, thuở xưa đây là chỗ nung sành ngói, cảnh trí rất u nhã.
CHIÊU THÁI SƠN (HỆ ([14][14]) NÚI CHIÊU THÁI) (NAY GỌI LÀ CHÂU THỚI)
Ở phía nam cách trấn 11 dặm rưỡi. Từng núi cao vót xanh lơ, cổ thụ rậm tốt, làm tấm bình phong chầu về trấn thành, hình núi cao thấp khuất khúc, uốn lượn qua hướng đông, giáp hạ lưu sông Phước Giang ([15][15]) rồi đến gò Khổng Tước (Gò Công) thì dứt. Ở đoạn giữa tại mặt bắc nơi thôn Long Thành, giữa đồng bằng trải ra một gò cao như vách dựng, sau lưng gò ấy là chỗ bà ni Lượng tu hành, có dựng am Vân Tĩnh (tục gọi là chùa Vãi Lượng) trông rất u nhã. Về sau quân Tây Sơn đập bỏ chùa Phật, nhưng nay nền cũ hoang phế vẫn còn.
Ở cuối hòn núi nầy về phía bắc tại ngã ba chẻ ra một nhánh chạy đến địa phận thôn Long Tuy thì dừng rồi bỗng nổi thành gò cao bằng phẳng rộng rãi; ở bên núi có hang hố và khe suối, dân núi ở ven quanh, trên đó có chùa Hội Sơn là chỗ thiền sư Khánh Long dựng gậy tu hành ([16][16]), núi trông xuống sông lớn, hành khách leo lên thăm, có cảm tưởng như tiêu sái thoát tục.
THẦN QUY SƠN (HỆ)
Tục gọi là núi Ba Ba, có suối trong núi chảy ra, là mạch phát nguyên của sông Phước Long (tục gọi ngọn sông Đồng Nai). Suối ấy có hòn đá lớn dáng như con rùa [3b] cuộn chân, đầu thường ngó lên hướng tây, thì năm ấy mưa lụt bình thường, nếu quay mình theo dòng suối ngó về hướng đông, thì năm ấy ắt có lụt lớn. Ấy là vật thần tự nhiên, không phải là do sức người sắp xếp nổi. Người dân núi ở đây thường xem đó để biết mưa lụt lớn nhỏ trong năm, cho nên gọi là núi Thần Quy (Rùa thần), lại cũng gọi là Thọ Sơn. Núi làm giới hạn cuối cùng cho phía tây của trấn, cách trấn về phía tây bắc hơn 445 dặm ([17][17]), nguồn xa xưa phát từ hướng chính bắc, sườn núi nguy nga, hang động huyền ảo, làm hang ổ, sóc cho các bộ lạc man, lào chia vùng mà ở rải rác khắp nơi.
Sóng chính của núi khí lực hùng vĩ, từ trong ấy chạy đến rồi nổi lên núi Quy Sơn cao ngất, vị trí ở về hướng tây bắc ([18][18]). Khởi thỉ (thủy) là ngọn núi Hỏa Tinh cao nhọn ([19][19]) làm núi tổ cho một phương. Lại còn có nhiều hòn núi chạy giăng, trùng trùng điệp điệp, mở ra như màn trướng theo hai bên tả hữu, vây quanh phía bắc đến phía đông, đồ sộ liên tiếp, đất đá lẫn lộn, tức là núi Bàu Chiêng, núi Chứa Chan, núi Lai (Lây), núi Nục, núi Liên, núi Tiều Nghiêu và các núi Mô Xoài ([20][20]), núi Bà Địa ([21][21]), núi Thùy Vân ([22][22]) giáp biển mới hết.
[4a] Phía bắc núi Liên Sơn là trấn Thuận Thành là địa giới người man, phía nam là trấn Biên Hòa cũng là địa giới man đã thuần thuộc. Nhánh bên phải quanh lên phía tây rồi qua phía nam là núi Cố, núi Bà Rá, núi Lấp Vò, gò đống trồi thụt, qua hẻm băng ruộng, có chỗ hình trảng bằng, có chỗ hình xâu chuỗi, có nhiều tên gọi và hình trạng khác nhau, lại có núi Bà Đinh ([23][23]), núi Lò Yêm đến sông lớn nước Cao Miên mới dứt.
THIẾT KHÂU SƠN
Tục gọi là núi Lò Thổi, ở phía bắc Phước Giang, phía đông cách trấn 19 dặm, do sông Đồng Chân đi quanh qua phía bắc 3 dặm rưỡi là chợ Lò Sắt ([24][24]), ở đây gò đống lồi lõm, rừng rú xanh rậm, người làm sắt tụ họp thành chợ, mở lò nung, cung nạp thuế sắt, quặng sắt rất thịnh vượng. Năm Tân Mùi (1811) niên hiệu Gia Long thứ 10, có người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Kinh Tú và Lâm Húc Tam xin trưng thuế, mở lò chế tạo rất tinh xảo, được nhiều sắt tốt, đúc làm nồi chảo, thu nhiều lợi, rồi sau đem hết của cải về quê ở đất Mân (thuộc tỉnh Phúc Kiến). Ấy là chỗ trời đất ân huệ giúp cho dân nghèo kiếm sống vậy.
[4b] KÝ SƠN (NÚI KÝ - CÒN GỌI NÚI HỎA PHÁT)
Tục gọi là núi Bà Ký, ấy là lấy theo tên người (sau đây cũng có nhiều chỗ phỏng theo như thế..)
Ở về phía đông cách trấn 91 dặm, có đất đá, suối nước ngọt, cây cối rậm rạp, chim muông tụ tập, người bốn phương kéo đến ở, họ chuyên nghề săn bắn và đẵn gỗ để sinh nhai.
NỮ TĂNG SƠN ([25][25]) (NÚI BÀ VÃI) (NAY GỌI LÀ NÚI THỊ VẢI)
Tục gọi là núi Bà Vãi, ở địa phận huyện Long Thành. Xưa có người con gái họ Lê, gia tư giàu có, nhưng do kén chọn lỡ thì, sau khi cha mẹ mất rồi mới có chồng nhưng không được bao lâu chồng cũng chết, bà thề không tái giá, nhưng bị kẻ cường hào cậy mai mối thường đến quấy nhiễu, bà bèn trốn đời xuống tóc, lập am ở đỉnh núi, tự làm bà thầy cả, kẻ ăn người ở làm đồ đệ, giữ lòng tu tập, sau thành chánh quả, do đó người đời lấy từ bà vãi mà đặt tên núi.
Núi nầy cách phía đông trấn 120 dặm, đất đá lởm chởm, cây cối to lớn um tùm. Nếu đứng ở thành Gia Định mà trông thì nó giống như viên ngọc màu xanh vàng bày ra nét đẹp. Dân núi ở đó lấy khai thác thổ sản ở núi để sinh sống, như cây gỗ, nhựa cây, than củi và muông thú.
[5a] LÀNG GIAO SƠN (NÚI LÀNG GIAO) ([26][26])
Ở địa phận huyện Long Thành, về phía đông bắc cách trấn 132 dặm rưỡi. Có đất đá, khe suối, cây cối um tùm, trại sách của các dân tộc man đã thuần thuộc nương theo chân núi cùng sống với hùm, beo, tê, voi.
TRẤN BIÊN SƠN (NÚI TRẤN BIÊN)
Tục gọi là núi Mô Xoài ở về phía đông cách trấn 145 dặm. Hình núi cao ngất, cổ kính, có nhiều hang nai, đồi thông, mây phủ, thác suối, cảnh trí tịch mịch, chầu về thành Gia Định từ xa, cảnh núi trải ra đẹp đẽ. Lưng chừng sườn núi có động đá sâu, quanh co chật hẹp chưa ai đi vào cho hết được. Có nhà sư tịch cốc tên là Ngộ Chân, dựng chùa Đức Vân nơi cửa động để tu hành, hằng ngày chỉ ăn rau quả để tụng niệm Phật hiệu, thuần phục được cả hùm beo, lại giỏi vẽ bùa chữa bệnh, thâu được lễ tạ của người thì đem cấp cho người nghèo khổ, khốn cùng. Ấy cũng là một vị cao tăng đắc đạo vậy.
BÀ ĐỊA SƠN (NÚI BÀ RỊA)
Ở về phía đông bắc cách trấn 176 dặm rưỡi. Núi đá lởm chởm, cây cối xanh tốt, núi trông xuống chợ Long Thạnh, chắn ngang giữa đại lộ; dân ở đó đào mở đường giữa sườn núi để xe ngựa đi qua, hai bên đường tường đứng cao như vách, tợ như dũng đạo vậy ([27][27]).
SA TRÚC SƠN (NÚI SA TRÚC)
Tục gọi là núi Nứa, cách phía đông trấn 185 dặm ([28][28]), trên núi có nứa, dưới núi có chằm ([29][29]) lớn, người tụ tập làm nghề đánh cá.
THÙY VÂN SƠN (NÚI THÙY VÂN)
Ở về phía đông cách thành 194 dặm. Thế núi đứng dựa nơi bờ biển, cao lớn đẹp lạ thường, đỉnh chọc thẳng lên trời, nhìn thấy có mây từ trên núi tỏa xuống, cho nên mới có tên ấy. Trên núi có chùa Hải Nhật, là chỗ trông ra biển để đo bóng mặt trời. Phía bắc chân núi, cây cối xanh tươi, đó là hang lợn rừng về nghỉ ngơi, ở chân núi còn có đầm to từ biển thông vào, gọi là Sơn Trư Úc (tục gọi là bãi Heo), khi gió nam thổi mạnh, tàu thuyền thường vào đậu đấy để tránh.
THÁT KY SƠN
Tục gọi là núi Gành Rái, cách phía đông trấn 243 dặm rưỡi. Phía bắc từ trong chằm lớn băng qua khe [6a] rạch, tụ họp cát đá, chạy về hướng đông mà mọc ra, quanh vòng qua hướng tây, uốn lượn dáng như con rồng xanh tắm biển, rồi nổi lên 3 ngọn núi đá đứng sững như chân đỉnh ở giữa biển; dựng làm bãi neo cột nêu giữa biển, để chỉ rõ bờ bến cho thuyền nam bắc qua lại và ngăn sóng lớn dậy cuộn suốt ngày. Đầu núi làm cửa phải cho Tắc Ký ([30][30]), đuôi núi làm bình phong che ngoài cho Cần Giờ, phía trong có vũng lớn làm chỗ cho ghe thuyền neo đậu nghỉ ngơi. Trên núi có suối nước ngọt phun ra, dưới có dân chài sinh sống, thật là một cửa bể có phong cảnh đẹp nhất. Ở đầu gành thường có rái cá xuất hiện, nên mới có tên là núi Gành Rái.
THẦN MẪU SƠN
Tục gọi là mũi Bà Kéc ([31][31]), làm ranh giới phía bắc của trấn, cách trấn 249 dặm; có những đá đứng dọc theo bờ biển, dưới có nhiều rạn đá, trên có nhiều động cát, hay nổi gió to sóng dữ bất thường, người đi thuyền đến đây luôn cẩn thận. Trong động có miếu linh thờ Thần Nữ ở núi, mặt tiền miếu trông ra đường cái quan, hành khách chiêm lễ thường phải thành kính cúng bái và thả gà sống, [6b] treo giấy tiền để cầu thần phù hộ.
PHƯỚC LONG GIANG
Tục gọi là sông Đồng Nai, là một sông lớn ở phủ Phước Long, nên lấy tên phủ đặt tên sông (sau phần đông phỏng theo như thế).
Phát nguyên của sông này rất sâu xa, suối vực sâu rộng, xuất phát từ núi Thần Quy chảy ra, do nước đọng trong các núi, muôn hốc thông thương họp lại nên dòng nước mênh mông, chảy xuống hướng đông cho đến Tiểu Giang (sông Bé), xóm Sa Tân (Bến Cát), một hướng chảy về thác đá lởm chởm, nước chảy hung hãn hiểm ác, nên ghe thuyền không lưu thông được; nước thủy triều chỉ lên đến đây là dừng, thuyền buôn cũng đậu tại đây rồi lên trạm thuế giao dịch với người Thượng.
Từ đây trở xuống, sông rộng nước sâu, nước ngọt trong veo là thứ nước có tiếng tốt nhất thành Gia Định để dùng gội đầu hay pha trà, dù nước suối Trung Linh ở Kim Sơn ([32][32]) hay Bạch Hạc ở Ba Lăng ([33][33]) (Trung Quốc) cũng không hơn được. Chảy xuống một quãng nữa thì cùng sông Tân Bình hợp lưu thành ra sông Phước Bình, rồi chảy xuống hướng đông ra cửa biển lớn Cần Giờ. Thường đến tháng 8 hàng năm nước lụt đổ xuống, rửa sạch bao xú uế, [7a] lan tỏa khắp ruộng nương, tuy lụt có lớn nhỏ nhưng không sợ nạn tràn ngập mênh mông, người chết, nhà trôi, bởi vì sông này có nhiều nhánh rút chảy ra biển rất nhanh.
ĐẠI PHỐ CHÂU
Tục gọi là Cù Lao Phố, một tên gọi khác là Đông Phố (Giản Phố) ([34][34]) cũng còn gọi là Cù Châu, bởi địa thế cù lao uốn mình khoanh duỗi hình như con cù bông giỡn nước, nên có tên như vậy. Cù lao nầy cách phía đông trấn độ 3 dặm, dài hơn 7 dặm, rộng bằng 2 phần 3 bề dài, như con kim ngư trấn nơi thủy khẩu, cây trụ đá ngăn sóng lớn cho trấn thành.
Phước Giang (sông Đồng Nai) quanh phía nam, sông Sa Hà (Rạch Cát) vòng phía bắc, thuở trước có chiếc cầu ván bắc qua sông rộng rãi bằng phẳng, thông đến trấn lỵ.
Hồi tháng giêng năm Đinh Mão (1747) đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế thứ 10 Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8; Đại Thanh Càn Long thứ 12) ([35][35]) có khách buôn xứ xa người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Văn Quang đến khách ngụ ở Đại Phố, thấy cảnh thái bình, võ bị lơ là, lòng mừng thầm, bèn lén lút kết bè đảng [7b] hơn 300 người tự xưng là Đông Phố (Giản Phố) đại vương, dùng Hà Huy làm ngụy Quân sư, Tạ Tam làm ngụy Tả đô đốc, Tạ Tứ làm ngụy Hữu đô đốc, âm thầm tính chuyện xằng bậy, định đánh úp dinh Trấn Biên, nhưng chỉ sợ Khâm sai Cai đội Cẩn Thận hầu Nguyễn Cư Cẩn là người có võ nghệ cao cường, nên chúng bàn mưu trước tiên phải giết ông Cẩn thì việc sẽ dễ thành như trở bàn tay. Nhân ngày tết Nguyên đán, chúng bèn phục binh ở trong phố, rồi đem hơn 50 tên dũng cảm bày y phục theo kiểu đi mừng lễ ngày xuân, đến mừng tuổi tại dinh Cẩn Thận hầu, thừa lúc ngài vô ý cử sự, cùng rút đoản đao trong tay áo chém Cẩn Thận hầu bị thương. Cẩn Thận hầu lăn xuống vọt chạy chụp lấy ngọn phốc đao trên giá binh khí ở vách, giết được 5, 6 tên giặc, chúng bèn rút lui, chạy ùa vào trại quân đoạt được một số thương dài, rồi từ hai phía đông tây đánh ép. Lúc ấy Cẩn Thận hầu đã bị trọng thương đuối sức, kéo đao đánh bước giật lùi, không ngờ cán đao bị vướng hàng rào cây khiến ông vấp ngã, [8a] liền bị giặc đâm chết. Thế rồi thuộc binh của ông liền đến tiếp ứng, quân giặc chạy về tụ tập chận cầu để chống cự. Quan Lưu thủ Cường Oai hầu họ Nguyễn điều lính thủy bộ của dinh dàn trận ở bờ bắc, đốt phá cầu ván để cứ thủ, không dám tiến qua đánh dẹp, rồi đưa hịch báo cáo cho Cai cơ Đại Thắng hầu Tống Phước ([36][36]) Đại ở đạo Mô Xoài để cùng hiệp binh đánh dẹp. Quan quân bắt được bọn Lý Văn Quang cùng bọn đầu sỏ hung ác 57 tên. Nhưng nghĩ chúng nó là người của Thiên triều (Thanh triều) không nên giết vội, bèn giam chúng vào ngục rồi đem việc ấy tâu lên.
Mùa đông năm Ất Hợi (1755), nhân có bộ hạ của Tổng đốc Mân Chiết (Trung Quốc) là Thiên tổng Lê Huy Đức, Bá tổng ([37][37]) Thẫm Thần Lang, Hồ Đình Phụng đi tuần thú Đài Loan, thuyền bị gió bão bạt đến nước ta, nhân đó phối hợp cùng tàu buôn để đưa họ về nước, tiện thể tháng 7 mùa thu năm Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21) soạn công văn và bản án kể rõ tội trạng của tặc đảng. Bọn tù phạm trừ những kẻ đã thọ thương bị bệnh chết, hiện còn đám Lý Văn Quang, [8b] Hà Huy, Tạ Tứ cộng 16 người, giao cả cho đoàn Lê Huy Đức lãnh giải về tỉnh Mân, trình lên quan Tổng đốc xét xử trị tội.
Từ đó cầu bị phá bỏ rồi dần dà cho đến khi Tây Sơn nổi loạn vẫn không sửa lại được, nay phải dùng đò đưa người qua lại. Đầu phía nam cũng có bến đò đưa ngang qua chợ Bình Tiên (tục gọi là chợ Lò Giấy, khi quân Tây Sơn vào cướp phá đóng ở đấy lại gọi chợ Đồn, thuộc đất thôn Bình Tiên), từ đó do đường bộ đến thành Gia Định.
THẠCH NGHÊ (CỒN CON NGHÊ)
Ở về phía đông cách trấn 3 dặm rưỡi, nằm dưới dòng phía nam sông Phước Giang, hình dạng hòn đá giống con nghê, đầu sừng lộ ra rất rõ, dài chừng 10 trượng ([38][38]), bề ngang bằng quá nửa bề dài ([39][39]), đứng ngược dòng nước, mặt chầu về cửa thành, khi nước ròng sát trông thấy rất rõ.
CỰ TÍCH THẠCH
Còn gọi là Thạch Than (Thác đá) ở giữa Phước Giang, về phía nam cù lao Phố, cách trấn chừng 4 dặm [9a] nằm thiên về phía bắc; mô đá gồ ghề, lớn nhỏ chồng chất, làm cho thế nước chảy xiết, sóng gió vỗ ầm ầm, người đi thuyền phải hết sức cẩn thận. Dưới có con cá chép đen, mình lớn 6, 7 thước ta, mắt sáng như điện, vảy óng ánh như sao, mỗi khi đêm vắng canh khuya, nó thường đến trước miếu Chưởng cơ Lễ Thành hầu, nhảy qua thác, vượt qua sóng, bơi lội lên xuống, hình như thể vái lạy vậy.
Phía bắc thác đá có vực rất sâu, là nơi tàu bể các nước đến núp đậu. Từ trước thuyền buôn đến đây thả neo xong thì lên bờ thuê phố ở, đến nhà chủ mua hàng kê khai toàn bộ hàng hóa có trong thuyền trình sở thuế; chủ mua hàng định giá mua tất cả hàng hóa xấu tốt không sót lại thứ gì. Đến ngày trương buồm trở về, gọi là hồi Đường ([40][40]), nếu chủ thuyền muốn mua thứ gì thì cứ kê khai trước, người chủ vựa theo đơn đặt hàng mua dùm, hai bên chủ khách đều tiện, thanh toán hóa đơn rõ ràng rồi, khách cứ đàn hát vui chơi, đã được nước ngọt sạch sẽ, lại không có lo trùng hà ăn thủng ván thuyền, chỉ đợi tới ngày lui thuyền, chở hàng đầy khoang mà về xứ.
Từ khi Tây Sơn dấy loạn ([41][41]), quan quân về cả ở trấn Phiên An, thuyền buôn cũng dời theo đậu ở sông Tân Bình, nên đến nay tình thế đã thay đổi, thuyền cập bến không có chủ lớn mua mão bao trữ, nên phải gánh đến các chợ bán lẻ linh tinh, khi muốn mua thổ sản đem về, thì phải đi tìm đông, hỏi tây, rất nhọc nhằn. Lại có bọn côn đồ địa phương khéo giả dạng làm người ân cần thành thật, dối gạt mua xong lấy hàng rồi tìm nơi buồm ([42][42]) mất, nếu chủ thuyền mất một ít số vốn thì còn gắng chịu mà về, nhưng nếu mất vốn quá nhiều thì phải đậu thuyền qua mùa đông (phàm thuyền buôn người Tàu đến mùa xuân, thuận theo gió đông bắc mà đến, qua mùa hạ lại thuận theo gió nam mà về, nếu cuốn buồm đậu lâu quá, thu sang đông gọi là lưu đông, hay áp đông) để truy tầm bọn ấy khắp nơi, việc ấy làm cho người buôn đường xa ngày càng cực khổ.
NGÔ CHÂU (CÙ LAO NGÔ)
Ở về phía bắc lưu của Phước Giang, dài hơn 1 dặm, rộng bằng 1 phần 4 bề dài, cách phía tây trấn 19 dặm rưỡi. Nguyên trước liền với cù lao Tân Triều, năm Giáp Tý (1744), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 vì có lũ lớn, bị xói lở chia làm 2, phía đông thành cù lao Ngô [9b] phía tây thành cù lao Tân Triều, ở giữa có một sông nhỏ vừa cạn vừa hẹp chia ranh giới, nhiều cát sỏi nên chỉ ghe nhỏ đi chầm chậm thì mới qua lại được.
TÂN TRIỀU CHÂU (CÙ LAO TÂN TRIỀU) ([43][43])
Nằm ở trung lưu Phước Giang, cách phía tây trấn 21 dặm, dài 10 dặm, rộng 2 dặm rưỡi, dân ở đây chuyên việc làm vườn, nhưng chủ yếu trồng trầu vì trầu ở đây nhiều lá mà tốt, mùi vị lại thơm ngon, cho nên chỉ có trầu ở Tân Triều là nổi tiếng hơn hết.
TÂN CHÁNH CHÂU (CÙ LAO TÂN CHÁNH) ([44][44])
Nằm về phía nam lưu ([45][45]) Phước Giang, cùng nằm tiếp liền với cù lao Tân Triều và cù lao Ngô bày thành 3 cù lao giăng hàng mà cù lao nầy thì lớn hơn hết, bề dài 20 dặm, rộng 5 dặm rưỡi, cách trấn về phía tây 20 dặm, đất ở đây tốt, thích hợp với cây dâu và mía, nên ở đây sản xuất nhiều đường cát.
BỒNG GIANG (SÔNG LÁ BUÔNG)
Ở về phía tây cách trấn 11 dặm rưỡi, phía trên tiếp với 3 cù lao Tân Chánh, Tân Triều và Ngô, hợp lưu chảy xuống tới giữa rồi tạo ra Kính Hồ sâu rộng trong xanh, trấn áp vùng thượng du của hòn Rùa, khói sóng chờn vờn, núi sông tươi đẹp, huyền ảo như bồng lai tiên cảnh. Ở đây gồm thâu nhiều cảnh đẹp như viễn phố quy phàm (buồm về bến xa), bình sa lạc nhạn (nhạn đáp bãi cát bằng), và tình nham dạ vũ (núi tạnh, đêm mưa) [10b] khiến cho người có cảm hứng phong cảnh Tiêu Tương, vẽ thành tranh vậy.
KIÊN GIANG ([46][46]) (RẠCH VẮP)
Ở phía nam thượng lưu Phước Giang, cách trấn về phía tây nam 21 dặm rưỡi, sông từ phía bắc chảy qua nam, có rừng sâu khe đứt, giáp giới một chằm cạn, khi mưa lụt có thể thông đến dòng Cái Cát Hạ, chảy xuống ngã ba Bàng Giang (gọi là ngã ba Cái Con) rồi chảy vào sông lớn Băng Bột.
ĐÔNG GIANG (RẠCH ĐÔNG)
Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, cách tây bắc trấn 52 dặm rưỡi. Ngược dòng lên đầu nguồn về phía bắc 32 dặm rưỡi đến Thâm Tuyền, rừng rú hoang vu, thác đá nguy hiểm, ghe thuyền khó đi lại được. Từ đấy trở lên đều thuộc đất của người Thượng hung dữ.
TIỂU GIANG ([47][47])
Tục gọi là Sông Bé ở tổng Phước Vinh, phía nam Phước Giang, cách trấn về phía tây 109 dặm rưỡi, phát nguyên [10b] từ 2 sách ([48][48]) sơn man Võ Tam và Võ Viên ([49][49]) quanh co chảy xuống hướng Đông 53 dặm đến thủ sở Tham Linh, bị thác gành ngăn cản, rồi chuyển quặt ra phía bắc 242 dặm tạo thành cửa Tiểu Giang hợp lưu với Phước Giang.
LA NHA GIANG (SÔNG LA NGÀ)
Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, sông này phát nguyên từ núi Phố Chiêm thuộc trấn Thuận Thành chảy về nam. Lại từ núi Phố Chiêm chảy ra phía bắc gọi là sông Dã Dương rồi vòng quanh núi Cộp Cộp ([50][50]) (nước sông chảy xiết cọ vào đá, tiếng kêu cộp cộp nên còn gọi là núi Sông Bập ([51][51])) chảy xuống đông rồi hợp lưu với nguồn Bàn Thạch ở trấn Phú Yên.
SA HÀ (RẠCH CÁT)
Tục gọi là Rạch Cát, ấy là bắc lưu của Phước Giang, cách phía đông trấn 3 dặm rưỡi. Sông này chảy quanh cù lao Đại Phố. Lại có tên là Hậu Giang ([52][52]), đầu phía tây nhiều khúc cạn, khi nước ròng thì lội bộ qua được.
AN HÒA GIANG (SÔNG AN HÒA)
Ở về phía bắc Phước Giang, cách trấn về phía đông 19 dặm. Ngoài cửa sông là sông Đồng Chân, chảy ra bắc nửa dặm [11a] đến chợ thôn An Hòa, trước kia đây là bến để gỗ, cho nên còn gọi là Bến Gỗ, qua hướng đông bắc nửa dặm đến cửa sông Thiết Tràng ([53][53]) (tục gọi là rạch Lò Thổi ([54][54]), về hướng tây bắc 3 dặm rưỡi nữa đến chợ Lò Thổi là cùng nguồn) rồi chảy 4 dặm nữa hợp lưu cùng sông Bối Diệp (sông Lá Buông).
KÍNH CHÂU
Tục gọi là cù lao Cái Tắt ([55][55]), ở hạ lưu Phước Giang, cách phía đông nam trấn 21 dặm rưỡi. Cù lao dài 13 dặm, rộng 7 dặm, có ruộng nương nhà cửa của dân ở đó. Phía trái cù lao là Đông Giang, rộng lớn mênh mông, sóng gió chập chùng; phía bên đông Đông Giang thông với 3 đường sông Bối Diệp (sông Lá Buông), Thanh Thủy và Đồng Môn. Phía hữu là Tây Giang, tuy có hẹp nhỏ phần nào nhưng lại đường tắt gió lặng, ghe thuyền lớn nhỏ qua lại đều đi đường đó. Chỗ đuôi cù lao, hai sông Đông Giang và Tây Giang hợp lưu, gọi là sông Lan Ô ([56][56]) (sông Chàng Hảng), sông rộng nước sâu, nước bùn đục của các sông chảy đến đây đều được lắng lọc trở nên trong sạch. Khúc sông này lại có cù lao lớn chặn hai đầu trên xuống dưới, nên chỗ ấy có nhiều gió cuộn, lại do nhiều dòng nước chảy xiết va chạm nhau [11b] thành sóng lớn, dao động bất thường. Phía đông hạ lưu sông Lan Ô có cù lao Văn Manh (cù lao Muỗi Mòng), cù lao này dài 4 dặm rưỡi, rộng 4 dặm, che lấp cửa sông Mao Đằng (tục danh Rạch Choại ([57][57]) - thổ sản có dây chại); cỏ cây ở đây rậm rạp, sinh nhiều giống muỗi mòng nên có tên ấy. Đoạn sông này chảy tán loạn ra nhiều ngả, sau mới chảy gộp về chỗ cuối cùng, đó cũng là cửa sông Tam Giang - Nhà Bè ([58][58]).
BỐI DIỆP GIANG (SÔNG LÁ BUÔNG)
Tục gọi là rạch Lá Buông, ở đấy có nhiều cư dân sinh sống bằng cách lấy lá buông dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu đem bán sinh nhai, nên mới gọi tên như thế. Sông nầy ở hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn 30 dặm, sông nhỏ mà dài, ngược về nguồn 10 dặm đến thượng khẩu Nguyệt Giang, lại thêm 10 dặm rưỡi nữa đến thượng khẩu sông Đồng Chân ([59][59]), 23 dặm nữa đến cầu ngang đường cái quan, 10 dặm đến phân thủ Bối Diệp ([60][60]), 27 dặm đến phần sông Ngã Ba; nơi đây nước chia 2 nhánh đông tây; nhánh phía đông chảy quanh qua bắc 50 dặm đến Thâm Tuyền (Suối Sâu), là cùng nguồn rồi chảy vào chân núi Làng Giao. Nhánh phía tây chảy quanh qua bắc hơn 24 dặm đến thác Xung tục gọi Hàn Kiết ([61][61]), đá thác chẹn cứng, trên đấy là nơi chợ trao đổi hàng hóa của các dân thuộc man ([62][62]). [12a] Ghe thuyền đi đến đây là tận cùng, còn như gốc nguồn của nó thì ở trong núi sâu xứ Cao Miên, nước thường chảy róc rách từ đó ra.
ĐỒNG MÔN GIANG (SÔNG ĐỒNG MÔN) (ĐỒNG MUN) ([63][63])
Ở hạ lưu sông Phước Giang, phía đông sông Đông Giang, cách trấn hơn 35 dặm; cửa sông rộng 8 trượng, sâu 1 trượng, chảy về hướng đông bắc 21 dặm đến miệng suối Tông (tục gọi là suối Uổng) ([64][64]), ở bờ tây chảy về hướng tây 5 dặm rưỡi đến cầu Thanh Thủy ở đường cái quan rồi hợp với thượng lưu sông Thanh Thủy, 3 dặm nữa đến miệng suối Quán Thủ (suối ở bờ bắc), đi ngược theo hướng tây bắc 6 dặm rưỡi đến cầu ngang Quán Thủ, 20 dặm nữa đến nơi cùng nguồn. Bờ nam có đóng năm đồn đất, nửa dặm đến cầu ngang, đầu cầu phía bắc đi 1 dặm rưỡi đến thủ sở Đồng Môn (Mun) ra đường cái quan. Đầu cầu phía nam đi 13 dặm rưỡi đến chợ sông Mao Đằng (sông Choại), từ đây chảy thêm một dặm rưỡi nữa là đến cùng suối. Đến cách chợ Đồng Môn (Mun) một dặm, đi về phía đông nửa dặm đến sông Trảo Trảo, chảy hẹp lại phía đông bắc 2 dặm đến cửa suối Đồng Hươu, từ cửa suối ngược lên phía tây 3 dặm đến cầu ngang Đồng Hươu, hiệp với đường cái quan, lại chảy 31 dặm đến Án Tuyền (suối Án) là nơi cùng nguồn vậy. Từ miệng suối Đồng Hươu chảy về hướng đông 13 dặm rưỡi rồi hiệp lưu với sông Ký.
[13a] KÍ GIANG (SÔNG BÀ KÍ)
Ở về phía đông cách trấn 91 dặm; sông này chảy từ Nam lên Bắc, dài 12 dặm rưỡi, đến Đại Tuyền (suối Lớn) là nơi cùng nguồn thì dừng lại. Giữa có đường cái quan, có cầu ngang để thông qua lại, cửa sông chảy về đông hợp với sông Đảo Thủy ([65][65]) (tục gọi là Nước Lộn), rồi chảy ra cửa sông lớn Mô Xoài. Sông chảy về tây hợp với sông Đồng Hươu, qua sông Đồng Môn (Mun) rồi chảy ra sông lớn Phước Long.
PHÙ GIA TAM GIANG KHẨU (CỬA TAM GIANG NHÀ BÈ - NGÃ BA NHÀ BÈ)
Nước ngọt sông Phước Long từ bắc chảy đến, nước lợ sông Tân Bình từ nam chảy lại, hợp lưu chảy xuống đông tạo thành sông Phước Bình, ấy là cửa Tam Giang, nước toàn mặn cả. Cách phía đông nam trấn 73 dặm rưỡi, từ đấy trở xuống hướng nam bắc có nhiều sông nhánh, duy một dải sông lớn chảy xuống đông, đổ ra cửa biển Cần Giờ. Xưa khi mới đặt 2 dinh Trấn Biên và Phiên Trấn, mà đường bộ Bình Đồng chưa mở, hành khách đi lại phải đáp đò dọc. Đầu bến đò phía bắc ở bến Sa Hà (Rạch Cát) thuộc dinh Trấn Biên, [13b] đầu bến đò phía nam ở đầu cầu đò tổng Tân Long (tục danh Cầu Đò, ở địa phận thôn Tân Hương, nay vẫn còn). Phàm người đi thuyền khởi hành từ Trấn Biên, phải đợi khi nước ròng thuận dòng mới cho thuyền đến cửa Tam Giang, đến sông Tân Bình, đến đây lại gặp nước ngược phải cắm thuyền đợi khi nước lên thì mới thuận dòng đi tiếp. Còn kẻ khởi hành ở bến đò phía nam cũng phải lựa thế đi như vậy. Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hẹp nhỏ, hành khách thổi cơm, đun trà rất khổ, vì vậy có người phú hộ ở tổng Tân Chánh là Võ Thủ Hoằng ([66][66]) kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bắt phải trả tiền. Sau đó khách buôn cũng kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc, nhóm thành chợ trên sông, nên mới gọi xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phải dẹp bỏ. Trải qua cuộc loạn Tây Sơn, Nhà Bè tan rã, đến nay cũng không làm lại.
[14a] BĂNG BỘT GIANG (SÔNG BĂNG BỘT) ([67][67])
Ở nơi cuối cùng ranh giới phía tây bắc trấn. Phát nguyên từ chằm Đồng Nhai (chằm tròn rộng sâu trong, cây cối rậm rạp là chỗ ở của bộ lạc man dã Đồng Nhai) chảy quanh qua hướng đông, nước ngọt đầy tràn qua đến địa đầu trấn Phiên An làm thành sông Tân Bình, thì nước lại lợ.
NGŨ CÔNG THAN (THÁC NĂM ÔNG)
Ở tại nguồn Trọc Thủy (Nước Đục) trên phía tây sông Băng Bột là ranh giới cuối cùng phía tây nam của trấn. Từ nguồn của nó là cửa sông Tân ở trước miếu Ngũ Công đi về hướng nam có thác đá chênh vênh gồ ghề lồi lõm, nước tung sóng vỗ, chảy mạnh qua gồ đá cao, chỉ dân chuyên nghiệp dùng thuyền độc mộc nhỏ mới dám liều đi qua. Những tay sào ([68][68]) chống đỡ trước sau, giữ gìn hết sức lực, nếu chỉ một chút sai sót liền bị lật chìm, bể nát.
Ngược dòng lên hơn 215 dặm đến thác Tà Môn ([69][69]), 30 dặm nữa đến thác Hóp (Hớp, Ngáp) ([70][70]), nửa dặm đến thác Lớn, 1 dặm đến thác Tà Má, 17 dặm đến [14b] thác Chế Yêm, 2 dặm rưỡi đến thác đá Tà Nông, 54 dặm ([71][71]) đến ngã ba sông Tràm, ở đây nước chia ra 2 nhánh, nhánh chảy hướng tây nam tục gọi là sông Tràm. Ngược dòng lên 18 dặm đến thác đá Tà Vẹt, nơi đây nước chảy cạn có đá nhô ra, rặt thú dữ và dân man núi ở, đầu nguồn còn xa gần thế nào thì không thể rõ được. Nhánh tây bắc gọi là sông Dụ, đi thêm 13 dặm đến thác đá Tà Khuông, cửa đá lấp đóng, thâm lâm cùng cốc, nơi dân mọi dữ ([72][72]) chiếm cứ, nếu muốn đi đến cùng đầu nguồn cũng không được.
LÃO TỐ CƯƠNG (GIỒNG ÔNG TỐ) ([73][73])
Ở tổng An Thủy, huyện Bình An, làm giới hạn phía nam của trấn; có gò nổi cao, bằng phẳng quanh co, nơi địa khí hội tụ, cây cối tốt tươi, gò dài 7 dặm rưỡi, rộng 3, 4 dặm, có sông nhỏ từ phía bắc chảy vào nam, bao quanh phía trước. Đây là gò đất bằng phẳng của hệ núi Chiêu Thái (Châu Thới).
CẨM ĐÀM
Tục gọi là vũng Gấm, ở tổng An Phú, huyện Phước An. Vũng này sâu rộng do các dòng chảy đến họp lại, có khi mặt trời chiếu từ xa [15a] ráng chiều phản chiếu xuống, sắc cây xanh tốt, sóng nước long lanh, xa trông rất rực rỡ, nên mới đặt tên Gấm là như vậy. Trong vùng có nhiều cá sấu thường bắt người ăn thịt, người qua lại phải hết sức cẩn thận, nên mới có ngạn ngữ: Hung ác như cá sấu vũng Gấm.
TOÁI ĐÀM
Tục gọi là Đầm Nát, ở địa phận huyện Phước An. Đầm do các sông hợp lại, thông khắp các nẻo; cồn bãi trùng điệp, ngành nhánh quanh co, ngang dọc chằng chịt họp rồi tan, rừng chằm rậm rạp, trước sau trông không thấy nhau. Thuyền đi khi thuận khi nghịch, đang đi phía trái bỗng chuyển phía phải. Nếu chỉ quên một chút, ắt phải lạc đường, cho nên người ta phải hết sức cẩn thận. Nơi đây không có dân cư làng mạc, cho nên tuy người đã quen đường mà đi một mình đến đây cũng phải ngờ ngợ mà tạm dừng lại, đợi khi họp được nhiều thuyền cùng nhau hỏi han, sau đó mới kết đoàn mà đi. Lại còn có bọn trộm cướp ẩn núp ở đây, người buôn bán thường hay bị chúng hại. Năm Gia Long thứ 12 (1813) có chia đặt trạm sông, mỗi trạm đều có lính trạm trú đóng, không những việc chuyển công văn được mau lẹ mà nạn trộm cướp do đó cũng được dẹp tan, nhân dân nơi đó được nhờ.
[15b] THẤT KỲ GIANG
Tục gọi là Ngã Bảy, ở về phía đông sông Phước Bình, phía nam có ngã ba, phía bắc có ngã tư hình chữ thập, nên gộp lại mới có tên là Ngã Bảy. Nhưng ở đây có nhiều ngã ba và nhiều ngã tư hình chữ thập mà tên ấy không thể chỉ định ở một chỗ nào. Bởi vì hệ thống sông này chằng chịt xiên xỏ rất phức tạp, xuyên qua nhau mà chảy, đáng đặt tên là sông Hỗn Đồng (trộn lộn) chứ chẳng nên câu nệ bởi cái tên Thất Kỳ.
DƯƠNG ÚC (VŨNG DƯƠNG) (CÒN GỌI VŨNG DANG)
Nơi đây gần bãi biển ở phía đông của trấn, dân cư tụ tập, đồng mặn ngàn khoảnh, đều là ruộng muối. Dân ở đây lấy việc phơi muối làm nghề chính.
HƯƠNG PHƯỚC GIANG
(Tức là sông Mô Xoài, là nơi 2 thôn Long Hương và Phước Lễ cùng đài thọ lính trạm). Ngược dòng lên phía bắc chuyển qua phía tây đến suối Châu Phê ([74][74]) gặp suối Giao Kèo, qua Thâm Tuyền (suối Sâu) đến đầu nguồn sông Mông Giang, tục gọi là sông Xoài, dài 15 dặm, chảy qua nam độ 4 dặm là cửa sông lớn Hương Phước rồi hợp lưu cùng các sông khác.
[16a] TẮC KÝ (CỬA LẤP HAY GIẾNG BỌNG) ([75][75])
Cách trấn về phía đông 210 dặm. Lòng cảng có cồn cát dời đổi bất thường. Cửa cảng bề ngang rộng 90 tầm ([76][76]), khi nước lên cảng sâu từ 13 thước ta trở lên, 17 thước ta trở xuống. Dân miền biển nhóm đến đây làm nghề chài lưới câu cá, là nơi sản xuất cá muối của trấn này.
THUYỀN ÚC
Tục gọi là Vũng Tàu ([77][77]), ở về phía đông cách trấn 234 dặm rưỡi. Lưỡi đất phòi ra ngoài biển, càng ra xa càng lớn. Phía bắc bao lấy cửa Tắc Ký, phía nam dựa vào Thát Sơn (núi Gành Rái), che khuất cửa biển Cần Giờ. Thế đất trông rất sung mãn, mặt vũng hướng về tây, lòng vũng to rộng là nơi thu kết các dòng nước nhỏ của các sông đầm và các ngòi rạch chảy về biển, làm nơi ghe thuyền đến đậu rất yên ổn.
XÍCH THỔ (ĐẤT ĐỎ)
Là đất gồm 7 xã thôn phường: Phước Hòa, Phước An Trung, Phước Lộc Thượng, Phú Thạnh, Long Thới, Long Hòa và Thới Thạnh thuộc tổng Phước Hưng, huyện Phước An. Vùng nầy trồng dâu, mè, bắp, khoai, đậu, xanh tốt sai đẹp. Cách Nục Giang nửa ngày đường [16b] có dân trấn Thuận Thành sống chung ở đó. Đất nơi đây sắc đỏ vàng nên người ở đây có nước da vàng ủng, áo quần vật dụng tuy cất kín trong rương tủ, nhưng sắc cũng biến thành màu vàng, vì khí đất nhiễm vào.
XÍCH RAM GIANG (SÔNG XÍCH RAM)
Ở về phía đông bắc cách trấn 209 dặm, có cầu ván bắc ngang. Sông dài 173 tầm, là nơi đường bộ đi ngang qua, nước sâu 5 thước ta. Phía hạ lưu của cầu chuyển quanh vào nam 3 dặm là cảng biển Xích Ram ([78][78]), khi thủy triều lên sâu 10 thước ta, rộng 33 trượng ([79][79]) rưỡi, cảng dời đổi, thông kẹt bất thường. Từ cầu ngược lên phía tây 28 dặm rưỡi đến cầu Thạch Than, ở đây thác đá trùng điệp, ghe thuyền khó đi, lại ngược dòng quanh co 30 dặm đến Lai Giang rồi quanh qua tây nam đi 92 dặm rưỡi đến suối Dạ Lao Hạ. Lại quay về nam 46 dặm đến suối Dạ Lao Thượng rồi đến địa hạt đồn Đồng Môn, một đường mà núi rừng sầm uất, buôn sóc của các dân man đã thuần chia nhau sinh sống, họ đều nạp thuế và đi phu dịch.
[17a] HẢI ĐỘNG HỒ
Tục gọi là Hồ Tràm, cách trấn về phía đông bắc 227 dặm rưỡi. Nơi đây, động cát nối liền, cỏ cây xanh tốt, trong có hồ lớn xanh trong, nước đều ngọt cả, không khi nào khô, mọi người đều nhờ nước ấy.
RỪNG SÁC
(Sách Phong tục thông chú giải nghĩa: Chữ tẩu (chằm lớn) nghĩa là hậu, vì có cỏ, cây, cá mắm để nuôi nấng con người).
Từ Tam Giang Nhà Bè, xuống phía đông đến cửa Cần Giờ, phía bắc đến cửa Tắc Ký, phía tây đến Ký Giang, trong khoảng ấy có đến trăm ngàn cồn bãi, các bãi ấy đều có rừng chằm cả. Cây ở đó gọi là cây dà, đước, sú, vẹt ([80][80]) và những cây tạp khác, rừng xanh cây rậm, tán nhánh giao nhau, che kín mặt trời. Người ta dùng những cây ấy để làm nhà cửa, rào giậu, cột cọc, than củi, không ngày nào ngớt. Còn hải sản như cá, tôm, cua, sam và ốc len ([81][81]) thì bắt dùng không hết mà cũng không ai ngăn cấm. Ấy là chỗ chí công vô cùng của trời đất ban cho để nuôi dưỡng người dân Gia Định vậy.
[17b] PHỤ CHÉP LỜI KHẨU THUYẾT
Đồng Nai (仝狔) là tên duy nhất của trấn Biên Hòa, mà chợ Đồng Nai lại ở phía nam hạ lưu sông Phước Giang cách trấn độ 8 dặm ngoài. Do ban đầu là cánh đồng cho nai hươu ở, cho nên mới gọi là Đồng Nai, tên chữ là Lộc Dã, còn gọi là Lộc Động.
Đất Gia Định có 5 trấn riêng biệt: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Trong đó tên đất cũng nhiều, nhưng theo cư dân ở đây thường nói thì chỉ gọi đất Biên Hòa là Đồng Nai, Bà Rịa; đất Phiên An là Bến Nghé, Sài Gòn; đất Định Tường là Vũng Gù, Mỹ Tho; đất Vĩnh Thanh là Long Hồ, Sa Đéc; đất Hà Tiên là Cà Mau ([82][82]), Rạch Giá. Ấy là tên chỗ lỵ sở hoặc chỗ địa đầu, hoặc chỗ quần tụ cư dân đông đúc, ấy là nói tổng quát mà không phải kê cứu mô tả kỹ lưỡng vụn vặt một cách phiền phức.
[18a] Còn như Gia Định mà gọi là Đồng Nai tất nhiên cũng có cơ sở. Nguyên Gia Định khi bắt đầu khai thác thì từ chỗ Đồng Nai trước cho nên người đời trước có ý như dùng cái gốc để tóm cái ngọn, lấy chỗ đầu để kéo được cả đuôi, bèn gọi chung là Đồng Nai. Ngày nay, cứ noi theo mà không xét cho rõ. Người bản xứ đã gọi bừa là Đồng Nai, thì người nơi hạt khác cũng cứ nghe theo là Đồng Nai, chẳng tìm hiểu cho rõ. Khi gặp việc phải làm, hoặc khi bàn luận, hay tìm thăm bà con thì ngờ nghệch chẳng biết tông tích của xứ sở nằm ở đâu, phần nhiều là như vậy.
Trải từ lúc Tây Sơn dấy loạn, Thế Tổ Cao Hoàng đế ta đem quân Đồng Nai lấy lại kinh thành Phú Xuân, bình định Bắc Hà, quét sạch giặc biển, dẹp 3 kẻ thù lớn, lúc đó danh tiếng Đồng Nai mới lan tận Trung Quốc. Vì mùa thu năm Nhâm Tuất (1802) niên hiệu Gia Long năm đầu, nước ta qua nạp cống nhà Đại Thanh thì đã thấy sử sách Trung Quốc chép người Đồng Nai là người Nông Nại, tức cái tên ấy đã được cả thiên hạ biết tới. Tuy tên gọi ấy xưa nay có khác, nhưng nguyên ủy sự sửa đổi ([83][83]) dị đồng thì không thể không biết cho rõ được.
BÀ RỊA
Bà Rịa (Bà Địa) là vùng đất có tiếng đầu biên giới của trấn Biên Hòa, cho nên các phủ ở phía bắc ([84][84]) có câu ngạn ngữ: Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang ([85][85]). Ấy là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa (Bà Địa) làm tên đầu để gọi cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ vào trong đó.
Đất này dựa lưng vào núi, mặt trông ra biển, rừng rậm, tre dầy, trên có sở tuần để vẫy gọi dân man mọi đến đổi chác, vùng dưới có trạm cửa bể để xem xét thuyền bè lúc đi ra biển, đường trạm thủy bộ giao tiếp. Việc cung nộp sơn, lâm, thổ sản, chế ngự Đê, man, bắt giữ phòng ngừa đạo tặc, đã có đặt huyện, nha, đạo, thủ, chia giữ nhiệm vụ, chính là nơi xung yếu, bận rộn, khó nhọc bậc nhất. Có nhiều cửa quan hiểm yếu, di chỉ của các thành trì xưa đến nay hãy còn để lại, khác gì quốc đô của các vương giả.
[19a] Bà Rịa (Bà Địa) là đất Lục Chân Lạp xưa, xét Tân Đường thư chép: "Nước Bà Lịa
(婆利) ở ngay phía đông nam Chiêm Thành, từ Giao Châu đi thuyền theo ven biển qua các nước Xích Thổ, Đan Đan là đến. Xứ ấy đất rộng, đảo nhiều, còn gọi là Mã Lễ, đây có tục xâu tai đeo hoa, dùng một khúc vải cát bối quấn ngang lưng. Phía Nam miền ấy có nước Thù Nại, sau niên hiệu Vĩnh Huy đời Đường (651-655) thì bị Chân Lạp thôn tính." Cứ theo như lời nói ấy mà suy thì các tục ấy giống như phong tục của Cao Miên và Đê, man ngày nay, mà địa điểm đất đai cũng thế. Tra theo Chính vận thư thì chữ "lợi" (利) được phiên âm là "lực địa thiết" tức "lịa", vậy nghi chữ "Bà Rịa" (Bà Rịa) tức là nước "Bà Lịa" xưa. ([86][86])
Còn chữ Thù Nại so với Đồng Nai và Nông Nại thanh âm không sai lắm, có thể cũng là đất Sài Gòn ngày nay, tạm chép phụ như vậy, chờ sự khảo biện sau nầy.
([1][1]) Nguyên văn viết trung ngoại (中外). Trung (中) chỉ ở trong nước, tức Trung Quốc. Ngoại (外) chỉ ở ngoài nước Trung Quốc, tức tứ di.
([2][2]) Quản tử (管子): Tên sách gồm 24 quyển. Bản cũ đề "Quản Trọng đời Chu soạn", nhưng nội dung sách phần nhiều chép những việc sau khi Quản Trọng đã qua đời, điều đó chứng tỏ sách đã được người sau thêm vô nhiều điều. Nguyên bổn (bản) gồm 86 thiên, nay thất lạc 10 thiên. Chú của sách nầy xưa ghi do Phòng Huyền Linh soạn. Theo Triều thị độc thư chí thì sách nầy chính do Duẫn Tri Chương chú. Chữ tử chỉ là chữ đệm, Quản tử tức Quản Trọng, Tướng quốc của Tề Hoàn công.
([3][3]) Thử Môn: (暑門): Sách Trụy hình của Hoài Nam Tử chép: "Nam Phương là núi của Nam Cực, là Thử Môn (Cửa Nóng)". Phương Nam thạnh dương, chứa ẩm nơi đó, cho nên mới gọi là Cửa Nóng.
([4][4]) Sử ký (史記): Sách gồm 130 quyển do Tư Mã Thiên đời Hán tiếp tục công trình của cha là Đàm mà soạn thành, chép sự việc từ đời Hoàng Đế cho đến Hán Quang Vũ gồm 12 thiên Bản kỷ để tự thuật các đế vương, 10 thiên Biểu để quán nhật nguyệt, 30 thiên Thế gia để tập thuật công hầu, 70 thiên Liệt truyện để chép chuyện sĩ thứ, 8 thiên Thư. Tổng cộng 130 thiên.
([5][5]) Thập châu ký (十洲記): Chỉ một quyển, gọi đủ là Hải nội Thập châu ký. Bản xưa đề là "Đông Phương Sóc đời Hán soạn". Thập châu là: Tổ, Doanh, Huyện, Viêm, Trường, Nguyên, Lưu, Sanh, Phụng Lân, Tựu Quật các châu. Về sau thêm vô mấy châu nữa là: Thương Hải Đảo, Phương Trượng Châu, Phù Tang, Bồng Khâu, Côn Luân.
([6][6]) Nhận: (仞): Theo Từ Hải (bộ từ điển do Thư Tân Thành chủ biên - chú của Bt), một nhận bằng tám thước đời Chu, tức bằng 6,48 m. Nhưng cũng có sách nói một nhận bằng một tầm. Thường nhận là một đơn vị chung chung dùng để đo phỏng chiều cao một cách đại khái như Sơn cao thiên nhận, ý nói núi cao lắm.
([7][7]) Nam thiên hạ diêm phù đề: (南天下閻扶提): Kinh Phật cho rằng trong bốn bể quanh Tu Di Sơn có bốn châu lớn gọi là Tứ đại Bộ châu. Đó là: Đông Thắng Thần châu, do thân hình châu nầy rất thù thắng địa hình như bán nguyệt, mặt người cũng thế. Nam Thiệm Bộ châu tức Nam Diêm Phù Đề; Thiệm là tên một thứ cây, châu nầy do tên cây mà thành, địa hình như thùng xe, mặt người cũng thế. Tây Ngưu Hóa châu và Bắc Câu Lư châu. Cõi Nam thiên hạ diêm phù đề hiểu theo nghĩa hẹp là đất Ấn Độ theo vũ trụ quan thời cổ đại.
([8][8]) Cửu châu (九洲): Thời xưa Trung Quốc phân thiên hạ ra làm chín châu. Có ba cách phân cửu châu khác nhau là: Vũ Cống cửu châu, Nhĩ Nhã cửu châu và Chu Lễ cửu châu. Vũ Cống cửu châu đời Hạ: Duyện, Ký, Từ, Thanh, Dự, Kinh, Dương, Ung, Lương. Nhĩ Nhã cửu châu đời Thương: Ký, Dự, Từ, Ung, Kinh, Dương, Duyên, U, Dinh. Chu Lễ cửu châu đời Chu: Dương, Dinh, Dự, Thanh, Duyên, Ung, U, Ký, Tính.
([9][9]) Trấn: Nên hiểu đây là trấn lỵ (Bt).
([10][10]) Theo cuốn Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine (PCGBC) của Trương Vĩnh Ký in năm 1875 thì Bửu Phong sơn là núi Lò Gốm, bởi khi xưa đây là nơi làm gạch làm gốm, còn gọi là Đào Lư, Đào Cang (Gò Đào). Tiếng Khơ me là Phnom Dan Dàv.
([11][11]) Thiền sàng: Đá bằng phẳng, các thiền sư dùng nơi đây làm giường, làm sập nằm nghỉ, như thiền sàng trong chùa.
([12][12]) Sông Phước Long tức là sông Đồng Nai. Sông nầy cũng còn gọi là Phước Giang, bắt nguồn rất xa từ núi Thần Qui vùng cao nguyên Tây Bắc của Trấn Biên nơi vùng dân tộc ít người (Cao nguyên Langbiang - Lâm Đồng). Khi chảy xuống gần biển lại thành sông Tân Bình, Phước Bình.
([13][13]) Dặm là dịch chữ Lý (里) ở nguyên văn. Một lý, tức dặm bằng 576 m (mètres) (xem thêm chữ Xích ở phần từ vựng). Theo Histoire du Việt Nam của Lê Thành Khôi, 1 dặm ta = 720 m. Đơn vị đo chiều dài của ta xưa qui ra mét (mètre) theo Tây phương không thống nhất.
([14][14]) Chúng tôi dịch hệ vì trong thực tế, núi Châu Thới nằm trơ trọi một mình không có dính liền với các núi tả trong đoạn vốn nằm rất xa núi cái Châu Thới. Núi Thần Qui cũng vậy, vì tác giả miêu tả cả một hệ núi theo đường chéo nam bắc, tây đông, lấy núi Thần Qui làm giao điểm. Các núi liên hệ này nằm rất xa núi Thần Qui, như núi Bà Đen ở tận Tây Ninh, núi Thùy Vân ở tận bãi biển Vũng Tàu, trong khi núi Thần Qui ở cực tây giáp với trấn Bình Thuận.
([15][15]) Phước giang: Tên gọi tắt của sông Phước Long giang tức sông Đồng Nai hiện nay.
([16][16]) Nguyên văn viết Phần tu chi địa (焚須之地) Phần tu có nghĩa đốt hương (phần hương) để tu hành. Chữ "Phần tu" này thoát ý từ chữ "Huân tu" (薰須) là tiếng nhà Phật. Huân có nghĩa là xông hơi cho đượm thấm, tu là tu hành, tức lấy đức tu thân, như lấy hương thơm xông ủ áo quần, cho nên gọi là huân tu. Phần tu chi địa có nghĩa là "chỗ tu hành".
([17][17]) Theo Từ Nguyên, 1 dặm = 576m Þ 445 dặm = 257 km.
([18][18]) Nguyên văn viết Vị cư Hợi Long (亥竜) tức long mạch ở về ngôi hợi, tức vị trí tây bắc.
([19][19]) Hỏa tinh (火星) theo sách Phong thủy, núi cao nhọn gọi là hỏa tinh, nhưng đây cũng có thể là tên núi.
([20][20]) Nguyên văn viết chữ Nôm (每}) là Mọi Xoài, nhưng người địa phương gọi là Mô Xoài, chúng tôi xin dịch Mô Xoài, tức vùng Đồng Xoài Bà Rịa ngày nay. Hai chữ Nôm 每} đã có nhiều cách đọc khác nhau: Mỗi Xu, Mũ Xuy, Mũi Xuy, Mũi Xoài. Huỳnh Tịnh Của trong Đại Nam quấc âm tự vị dịch Mọi Xoài là đúng với âm của hai chữ Nôm trên. Trương Vĩnh Ký chịu khó tìm hiểu tận địa phương thì nhân dân ở đây gọi là núi Mô Xoài. Do đó ông chép trong sách PCGBC là Mô Xoài.
([21][21]) Bà Địa: Tức Bà Rịa.
([22][22]) Núi Thùy Vân: Ở bãi Sau Vũng Tàu.
([23][23]) Tức núi Bà Đen ở Tây Ninh.
([24][24]) Dân địa phương chỉ gọi tắt là Chợ Lò, nay là ấp Thiết Tượng (鐵匠) có nghĩa là Lò Thợ Rèn, nhưng có nhà khảo cổ viết sách giải thích "Thiết Tượng" là "mỏ sắt to bằng con tượng", hoặc có một số người cho rằng "Thiết Tượng" là con voi sắt, (có lẽ do nhầm chữ tượng (匠) vốn có nghĩa là thợ với chữ tượng (象) là con Voi). Ấp này ở xóm Cầu Ván, xã An Hòa, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
([25][25]) Theo quyển sáu, trang 5718 hạ sách Phật Quang đại từ điển chú thì Tăng hay gọi đủ là Tăng Già, tiếng Phạn là Sạm - gha, tiếng Pali đồng, là từ chỉ chung Tì Khâu hay Tì Khâu Ni, nhưng về sau Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam lại phân biệt Tỳ Khâu Ni là ni, còn Tì Khâu (Kheo) là tăng, vậy dùng từ "Nữ tăng" để chỉ tì kheo ni, hay ni cô, bà vãi gì đều được cả.
([26][26]) Có người địa phương cho biết đây là núi Lang Giao. Thật ra chữ 廊 nếu đọc theo chữ Hán là lang, còn đọc theo chữ Nôm là làng. Văn bản của Trịnh Hoài Đức không làm dấu nên chưa rõ chữ này là Hán hay Nôm. Chúng tôi theo sách PCGBC của Trương Vĩnh Ký phiên âm là Làng Giao.
([27][27]) Dũng đạo (甬道): Lối giữa. Ngày xưa quan đi đắp đường cao hơn hai bên gọi là dũng đạo.
([28][28]) Nguyên văn in kèm bản dịch Viện Sử học do Nhà xuất bản Giáo dục in năm 1998 (xin viết tắt là VSH) chép 185 dặm, nguyên văn do Viện Hán Nôm lưu trữ (xin viết tắt là VHN) cũng chép 185 dặm, chỉ có nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép 80 dặm. Có thể 80 dặm là nhầm, vì núi Sa Trúc, tức núi Nứa Nhỏ vùng Long Thành gần núi Giồng Dài, núi Bà Vãi Lượng, mới gần Trấn Biên hơn núi Bà Rịa nhiều, tức cách làng An Hòa chừng 10 dặm, cách trấn chừng 30 dặm, còn đây là núi Nứa Lớn ở vùng Bà Rịa cách xa trấn hơn Bà Rịa. Vậy xin chọn cách trấn 185 dặm.
([29][29]) Chằm: Vùng đất thấp bỏ hoang, thường bị ngập nước (Bt).
([30][30]) Theo Trương Vĩnh Ký, Tắc Ký còn có tên Nôm là Cửa Lấp hay Giếng Bộng.
([31][31]) Nguyên văn viết $婆% tức "Mũi Bà Khịt". Chữ Nôm % nầy Thượng Tân Thị dịch là "Hét", bản dịch của VSH dịch là "Khế". Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Tự điển chữ Nôm của tác giả người Nhật Yonosuke Takeuchi đều phiên âm là Khịt nhưng viết là (%). Tuy nhiên, Trương Vĩnh Ký, trong PCGBC cho núi này có tên cũ đọc theo tiếng Khơ me là Phnom Sek, có nghĩa "núi Kec" (Tự điển Khơ me - Pháp của T. B. Bernard dịch Sek là perroquet: có nghĩa là con kéc). Có thể núi này có tên trong thư tịch là "Bà Khịt" và được người địa phương gọi theo tên cũ của Khơ me là Bà Kéc? Bản đồ của Taberd in năm 1838 cũng ghi mũi này là "Mũi Bà Kéc". Ngoài ra nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo lại chép là 潔 và dịch giả Tu Trai đọc là "Khiết".
([32][32]) Kim Sơn - Trung Linh (金山中冷): Suối Trung Linh ở Kim Sơn, nước rất ngon ngọt, nay ở phía tây bắc huyện Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. Sách Trung triều cố sự chép: Lúc Lý Đức Dũ ở triều đình, có người thân vâng mệnh vua đi sứ Kinh Khẩu. Lý căn dặn người đó: "Ngày trở lại hãy mang về cho tôi một bầu nước suối Trung Linh ở núi Kim Sơn vùng sông Dương Tử nhé".
([33][33]) Ba Lăng - Bạch Hạc (巴陵白鶴): Suối Bạch Hạc ở Ba Lăng vùng Tây Bắc huyện thành Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, nước trong ngọt nổi tiếng, nấu trà rất ngon.
([34][34]) Giản Phố (柬埔): Cù lao nầy nguyên có tên là Giản Phố châu, nhưng do chữ giản (柬) và chữ đông (東) tự dạng trông rất dễ lầm nên có lẽ đã bị đọc lầm.
([35][35]) Chú thêm của dịch giả về niên hiệu các đời vua tương ứng (Bt).
([36][36]) Bản VHN chép Tống Văn (文) Đại.
([37][37]) Thiên tổng (千總), Bá tổng (百總) là chức quan võ ở tam đại doanh có từ đời nhà Minh, do các quan có công to đảm nhiệm, nhưng về sau thì quyền chức dần dần bị xem nhẹ, đến đời Mãn Thanh thì chỉ là chức quan võ cấp thấp, lục quân và hải quân đều có cả, như Doanh thiên tổng.
([38][38]) Một trượng (丈) bằng 10 xích (尺 - thước) tức bằng 3,2 m, hoặc 4 m tùy lúc, tùy nơi.
([39][39]) Nguyên văn viết: Đại bán chi (大半之) có nghĩa "bề to bằng nửa bề dài", dịch thoát cho dễ hiểu là "bề ngang bằng nửa bề dài".
([40][40]) Đường (唐) là một triều đại văn trị, võ công rạng rỡ của Trung Quốc, nên người Trung Quốc tự xưng mình là Đường nhân, nước Trung Quốc là Đường Sơn hay Đường. Vì khách buôn là người Trung Quốc, nên hồi Đường là trở về Trung Quốc.
([41][41]) Tây Sơn dấy loạn: Do Trịnh Hoài Đức là đại thần nhà Nguyễn nên gọi Tây Sơn là "dấy loạn". Xin phiên dịch đúng theo ngôn phong của tác giả.
([43][43]) Cù lao Tân Triều ngoài tiếng tăm về trầu còn vang danh về bưởi. Bưởi Biên Hòa, nhất là Tân Triều, vỏ mềm, ruột to, múi mọng nước, lại rất ngọt.
([44][44]) Cù lao Tân Chánh theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC còn gọi là Đồng Sứ, và theo di cảo của ông có tên tiếng Khơ me cũ là Kòh Krec.
([45][45]) Bắc lưu, trung lưu, nam lưu là tính các đoạn sông theo chiều bắc nam. Nếu tính theo chiều ngọn ra vàm thì gọi là thượng lưu, trung lưu, hạ lưu.
([46][46]) Kiên Giang đây là sông Kiên Giang của Biên Hòa, không phải Kiên Giang, Rạch Giá.
([47][47]) Sông Bé gọi là Tiểu Giang, cũng còn gọi cách khác là Tiểu Thủy.
([48][48]) Sách hay sóc là buôn sóc của người Khơ me.
([49][49]) Theo Vương Hồng Sển trong cuốn Tự Vị tiếng Việt miền Nam thì Võ Tam và Võ Viên có thể là Dõ Tam và Dõ Viên. Dõ có nghĩa là chốn canh phòng giặc, nghĩa như là đồn, tương tự tên các địa phương khác có chữ Võ như Võ Sa, Võ Đắc, cũng chính là Dõ Sa, Dõ Đắc.
([50][50]) Nguyên văn viết: 吸吸. Hai chữ này nếu đọc theo âm Hán Việt là Cấp cấp, nếu đọc theo âm Nôm là hấp hấp hay cộp cộp đều là tượng âm tiếng nước sông chảy xiết va vào vách núi mà phát ra. Chỗ này, xin dịch là núi "Cộp Cộp" (hay Hấp Hấp)
([51][51]) Nguyên văn chép núi x. Chữ x nầy là chữ Nôm, trong cả hai tự điển tiếng Nôm của Vũ Văn Kính và của Yonosuke Takeuchi đều ghi phát âm hai cách là mép và bập. Xin chọn chữ "Bập" (vì sông này khi nước chảy tuôn cọ vào đá phát ra tiếng kêu "Bập bập, cộp cộp"), và dịch là núi Sông Bập.
([52][52]) Không nên lầm với Hậu Giang của hệ sông Cửu Long miền Tây.
([53][53]) Thiết Tràng (鐵場) có lẽ là con sông Bùng Binh ngày nay nối sông An Hòa, Bến Gỗ với sông Lá Buông. Thiết tràng có nghĩa là "nơi nấu sắt" khi xưa.
([54][54]) Rạch Lò Thổi chảy qua xóm Thiết Tượng (鐵匠) tức xóm Lò Rèn, nay là xóm Cầu Ván, xã An Hòa.
([55][55]) Nguyên văn viết cái ('). Chữ ' này cả hai cuốn tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Yonosuke Takeuchi đều âm là dứt, nhưng chúng tôi xin chọn "Cái Tắt" theo Trương Vĩnh Ký. (Xem thêm chú thích "Cái Tắt Cầu Sơn" ở sau).
([56][56]) Nguyên văn viết: 攔污. Lan (攔) có nghĩa là "ngăn chặn" hàm ý "gạn lọc". Ô (污) có nghĩa là cặn cáu, tức con sông gạn đục làm trong nước các con sông khác chảy về đây. Trương Vĩnh Ký gọi theo người địa phương là sông Chàng Hảng, tức hình thế hợp lưu này như người đứng chàng hảng (đứng dạng chân ra).
([57][57]) Người Nam Bộ đọc là chại.
([58][58]) Tam Giang - Nhà Bè (xin xem chú thích ở chữ nầy).
([59][59]) Đồng Chân: Nguyên văn viết Đồng Chân (同真), các sách khác viết Đồng Chơn, Đồng Tuyên, nhưng trong di cảo của TVK lại căn cứ theo tên Khơ me cũ: Péam prêk tranchick Kran mà ghi là Đồng Tranh. Aubaret trong dịch bản Gia đinh Thung chi cũng dịch là "Don Tranh" tức Đồng Tranh vậy.
([60][60]) Phân thủ (分守) là đồn thủ ngự phụ cho đồn thủ ngự chánh.
([61][61]) Nguyên văn viết: 翰戛, tra tự điển Nôm không thấy, chúng tôi đành đọc theo âm Hán Việt là Hàn Kiết (xin được chỉ giáo).
([62][62]) Thuộc man (屬蠻) là dân tộc ít người đã "thuộc hóa", "thuần hóa" sống hiền lành gần người Kinh. Ngược lại với thuộc man là "ác man" tức người dân tộc còn hoang dã sống trong rừng sâu (theo cách gọi xưa).
([63][63]) Di cảo Trương Vĩnh Ký chép Đồng Mun tức cánh Đồng Đen (Mun) do tiếng Khơ me Kompon là cánh đồng, Khmau là đen, mun.
([64][64]) Nguyên văn viết: (枉 tức suối Uổng, nhưng nguyên văn bản dịch của VSH lại chép là suối Đỗ ((杜). Aubaret cũng dịch là suối Uổng (Giadinh Thungchi P. 166: "Ton thuyen (Tôn Tuyền) vulgairement appellé Xuoi uong").
([65][65]) Đảo Thủy giang (倒水江) tức sông Nước Lộn. Tên chữ của "sông Nước Lộn" nầy có sách chép là "Đảo Thủy giang" có sách chép là "Hỗn Thủy giang" nhưng theo Trương Vĩnh Ký thì chính là Hiệp Thủy giang. "Đảo Thủy", "Hỗn Thủy" và "Hiệp Thủy" đều có nghĩa là "nước lộn" như nhau.
([66][66]) Vì kỵ húy tên vua Hoằng Lịch (Càn Long) nhà Đại Thanh nên phải đọc trại đi là Võ Thủ Huồng. Cầu Thủ Huồng giữa Tân Vạn và chợ Đồn (Biên Hòa) tương truyền do Võ Thủ Huồng xây dựng đến nay vẫn còn.
([67][67]) Băng Bột giang (冰渤江): Nguyên văn ở cả GĐTTC và Đại Nam nhất thống chí đều chép 冰渤 tức Băng Bột. Thượng Tân Thị dịch là Thủy Bột, Nguyễn Tạo dịch là Băng Bột, nhóm dịch giả VSH dịch là Băng Bọt, Trương Vĩnh Ký cho là Thủy Vọt. Có lẽ Thượng Tân Thị nhầm chữ Băng (冰) thành Thủy (水). Nhóm dịch giả VSH nhầm Bột (渤) thành Bọt (浡). Trương Vĩnh Ký nếu dịch chữ Băng Bột (冰渤) thành Thủy Vọt (水)) cũng nhầm.
Trong thực tế sông Băng Bột hay Thủy Vọt không ai biết là sông gì, ở đâu, chỉ căn cứ theo điều Trịnh Hoài Đức tả thì đoán nó chính là phần ngọn con sông Sài Gòn, chảy gần tới Thủ Dầu Một gọi là sông Thị Tín, chảy ngang tòa bố Thủ Dầu Một gọi là sông Thủ Dầu Một, và chảy xuống tới đầu Sài Gòn thành sông Tân Bình.
([68][68]) Nguyên văn sào sư (篙師)chỉ có nghĩa là kẻ chống cây sào đẩy ghe chớ không phải "bậc sư" về đi ghe.
([69][69]) Tà là tiếng Khơ me có nghĩa là "ông" dùng gọi người lớn tuổi.
([70][70]) Nguyên văn chữ Nôm 哈 cả hai cuốn Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Yonosuke Takeuchi người Nhật đều đọc là Hóp, Hớp, hoặc Ngáp. Xin chọn cả ba vì không thể xác định được.
([71][71]) Nguyên văn bản VSH chép 14 dặm, nguyên văn in kèm bản Nguyễn Tạo chép 20 dặm, nguyên văn VHN lưu trữ chép 54 dặm.
([72][72]) Nguyên văn "ác man" (惡蠻), cần dịch là "Mọi dữ", phân biệt với "thuần man".
([73][73]) Chữ "Giồng" ở đây có nghĩa là một chuỗi dài gò nỗng. Nguyên văn chép "Lão Tố Cương" (老素岡) cũng có nghĩa là "gò Lão Tố", nhưng người địa phương quen gọi đất ấy là "Giồng Ông Tố" (nay thuộc quận 9, thành phố Hồ Chí Minh).
([74][74]) Nguyên văn viết *+ không phải Châu Tì, Châu Phê, Thù Thì. Đã tra nhiều từ điển chữ Nôm nhưng không thấy, xin tạm dịch "Châu Phê".
([75][75]) Nguyên văn viết塞,, đọc là Tắc Ký. Trương Vĩnh Ký trong PCGBC cũng chép là Tắc Kí, tên Nôm là Cửa Lấp hay Giếng Bọng. (Tên Cửa Lấp này được ghi rất rõ trong bản đồ An Nam đại quốc của Taberd, ấn hành năm 1838.)
([76][76]) Một tầm (尋) bằng 8 thước ta, tức 3,2 m (mètre).
([77][77]) Vũng Tàu: Tiếng Pháp gọi là Cap Saint Jacques, cũng còn gọi là Ô Cấp, Thuyền Úc.
([78][78]) Nguyên văn đoạn nầy viết: 赤藍 phải đọc là Xích Lam. Trương Vĩnh Ký trong PCGBC lại viết là Xích Ram. Ram chữ Nôm viết là - tức chữ Lam có bộ hỏa bàng. Mà đúng là Xích Ram vì ở câu đầu phần toàn thành Cương vực: Gia Định vị cổ, Chân Lạp chi địa, Đông Nam tế hải hữu Xích Ram Cần Giờ... Tác giả viết chữ Ram có bộ Hỏa (-) hẳn hoi.
([79][79]) Trượng (丈) bằng 10 thước ta = 4 mét.
([80][80]) Dà, đước, sú, vẹt, cây mắm là những cây vùng rừng ngập mặn ở diên (duyên) hải.
([81][81]) Thương loa (蒼螺): Ốc xanh, là con ốc len vỏ màu xanh, thịt có gân màu xanh đeo ở cây mắm, cây vẹt vùng rừng ngập mặn ngoài bãi biển.
([82][82]) Cà Mau còn gọi là đạo Long Xuyên. Đạo Long Xuyên này hoàn toàn không phải tỉnh Long Xuyên (thuộc An Giang) sau này. Thời Trịnh Hoài Đức chưa có tỉnh Long Xuyên.
([83][83]) Nguyên văn diên cách (沿革) có nghĩa là theo thể chế cũ mà sửa mới lại, vậy nên dịch là "sửa đổi".
([84][84]) Các phủ phía bắc: tức các phủ Bình Thuận, Thái Khang (Khánh Hòa), Bình Định....
([85][85]) Ý nói hai nơi Phan Rang, Phan Rí có nhiều cá ngon; Đồng Nai, Bà Rịa có nhiều gạo tốt.
([86][86]) Thiết âm là cách mượn âm hai chữ để phiên âm, tức lấy phụ âm chữ đầu ráp với nguyên âm hay khuôn âm chữ sau để phát âm, như "Lực địa thiết" thì dùng phụ âm Lờ (L) của chữ Lực + với khuôn âm "ịa" của chữ Địa để đọc thành Lịa.
Vì người Hoa phát âm chữ R không được nên tất cả âm R họ đều viết thành âm L như Phan Rí thành Phan Lý, Phan Rang thành Phan Lang, Pari (Paris) thành Ba Lê. Vậy âm Bà Rịa được viết thành Bà Lịa (婆利). Về điểm này có thể Trịnh Hoài Đức đã nhầm khi cho rằng Bà Rịa (Bà Địa) của dinh Trấn Biên (Biên Hòa) là xứ Bà Lịa (婆利) mà sách Tân Đường thư đã miêu tả. Xứ Bà Lịa mà sách Tân Đường thư miêu tả là xứ Bornéo, hoặc xứ Kalimantan, hay đúng nhứt có lẽ là xứ Bali của Indonésia. Theo quyển Từ Hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ấn hành năm 1989 thì Bà Lịa là tên nước xưa, đất xưa, hoặc có người cho rằng ngày nay là đảo Kalimantan của Indonésia, hoặc đảo Bali của Indonésia, mà sách Tùy thư, Nam man liệt truyện, cùng sách Đường thư, Nam man liệt truyện đều có kể đến nước Bà Lịa ấy cũng còn gọi là Mã Lễ (Bà Lịa giả, cổ quốc danh, cổ địa hoặc dĩ vi tại kim Ấn Độ Nê Tây Á Gia Lý Man Đan Đảo (...) hoặc dĩ vi tại kim Ấn Độ Nê Tây Á Ba Ly (...) đảo. Tùy thư Nam Man liệt truyện hòa Đường thư Nam Man liệt truyện hữu chuyên ký thuật. Diệc viết Mã Lễ). Thời Trịnh Hoài Đức, kiến thức địa lý hải ngoại của người Việt rất hạn hẹp mà sách vở của Trung Quốc thời đó lại không có chữ La Tinh như ngày nay nên khó đoán định là chuyện thường.
TRẤN PHIÊN AN
BÀ ĐINH SƠN (NÚI BÀ ĐINH) (BÀ ĐEN - ĐIỆN BÀ) ([1][87])
Cả trấn đều kính ngưỡng, ở cách trấn về phía tây 261 dặm rưỡi. Núi này đất đá lởm chởm cao, cây cối xanh tốt, có suối nước ngọt, đất đai màu mỡ, [19b] trên có chùa Vân Sơn, dưới có chằm hồ, cảnh trí thực là u nhã, rừng rú, hang hố sâu thẳm, có thôn xóm của người Thổ và người Việt ở la liệt, nhân dân đều nhờ món lợi của núi rừng. Ở đây, người ta thường đào được các vật xưa bằng vàng ngọc, tương truyền có khi trông thấy cả chiêng vàng ở trong hồ, cũng giống như việc cái khánh nổi ở bến sông Tứ hay chuông tìm được ở sông Trường Giang vậy, nhưng đến gần thì biến mất. Có đêm trời quang mây tạnh lại thấy có thuyền rồng bềnh bồng, hát múa du dương, hoặc có khi thấy con rùa vàng lớn hơn 1 trượng, ẩn hiện bất thường, là do linh khí tụ lại, chứ không phải việc quái đản.
MAI KHÂU (GÒ CÂY MAI)
Ở về phía nam cách trấn thành 13 dặm rưỡi, gò đất nổi cao, có nhiều cây nam mai thân cỗi nghiêng ngang, nhưng khi trổ hoa nở không bung xòe trắng tinh rạng rỡ, cánh hoa vẫn còn úp túm giữ mùi thơm. Thứ hoa này vốn bẩm linh khí mà sinh ra, không thể dời trồng ở nơi khác được. Trên có chùa Ân Tông, đêm tụng kinh, chiều giộng chuông, âm thanh tản mạn trong mây khói, giống như đang ở giữa thế giới núi Linh Thứu của Phật. Lại có suối trong chảy quanh chân núi, các du nữ chiều mát quẫy mạnh mái chèo đi hái sen; gặp khi trời đẹp, văn nhân thi sĩ [20a] mang bầu rượu leo từng bậc cấp lên đây ngâm vịnh dưới gốc hoa ở đầu gò, câu chữ nồng nàn, thật là một thắng cảnh cho người du lãm.
Nơi đây, ngày xưa là chỗ chùa tháp đất Phật của nước Cao Miên, nền móng xưa còn thấy rõ. Năm Bính Tý (1816) niên hiệu Gia Long thứ 15, có nhà sư sửa sang lại chùa và đã đào lấy được nhiều gạch lớn, ngói xưa, và cả 2 miếng vàng lá hình vuông, mỗi bề hơn 3 phân, mỗi miếng nặng 3 đồng cân, trên mặt chạm hình cổ Phật kỵ tượng (Phật cưỡi voi), có thể đây là cái vật của Hồ tăng ([2][88]) dùng để trấn tháp đó chăng ?
TÂN BÌNH GIANG ([3][89]) (SÔNG BẾN NGHÉ)
Ở phủ Tân Bình, trước thành Gia Định, tục gọi là sông Bến Nghé, rộng 142 tầm, sâu 10 tầm, khi nước lên sâu 13 thước ta, sông này vừa rộng lớn vừa trong sâu, những tàu buôn và ghe thuyền sông biển trong và ngoài nước ra vào không ngớt, trông thấy đầu tàu nối liền, đuôi cột buồm chi chít, đủ biết đó là nơi đô hội. Từ bến đò trước thành, uốn quanh lên phía tây đến sông Bình Đồng (tục gọi là sông Đồng Cháy) qua sông Băng Bột (Thủy Vọt), ngược lên thủ sở Tầm Phong Tích rồi đến thác lớn Bưng Đàm (Nhồm) là chỗ cuối nguồn, tất cả là [20b] 462 dặm. Từ bến đò trước thành quanh ra phía bắc uốn qua đông xuống cửa Tam Giang Nhà Bè, hợp làm sông Phước Bình đổ ra cửa lớn Cần Giờ là 142 dặm rưỡi. Hai bên sông có nhiều sông nhánh, phía tây nam sông thuộc địa giới trấn Phiên An, phía đông bắc thuộc địa giới trấn Biên Hòa.
CẦN GIỜ (CỬA CẦN GIỜ)
Cửa cảng rộng 5 dặm, khi nước lên cảng sâu 12 tầm, nước ròng sâu 9 tầm, ở về phía đông cách trấn 142 dặm rưỡi, có thủ ngự đạo Cần Giờ, phố chợ rất đông đúc, dân ở đây đều theo nghề đánh cá. Trong cảng nước sâu rộng và rất yên lặng, thường ngày có thuyền buôn ra vào, là nơi hội tụ ghe thuyền đông đúc của thành Gia Định, không đâu sánh được.
ĐỒNG TRANH HẢI CẢNG (HẢI CẢNG ĐỒNG TRANH)
Cửa cảng rộng 14 dặm rưỡi, khi nước lên sâu 5 tầm, nước ròng sâu 2 tầm, ở về đông nam cách trấn 126 dặm rưỡi, có đồn canh biển chống giữ. Bờ biển bùn lầy, lòng cảng nước cạn, nên không tiện cho thuyền lớn ra vào, [21b] có lạch nhỏ nước sâu, ở đây có trồng cột tiêu để chỉ lối cho đường thủy. Nhưng do bị gió sóng mưa lụt, nên cảng dời đổi sâu cạn, cong thẳng rất bất thường, phải cần dân ở đó dẫn lối mới đi yên ổn được. Nhưng do nguồn lợi nghề đánh bắt cá bằng lưới đáy ([4][90]), bằng nò rạo ([5][91]) ngoài biển, nên dân ở đây đổ xô đến ở nhiều. Trong cảng có nhiều đường thông nhau rất phức tạp, nay chỉ tạm nói những con đường mà dân chúng thường đi: một đường do sông nhỏ Ốc Len đi về phía bắc ra cửa sông Động Đình, xuống hải cảng Cần Giờ; một đường do sông nhỏ Lò Rèn đi về phía tây bắc ra cửa sông Lôi Giáng đến sông lớn Phước Bình. Còn như dân ở đây khi về bến thì bằng nhiều đường không thể kể xiết.
LÔI LẠP HẢI CẢNG (HẢI CẢNG LÔI LẠP) ([6][92])
Cửa cảng rộng 4 dặm rưỡi, khi nước lên sâu 4 tầm, nước ròng sâu 2 tầm, cách phía đông nam trấn 62 dặm. Cảng này bùn lầy, nước cạn, dân cư làm nghề chài lưới, câu cá. Phía nam cảng có một đường từ Thảo Giang (Vàm Cỏ) đi về tây nam, trải qua sông Xá Hương xuống đến sông Bảo Định; ở giữa có một đường từ sông Xá Hương đi về phía tây xuống sông Thuận An; phía bắc một đường từ cửa sông Phước Lộc [21b] đi lên hướng tây bắc đến Sa Giang (Rạch Cát) xuống đến sông An Thông. Trong ấy còn nhiều đường tắt quanh co chằng chịt không thể kể hết.
BÌNH TRỊ GIANG
Tục gọi là Rạch Bà Nghè (Thị Nghè) ở địa phận tổng Bình Trị về phía bắc của trấn, từ sông Tân Bình quanh ngả sau trấn lỵ qua khỏi cầu ngang, ngược dòng lên phía tây 4 dặm rưỡi đến cầu Cao Miên; từ cầu chảy về hướng tây bắc chừng 2 dặm đến cầu Chợ Chiểu (Bà Chiểu), chảy về phía nam chừng 4 dặm đến cầu Phú Nhuận (tục danh Xóm Kiệu), 6 dặm rưỡi nữa đến Cầu Huệ là cuối nguồn, nơi đây đầy dẫy những ao vũng.
Bà Nghè là con gái đầu của Khâm sai Chánh thống Vân Trường hầu, tên bà là Nguyễn Thị Khánh, có chồng là thư ký mỗ ([7][93]), người đương thời gọi là Bà Nghè mà không gọi tên thật. Nhân vì khi đầu bà khai chiếm đất ở, bắc cầu ngang qua sông để tiện đi lại, nên dân quen gọi là cầu Bà Nghè (cầu Thị Nghè), cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè (sông Thị Nghè) ([8][94]).
TẤT KIỀU KINH KHẨU
Tục gọi là Cái Tắt ([9][95]) Cầu Sơn, cách phía bắc trấn 7 dặm rưỡi. Từ phía tây bắc Bình Giang ngược dòng qua quan lộ chỗ Cầu Sơn [22a] rồi chuyển về hướng bắc 8 dặm thì đổ ra sông lớn Bình Đồng.
LÃO ĐỐNG ([10][96]) TRẠCH (CHẰM LÃO ĐỐNG)
Cách trấn về phía tây 62 dặm rưỡi, có bến đò Sưu ở đó. Chằm rộng 8 dặm rưỡi, sâu 4, 5 thước ta, bốn mùa nước đều trong vắt bát ngát, từ đầu bến đò chuyển qua nam rồi sang đông chảy ngang đường cái cầu Tham Lương; lại từ đầu bến đò chảy ra bắc đến cửa chằm Nhu Nê (tục gọi là Bến Ngập ([11][97])) chảy ra Tra Giang ([12][98]) rồi hợp lưu với thượng lưu sông Tân Bình.
TẦM LONG TÂN (BẾN TẦM LUÔNG)
Nguyên trước là đất của Cao Miên (người Cao Miên gọi sang sông là Tầm Long ([13][99]), nay cũng dùng nguyên tên ấy). Chỗ này thuộc địa giới huyện Thuận An, cách tây nam trấn 207 dặm, tiếp giáp với phủ Tầm Đôn của Cao Miên, đây là đường của người Cao Miên đem voi sang cống, có nhiều thuộc Cao Miên (người Cao Miên ở thuộc hạt nước ta mà đóng thuế xong thì gọi là thuộc) cùng người Việt ở lẫn lộn với nhau, rừng rú rậm rạp, những chỗ đã được khai khẩn đều thành ra những cánh đồng trồng dâu, trồng mía.
BÌNH DƯƠNG GIANG [22b]
Tục gọi là vàm Bến Nghé, thuộc đất huyện Bình Dương, ở về phía nam trấn; dòng sông chảy rất mạnh, thuyền lớn đều lưu thông được, cứ khi nước lên thì đi vào nam, thuận nước ròng đi ra bắc, qua lại không dứt. Giới hạn của sông này đến sông Rạch Ong Nhỏ rồi vào sông Sài Gòn và cùng hợp lưu với sông An Thông.
ĐẠI PHONG GIANG (RẠCH ONG LỚN)
Ở về phía đông sông Bình Dương cách trấn 6 dặm về phía nam. Dòng sông uốn khúc quanh co, hai bên bờ có nhiều cây thủy liễu, tục gọi cây bần, ô lô ([14][100]), thủy vi, tục gọi là rau ráng ([15][101]). Chảy xuống hướng đông 4 dặm rưỡi thì chia làm 2 nhánh, nhánh bên phải chảy vào nam 4 dặm rưỡi hợp với sông Tiểu Phong (rạch Ong Nhỏ); nhánh bên trái chảy sang đông bắc 1 dặm rưỡi đến Phổ Giang, 5 dặm rưỡi nữa chảy ra bắc đổ ra sông Thủy Vi, (tục gọi là Khúc Ráng) rồi hợp với sông lớn Phước Bình.
TIỂU PHONG GIANG (RẠCH ONG NHỎ)
Sông này gối đầu vào giáp giới của 2 con sông Bình Dương và An Thông, cách phía nam trấn 6 dặm rưỡi, chảy ra bắc rồi hợp với sông Đại Phong (rạch Ong Lớn).
AN THÔNG HÀ ([16][102])
Tục gọi là sông Sài Gòn ở về phía tây nam của trấn. Sông cũ từ cầu Thị Thông đi qua Sài Gòn đến sông Lao, chảy quanh co mà nhỏ hẹp, khuất khúc, nước cạn. Mùa xuân năm Kỷ Mão (1819) niên hiệu Gia Long thứ 18, vua sai Phó Tổng trấn thành Gia Định là [23a] Thị trung Tả Thống chế Lý Chính hầu Hoàng Công Lý (cha vợ vua) giám đốc dân phu trấn Phiên An hơn 11.460 suất chia làm 3 phiên, quan trấn cấp tiền gạo, để đổi đường sông cũ, đào mở kinh mới. Bắt đầu từ cầu Thị Thông (Bà Thuồng) thẳng đến sông Mã Trường (kinh Ruột Ngựa) dài 2129 tầm 1 thước, kể tương đương 9 dặm rưỡi (kém số cũ 997 tầm), bề ngang 15 tầm sâu 9 thước ta, 2 bên để đất trống đều rộng 8 tầm ([17][103]), đến đường quan bề ngang 6 tầm. Khởi đào vào ngày 23 tháng giêng đến ngày 23 tháng tư thì xong. Vua ban tên gọi là sông An Thông; dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, tùy theo con nước lên xuống mà đi lại, cùng nhau chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, là chỗ lưu thông đô hội rất là tiện lợi.
MÃ TRƯỜNG GIANG (KINH RUỘT NGỰA) ([18][104])
Nguyên xưa từ cửa Rạch Cát qua phía bắc đến Lò Ngói có một đường nước đọng trâu đi, ghe thuyền không đi lại được. [23b] Mùa thu Nhâm Thìn (1772), Đốc chiến Đàm Ân hầu (con thứ 5 của Chính thống Vân Trường hầu) sau khi đi dẹp Cao Miên về, cho đào con kinh thẳng như ruột ngựa, nên mới đặt tên ấy, nhưng nó hãy còn cạn hẹp, nên thuyền đi đến đây phải tạm dừng để đợi nước lên mới đi tiếp qua được. Đến nay đã đào thêm khá sâu rộng. Nhân dân đều cho là rất tiện lợi.
SA GIANG (RẠCH CÁT)
Ở về phía đông nam thượng lưu sông Tân Long, cách trấn về phía tây nam 22 dặm. Nước sông chảy vào hướng nam, quặt quẹo qua đông 29 dặm rưỡi đến sông Phước Lộc, 61 dặm chảy ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp). Hai bên là ruộng nương, bờ ruộng chạy ngang dọc chằng chịt.
TÂN LONG GIANG (SÔNG CHỢ ĐỆM - NGÃ TƯ BA CỤM)
(Phía trên từ cửa trên sông Sa Giang (Rạch Cát), dưới đến sông lớn Thuận An, sông này làm giới hạn cho huyện Tân Long). Cách trấn về phía tây nam 22 dặm, chảy về tây nam 5 dặm rưỡi đến chợ Bình An (tục gọi là Ngã Tư, thuộc đất thôn Bình An). Dọc theo sông, phố xá trù mật, bán các thứ như xuồng [24a] gỗ than, dầu rái, bao cà ròn và buồm chiếu. Quá 12 dặm rưỡi đến quán Tam Dong (ba cây Đa) ([19][105]) (tục gọi là xóm Ba Cụm) ([20][106]) có miếu cổ ba cây Đa. Nước sông có phèn và mặn, có nhiều thứ cây cỏ hẹ và tu xà; 11 dặm rưỡi nữa đến cửa Trúc Giang, 8 dặm rưỡi đến sông lớn Thuận An (tục gọi vàm Bến Lức). Trước khi đi đến sông Thuận An nửa dặm có chợ Phước Tú (tục gọi là chợ Bến Lức) thuộc thôn Phước Tú. Ở bờ phía nam sông ấy, quán xá trù mật, thuyền bè qua lại tạm dừng để đợi nước lên sẽ đi tiếp vào nam hay ra bắc. Sau chợ là sở huyện nha.
THUẬN AN GIANG
Tục gọi là sông Bến Lức, thuộc địa phận huyện Thuận An (Nay là Tân An), cách trấn về phía tây nam 67 dặm; sông rộng nửa dặm, sâu 5 tầm, mùa đông, mùa xuân nước trong mà mặn, mùa thu, mùa hạ nước đục mà lợ. Đối diện cửa sông Tân Long ngược lên tây bắc 93 dặm rưỡi đến thủ sở đạo Quang Hóa ([21][107]). Đối diện cửa sông Tân Long xuống đông nam chảy 42 dặm đến [24b] sông Xá Hương.
SONG MA GIANG (SÔNG ĐÔI MA)
Cũng gọi là sông Tình Trinh ở bờ bắc hạ lưu sông Thuận An, cách phía nam trấn 90 dặm. Tương truyền xưa có người con gái nhà giàu họ Phạm, tuổi vừa cập kê, đem lòng yêu phong cách cậu học sinh họ Nguyễn nọ nhưng hổ thẹn về việc tự ước hẹn ([22][108]), còn cậu học sinh thì vì nhà nghèo hèn, không dám nhờ mai mối cầu hôn; cô gái sinh ra tương tư u buồn rồi chết, cha mẹ cô thương tiếc không nỡ vội chôn, bèn làm lều sau vườn tạm để khơi quan tài ở đấy, cậu học sinh nghe tin cô gái vì mình mà chết cũng đến thắt cổ tự tử ([23][109]) chết bên cạnh cô, nhân đó người ta quàn 2 quan tài cạnh nhau, do âm khí kết tụ, lâu ngày thành ma phá phách. Ban đầu còn nương hồng tựa lục, hiện bóng dật dờ trong canh khuya, đêm vắng! Sau lại loan nghiêng phụng ngửa, ngả ngớn hiện hình trong lúc ban ngày, ban mặt ở chỗ đông người, nhưng khi ấy cũng chưa làm hại đến ai. Mãi sau cha mẹ cô chết, nhà cửa suy tàn [25a], 2 cái quan tài ấy rốt lại không ai chôn cất, lùm buội mọc phủ lên thành gò, vong hồn ấy có khi hóa làm du nữ đi lừa ghẹo người ta, hoặc giả bóng thuyền buôn bỡn người qua lại, dân ở đấy rất phiền khổ nên gọi tên chỗ ấy là Song Ma (Đôi Ma) để biết mà tránh. Khi Tây Sơn vào chiếm, đi qua chỗ nầy, ghét nghe chuyện ma quỷ ấy bèn xả súng lớn bắn liền vào mấy phát rồi đốt lều để quan tài ấy, từ đó ma quái mới diệt hẳn ([24][110]).
CHÂU PHÊ GIANG (SÔNG CHÂU PHÊ)
Ở bờ phía bắc sông Bảo Định, cách trấn về phía tây nam 97 dặm rưỡi. Nguyên xưa sông này thuộc đất Cao Miên, từ khi Chiêu trùy Yêm (cũng gọi là Keo hoa ([25][111])), từ Gia Định về Cao Miên để thọ phong vương vị cho đến sau bị người em là Nặc Thâm ngầm tranh gây loạn, bị dân chống lại, Thâm và em út là Nặc Tân cùng chạy qua Xiêm La xin quân trợ chiến, Nặc Ong Yêm ([26][112]) chạy qua Gia Định để xin viện binh với triều đình ta [25b]. Năm Ất Dậu đời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế thứ 15 Tộ Quốc công Nguyễn Phúc Chu (1705) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh năm đầu, Thanh Khang Hy thứ 44), sai Chính thống Vân Trường hầu Nguyễn Phước Vân thống lãnh quân thủy bộ đánh tan quân Xiêm. Nặc Ong Yêm trở về yên vị tại đất cũ La Vách ([27][113]), Vân Trường hầu lập đồn điền ở Vũng Gù làm người mở đầu việc khai khẩn cho quân dân. Sau Vân Trường hầu về kinh bái yết, Khâm ban cho con trưởng của hầu là Phó tướng Triêm Ân hầu trấn thủ dinh Trấn Biên. Năm Ất Mùi thứ 25 (1715) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, Thanh Khang Hy thứ 54), (Trấn thần đem việc đồn điền tâu lên), vua châu phê ([28][114]) chuẩn cho 2 sở ruộng hạng 2 và hạng 3 làm quan điền biệt thực, nên gọi ruộng ấy là ruộng Châu Phê và người ta cũng gọi sông này là sông Châu Phê. Hiện nay ruộng ấy ở địa phận 3 thôn: Bình Khuê, Bình Trung và Bình Tuyên (nay đổi là Phú Thạnh) thuộc tổng Bình Cách, 2 sở ruộng nầy qua các đời đều chuẩn làm tự điền cho Nguyễn Công.
XÁ HƯƠNG GIANG (SÔNG XÁ HƯƠNG)
Sông này ở bờ bắc hạ lưu sông lớn Hưng Hòa, cách phía nam trấn 109 dặm. Khi chưa mở 2 kinh Ruột Ngựa [26a] và Vũng Gù thì đi thuyền phải từ sông Bình Dương vào sông Đại Phong (rạch Ong Lớn), xuống hạ khẩu Sa Giang (Rạch Cát), qua sông Phước Lộc, lên sông Xá Hương, đến Tra Giang, tới sông Kỳ (Cà) Hôn, rồi ra sông lớn Mỹ Tho. Lúc ấy vua nước Cao Miên là Nặc Ong Yêm bị em là Nặc Thâm viện quân Xiêm La về đánh; Yêm chạy qua Gia Định cầu cứu, quan quân đem viện binh đánh Nặc Thâm ở Rạch Gầm, đại binh đi trước, Xá sai ty của dinh Phiên Trấn là Mai Công Hương làm quan chuyển vận lương thực đi sau; khi đến chỗ nầy bị kỳ binh ([29][115]) Cao Miên chận đánh ngang mạn sườn. Đội quân chuyển vận vì ít nên không dám đánh trả, phải bỏ chạy trốn. Xá Hương bèn đục thuyền làm chìm lương thực rồi nhảy xuống sông tự trầm, quân Cao Miên không cướp được gì. Sau khi bình định xong, kể công trạng tâu lên, triều đình bàn bạc thưởng phong cho Xá Hương làm Vị quốc tử nghĩa thần quan, cho lập đền thờ tại nơi ấy và ghi vào tự điển. Người địa phương cầu khấn điều gì đều được linh ứng, đến nay hương hỏa vẫn còn.
BÁT TÂN GIANG (VÀM BÁT TÂN)
Ở phía bờ nam sông Thuận An, cách hạ khẩu sông Tân Long một dặm rưỡi, cửa sông này rộng 12 tầm, khi nước lên sâu 16 thước ta, nước ròng sâu 9 thước ta, đi càng xa thì lòng sông càng hẹp quanh co. Về phía nam 9 dặm đến cửa sông nhỏ Thủ Huấn, sông nhỏ chảy về phía tây bắc 4 dặm thì đến cầu ngang Cai Đao, năm dặm rưỡi đến cửa sông nhỏ Cai Đao, tới bến Thủ Đoàn, 5 dặm rưỡi đến ngã ba giới hạn sông, chảy xuống ngách đông nam, 5 dặm đến cầu ngang Trùm Tự, 5 dặm nữa đến ngã ba Nước Mặn, ngách phía đông chảy ra cửa sông Chanh, hợp với hạ lưu sông Thuận An; ngách phía nam 9 dặm rưỡi đến cầu ngang Lão Hồng (Ông Hồng), hơn 3 dặm nữa ra sông lớn Hưng Hòa, 7 dặm rưỡi đến cầu ngang Xã Hưng, phía đông cầu có chợ búa, xóm nhà đông đúc, một dặm rưỡi nữa đến ngã ba sông nhỏ Cai Tài, nước rộng 5 tầm, nước lớn sâu 5 thước ta, nước ròng sâu 3 thước ta (sông nhỏ chảy về phía tây bắc 2 dặm rưỡi đến cầu ngang Bình Nghị trên đường bộ, 2 dặm rưỡi đến ngã ba, ngách phía bắc 4 dặm rưỡi thì ra cửa sông nhỏ Lão Viên (Ông Viên) tới bến Thủ Đoàn, ngách phía tây hơn 5 dặm đến sông nhỏ Trâm Mộc (Thủy ?) tới cửa dưới sông Tà Cú chảy ra sông lớn Hưng Hòa) 2 dặm rưỡi đến cầu ngang Cai Tài, bờ phía tây có chợ nhỏ Bình Cang, quán xá thưa thớt, 7 dặm rưỡi nữa thì đến sông lớn Hưng Hòa, đường ấy rất khó đi, cho nên phần đông người ta theo đường Tà Cú để đi qua.
TÀ CÚ KINH [KINH TÀ CÚ (TRÀ CÚ)]
Ở bờ phía tây sông Thuận An, phía đông cách cửa sông Tân Long 6 dặm rưỡi. Cửa kinh gọi là bến Thủ Đoàn nước chảy quanh queo, cây cối 2 bên bờ vắt ngang trên mặt sông, nhưng cũng khá sâu rộng đi được, nên thuyền lớn vẫn đi qua được. Qua chợ Bo Bo ([30][116]) 22 dặm, rồi ra sông lớn Hưng Hòa ([31][117]).
QUANG HÓA GIANG (SÔNG QUANG HÓA) [27a]
Ở thượng lưu sông Thuận An (Bến Lức), cách trấn về phía tây 160 dặm rưỡi. Thủ sở ở bờ phía bắc sông lớn nầy, có người nước ta, người Tàu và người Cao Miên ở chung làm ăn với nhau, có tuần ty coi việc thâu thuế cước và phòng giữ biên giới. Từ đây chảy 24 dặm rưỡi đến cửa sông Khê Lăng ([32][118]), 91 dặm rưỡi đến thủ sở Quang Phong giáp ranh giới Cao Miên. Đây là đường mà sứ thần Cao Miên sang cống phải đi qua. Dọc theo sông ruộng đất mới vỡ, còn nhiều rừng rú; ngược lên hướng tây sông chia làm 2 nhánh: nhánh phía bắc (tục gọi là Cái Bát) ([33][119]) đi hơn 100 dặm đến cuối nguồn nhập rừng Quang Hóa, nhánh phía tây (tục danh Cái Cạy (Cậy) ([34][120]) đi hướng tây hơn 150 dặm cũng đến cuối nguồn. Tới đây đều là rừng núi Quang Hóa liền nhau.
KHÊ LĂNG GIANG (SÔNG KHE RĂNG)
Ở bờ phía bắc sông Quang Hóa, cách phía tây trấn 185 dặm rưỡi. Từ cửa sông ngược dòng theo sông nhỏ [27b] lên phía bắc 61 dặm đến thủ sở Thuận Thành. Nguồn sông phát từ ao chằm núi Bà Đinh (Đen), róc rách chảy xuống, nhân dân khai thác nguồn lợi từ núi rừng chằm ao, đi về không dứt.
QUANG HÓA LÂM (RỪNG QUANG HÓA)
Ở địa giới cùng tột phía tây của trấn. Ở đây gò đống trùng điệp, rừng rậm liên tiếp, cây gỗ cao lớn đứng chọc trời, che kín mặt trời, um tùm chừng vài trăm dặm. Ở đây có gỗ đóng ghe, đóng thuyền, nên thợ rừng, thợ mộc cất lều trại để đốn gỗ, làm than củi, lấy dầu rái, mây cứng, mây nước (song) và săn bắn những loài tê, voi, hươu, nai, ngựa rừng, trâu rừng, chim, muông để lấy nanh, sừng, lông thú, lông chim, phơi khô thịt và da rồi đem bán kiếm rất nhiều lợi.
PHÙ LÂU VIÊN (VƯỜN TRẦU)
Ở về phía tây cách trấn 52 dặm rưỡi. Địa thế xung yếu, nằm ngay trên đường bộ thông suốt vào Cao Miên, đặt đạo Quang Oai ở đấy để canh giữ. Khi trước có 18 thôn phụ giữ nơi ấy, dân cư ở đây rất đông đúc, tạo thành một chợ lớn ở miền núi [28a]. Dân nơi đây đều có sản nghiệp, phần nhiều là vườn trầu, họ thường gánh trầu đi bộ từng nhóm 3, 4 mươi người xuống bán ở hai chợ Sài Gòn và Bến Nghé. Nơi đây còn nhiều rừng rậm, cọp dữ thường hay bắt người ăn thịt nên có câu: Hung dữ như cọp Vườn Trầu.
Mùa xuân tháng 3 năm Nhâm Dần, đời vua Thế Tổ Cao hoàng đế năm thứ (5) (1782) quân giặc Tây Sơn ([35][121]) do Nguyễn Văn Nhạc đem binh thủy bộ vào cướp phá, Gia Định thất thủ. Tháng 4 thì bộ binh Tây Sơn từ trấn Biên Hòa do thượng đạo đến trấn Phiên An. Lúc ấy quan binh là Tiết chế Hữu chưởng dinh Dụ Quận công Nguyễn điều biệt tướng ở Bắc Hà là Tự Thuật hầu và tướng quân đạo Hòa Nghĩa là Chương Mỹ hầu Trần Công Chương về toan khôi phục. Khi gặp toán tiền quân giặc Tây Sơn vừa đến vùng Vườn Trầu, bèn phục binh trong rừng đánh úp quân Tây Sơn, hai hầu Tự và Chương giết được đại tướng Tây Sơn là ngụy Hộ giá tên Ngạn, chẳng ngờ lúc ấy đại binh ngụy Tây Sơn kéo đến, quan quân phải rút lui. Ngụy Nhạc được báo tin, rất thương tiếc cái chết của Ngạn, mất Ngạn như mất cả hai cánh tay mặt, trái. Sau biết quân Hòa Nghĩa đều là người Tàu, Nhạc bèn giận lây, nên phàm người Tàu không kể mới cũ, binh lính hay thương buôn [28b], đều bị giết tất cả hơn 10.000 người, từ Bến Nghé đến Sài Gòn, thây nằm chồng chất ngổn ngang, xác quăng xuống sông làm nước nghẽn không chảy được nữa! Trải qua 2, 3 tháng người ta không dám ăn cá tôm dưới sông này. Còn hàng hóa của Tàu như sa, lụa, trà, thuốc, hương, giấy (nói chung bất cứ vật gì của người Tàu), ai có trong nhà cũng đều đem quăng ra đường, mà chẳng ai dám lấy. Qua năm sau, thứ trà xấu một cân giá bán lên đến 8 quan, 1 cây kim bán đến 1 mạch ([36][122]), còn các hàng hóa khác cũng đều cao giá, nhân dân đều khổ theo.
CÔN LÔN ĐẢO (ĐẢO CÔN NÔN) ([37][123])
Ở giữa biển Đông, từ cửa cảng Cần Giờ chạy thuyền ra biển theo hướng đông mặt trời mọc 2 ngày mới đến. Đảo lớn 100 dặm, có ruộng núi trồng lúa, bắp, khoai, đậu, nhưng cũng không nhiều, nên thường phải mua gạo ở Gia Định mới đủ dùng. Thổ sản ở đây là ngựa và trâu, núi không có cọp beo. Dân ở đảo tự kết lại làm binh sĩ, gọi Tiệp Nhất, Tiệp Nhị, Tiệp Tam ba đội, trực thuộc đạo Cần Giờ, có đủ khí giới để giữ gìn đất ấy phòng quân cướp hung dữ Đồ Bà ([38][124]), không cần kêu gọi chỗ khác đến giúp. Dân lính ở đấy thường lấy yến sào, đồi mồi, vích, quế hương, mắm, ốc tai tượng, rồi theo mùa mà dâng nộp; còn lại thì đánh bắt hải sản như cá, tôm để sinh sống. Quả cau ở đây to, vỏ màu hồng, vị lại ngọt thơm, cứ đến đầu mùa xuân, lúc cau ở Gia Định chưa kết quả, thì cau ở đây đã dùng được, người ta chở vào bán với giá rất cao.
BA GIẾNG TỐT TRẤN PHIÊN AN
Cái thứ nhất ở sông nhỏ Trúc (?) ([39][125]) ở Bến Nghé, gọi là giếng Tấn. Giữa dòng nước đục mặn trào lên cái suối nước ngọt, ban đầu dân ở đó lấy ống tre đặt vào miệng suối, nước phun lên, rồi dùng vò hứng lấy, giếng phun không bao giờ dứt. Sau đó người ta xây đá đắp đất cho liền với chỗ đất bằng, nước rất tốt, người người đều đến lấy dùng.
Một cái khác ở bến nước bờ bắc sông Bình Dương, thuộc địa phận xóm phía tây thôn Tân An, gọi là giếng Danh (tức giếng Tiếng, còn gọi là giếng Bá Đa Lộc).
Một cái nữa ở bờ Tây sông cũ Tân Long thuộc địa phận thôn Tân Phú Hội, gọi là giếng Nhuận.
[29b] Cả ba giếng nầy, người ở gần xa đều đem thuyền đến chở hoặc đến gánh bộ, tranh nhau múc liên tiếp không lúc nào vắng người.
TẨU (RỪNG SÁC)
Từ Tam Giang Nhà Bè đến Cần Giờ, Đồng Tranh, Lôi Lạp (Soi Rạp) đều có những vật sản có lợi như củi cây, tôm cá và hải sản cũng giống như ở trấn Biên Hòa vậy.
([1][87]) Núi Bà Đinh tức Bà Đen cũng còn gọi là Chơn Bà Đen hay Chiêng Bà Đen. Di cảo của Trương Vĩnh Ký gọi theo tên cũ của Khơ me là Phnom Cơn Bà Đèn. Người dân địa phương cũng như khách hành hương đều thành kính gọi kiêng húy là núi Bà Thâm!
([2][88]) Hồ tăng là tăng nhân người Ấn Độ.
([3][89]) Đối chiếu đoạn tả sông Băng Bột (Thủy Vọt) và sông Tân Bình nầy, sẽ thấy sông Băng Bột là khúc trên của Tân Bình, sông Tân Bình là đoạn dưới của Băng Bột, thực tế hai sông là một.
([4][90]) Hải để võng (海底網) là miệng đáy đặt ngoài biển, cách thức cũng như đáy sông nhưng to rộng hơn.
([5][91]) Nò rạo: Là một hình thức đăng lớn ở biển để bắt cá lớn.
([6][92]) Hải Cảng Lôi Lạp, còn đọc là Lôi Rạp, Soi Rạp, Soai Rạp. Xin chọn đọc là Soi Rạp.
([7][93]) Nguyên văn Qui phu thư ký mỗ (歸夫書記某) nghĩa là "về với chồng là thư ký nọ". Chữ mỗ (某) chỉ một người không rõ họ tên, ta quen dịch là nọ. Ban đầu đọc đoạn văn nầy dễ thắc mắc: tại sao gọi bà Khánh là bà Nghè, tức vợ ông Nghè, là vợ ông Tiến sĩ trong khi chồng bà Khánh chỉ là một viên thư ký (không phải chức vụ của một ông Tiến sĩ)? Thường các ông Tú tài được sung vào chức thư ký biên chép ở các nha huyện thời đó. Tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi ở trang 358 ghi rõ chữ Nôm nghè (儀) có hai nghĩa:
- Nghĩa thứ nhất là ông Nghè, tức ông Tiến sĩ thời xưa.
- Nghĩa thứ hai là ông thư ký, ông nhân viên văn phòng để các quan lớn sai phái mà ông Yonosuke Takeuchi đã chú bằng chữ Hán là Vương triều thời đại dịch nhân nghĩa là "kẻ để sai phái thời vua chúa" (翁儀:王朝時代役人). Như vậy bà Nghè chỉ có nghĩa là bà vợ một ông thư ký thường như Trịnh Hoài Đức đã nói rõ trong đoạn văn tả sông Bình Trị.
([8][94]) Sông Bà Nghè hay Thị Nghè, người Pháp gọi là Arroyo de l'Avalanche.
([9][95]) Nguyên văn viết 丐'橋山 tức phải đọc theo chữ Nôm là Cái Dứt Cầu Sơn, vì chữ ' nầy ở cả hai cuốn Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Yonosuke Takeuchi đều đọc là Dứt, còn chữ Tắt có nghĩa (đường) tắt, thì chỉ sách Takeuchi có và viết熄chớ không phải '. Tuy nhiên, toàn bộ quyển GĐTTC, thấy chữ Tắt đều được khắc in là '. Vậy nơi đây xin đọc là Cái Tắt Cầu Sơn cho hợp với tên địa phương, và Kính Châu ở trước cũng xin đọc là cù lao Cái Tắt, cũng như Tắt Cây Sung ở phần sau.
([10][96]) Nguyên văn viết 老y. Chữ y nầy tra tự điển Nôm chưa thấy! Thượng Tân Thị phiên là Đuôn e chưa đúng vì con đuôn phải viết là /. Nhóm dịch giả VSH đọc Dong cũng chưa đúng vì Dong phải viết là 炵. Di cảo của Trương Vĩnh Ký ghi là đầm Lão Đống hợp với tên gọi của người địa phương, chính là đầm Gò Vấp ở Gia Định giáp với Hốc Môn hiện nay.
([11][97]) Nguyên văn viết {. Chữ { tra tự điển chưa thấy. Bản dịch của nhóm dịch giả VSH ghi là "Bến Lầy" có lẽ chưa chính xác vì chữ lầy phải viết là淶 , 12. Nguyên văn đính kèm bản dịch của Nguyễn Tạo viết là仍nên ông ghi là bến. Nguyên văn bản lưu trữ của VHN viết là 34tức đò (4). Tra cứu văn Nôm và tục danh Nam Bộ, thường thấy có chữ汲 đọc là ngập, tự dạng rất giống chữ扔 trong nguyên văn, mà nghĩa cũng hợp với nội dung vì chằm Nhu Nê (濡泥) có nghĩa là chằm Thấm Ướt Bùn Sình, tức hàm ý ngập nước quanh năm. Vậy xin tạm chọn chữ nầy vì e rằng thợ khắc thiếu một nét khiến cập (及) thành nãi (乃) từ đó dẫn tới chữ { tìm không thấy thay vì là chữ ngập (汲).
([12][98]) Xem chú thích ở đoạn nói về Tra Giang.
([13][99]) Tầm Long尋竜. Người Khơ me miền dưới ở các vùng Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc, Việt Nam gọi sang sông là Chhlâng, cũng đọc Chhlon, tiếng Khơ me Krọms (Khơ me miền dưới) đọc trại thành Tầm Lon, người Việt đọc nhại theo thành Tầm Long; chuyển âm Nam Bộ thành Tầm Luông.
([14][100]) Tức ô rô, vì chữ Hán không diễn âm R được, nên thay bằng âm L, nên rô viết thành lô.
([15][101]) Nguyên văn viết là 5. Chữ Nôm 5 có thể đọc là trầu hay rau, nhưng chúng tôi chọn "rau" vì đây là thứ cây mọc thành lùm ở bờ sông nước mặn cạnh ô rô, cóc kèn, đọt non có thể bẻ chấm mắm chưng ăn rất ngon, cọng già chặt phơi khô bó thành chổi ráng, là thứ chổi tiện dụng ở Nam Bộ, tên chữ Hán là Thủy vi (tức cây lau nước).
([16][102]) An Thông Hà (安通河) là khúc sông Sài Gòn từ rạch Ong Nhỏ vô Chợ Lớn.
([17][103]) 1 tầm = 3,2 m. Vậy 2129 tầm bằng (3,2 x 2129) = 6.812 m.
1 dặm = 720 m. Vậy 9,5 dặm = (720 m x 9,5) = 6812 m. Vậy 2.129 tầm tương đương 9 dặm rưỡi.
([18][104]) Tiếng Nam Bộ không gọi con sông đào là kênh mà gọi là kinh như "kinh Xáng", "kinh Tàu Hũ" "cầu Kinh" chẳng hạn." Kinh Ruột Ngựa" là tên dân gian quen gọi từ lâu.
([19][105]) Nguyên văn viết: 三榕. Chữ 榕 có thể đọc Dung hay Dong và có nghĩa là cây Đa, hay cây Si.
([20][106]) Chữ Nôm viết là 6, đọc khóm như nhóm dịch giả VSH là không chính xác. Chữ Nôm 6 đọc là cụm; tên gọi Ba Cụm hiện còn thông dụng trong nhân dân.
([21][107]) Quang Hóa nay là Trảng Bàng ở Tây Ninh.
([22][108]) Nguyên văn sỉ tư ước (恥私約) có nghĩa là thẹn chuyện tự ước hẹn với nhau không đợi lịnh mẹ cha chớ không phải thẹn chuyện hẹn hò gặp gỡ riêng tư.
([23][109]) Nguyên văn là trĩ kinh (雉經) có nghĩa là dùng thòng lọng thắt cổ tự tử, đồng nghĩa như tự ải.
([24][110]) Cám cảnh chuyện tình Đôi Ma, năm 1896 một người Trung Quốc chủ nhơn hiệu thuốc bắc Nhơn Ái Đường ở Mỹ Tho và ông Thượng Tân Thị hồi năm 1907 mỗi người làm một bài thơ vịnh. Nay xin chép ra: (Trích Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển).
Bài của ông chủ Nhơn Ái Đường: Bài của Thượng Tân Thị:
Vực thẳm cây cao chiếm một tòa Trải qua Rạch Kiến ác chinh chinh
Sống không lẻ cặp chết đôi ma Nghe nói đôi ma bắt lạnh mình
Hồn hoa đem gởi chòm mây bạc Thảm nỗi con nhà sanh bất hiếu
Phách quế nương theo bóng nguyệt tà Ngán cho giọt nước khéo vô tình
Con nước chảy ròng rồi kế lớn Sống thề chưa vẹn duyên kim cải
Tấm lòng có bậu lại cùng qua Thác nguyện cùng theo chốn thủy tinh
Căn duyên ai khiến xui cho đấy Ai hỏi hồn thiêng như có biết
Tiếng để ngàn thu cũng cũng là. Tiếng đời lượn sóng nỗi linh đinh.
([25][111]) Chiêu trùy hay Keo hoa là tên chức quan rất to của Khơ me, tương đương chức Phụ chính đại thần và thường do các hoàng thân đảm nhiệm.
([26][112]) Nặc Ong Yêm tức Neac ang Eng, con của Nặc Ong Non (Neac ang Non).
([27][113]) Thành La Vách trên đất Khơ me là thành Lovek ở Oudong.
([28][114]) Châu phê: Chữ vua phê dùng màu son đỏ, nên về sau cái gì vua ban cũng gọi là châu phê như ruộng châu phê tức ruộng do vua ban thưởng.
([29][115]) Kỳ binh (奇兵) tức quân phục kích thừa lúc địch bất ý đề phòng mà ùa ra đánh.
([30][116]) Nguyên văn viết 甫甫 tức Phủ Phủ, có lẽ là bản gỗ khắc nhầm, vì thực tế tại địa phương vùng Trà Cú có chợ Bo Bo mà chữ Nôm phải viết là 脯脯. Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì kinh này gọi là Tà Cú, Trà Cú hay Lợi Tế Hà. Có lẽ từ tiếng Khơ me Thkó đọc trại ra là Tà Cú, Trà Cú!
([31][117]) Sông Hưng Hòa (興和江) tức sông Vàm Cỏ Tây, Pháp gọi là Vaico Occidental, chảy từ Tân An tới Miếu Ông, khi chảy qua làng Hưng Hòa có tên là Hưng Hòa giang.
([32][118]) Sông Khê Lăng (溪陵江): Theo Trương Vĩnh Ký trong PCGBC thì sông Khê Lăng tức rạch Khe Răng thuộc vùng Sài Gòn là không phải sông Khê Lăng ở sông Quang Hóa vùng Tây Ninh.
([33][119]) Cái Bát, nguyên văn VHN lưu trữ viết 丐扒, chữ Nôm 扒 đúng ra phải đọc là bớt, nhưng trong ngữ cảnh nầy phải đọc là bát. Nguyên văn bản VSH viết đúng Cái Bát (丐撥).
([34][120]) Cái Cậy (Cạy): Nguyên văn viết 丐7, chữ Nôm 7 đúng ra phải đọc là cậy, nhưng trong ngữ cảnh nầy phải đọc là cạy. Trong Nam đi ghe ban đêm thấy ghe đi ngược chiều hô bát là lấy mũi qua phải, thì ghe kia cũng phải hô bát là lấy mũi qua phải cho khỏi đụng. Khi nào vào bến muốn quẹo trái mới được hô cạy.
([35][121]) Theo quan điểm đương thời của Trịnh Hoài Đức.
([36][122]) Mạch (陌): Xưa dùng như chữ bách (百) là một trăm gián, tương đương 60 hoặc 70 đồng kẽm, là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất. Còn tiền là đơn vị lớn hơn nhiều, 60 tiền bằng một quan.
([37][123]) Côn Lôn (崑侖) còn gọi là Côn Nôn, Côn Sơn, Sondun, Poulo Kondur, đảo Bầu Bí, là quần đảo gồm 14 hòn ở cách cửa sông Bassac 84 km, dài 15 km, bề ngang chỗ rộng nhất là 9 km, chỗ hẹp nhất là 3 km, diện tích 7.728 ha, có 70 mẫu ruộng đã thuộc, Pháp gọi là Poulo condore, và dùng làm nơi đày tù khổ sai, chủ yếu là tù chính trị.
([38][124]) Đồ Bà (闍|) tức từ người Việt mình dùng để gọi người Chà Và như Chà Và Châu Giang, Chà Và Mã Lai, Chà Và Nam Dương nhưng không phải người Chà Ấn Độ. Ở phần cuối sách Trịnh Hoài Đức có chú thích và qua đó ta biết đây là người Chà ở đảo Malacca (Mãn Lạt Gia hay Ma Lục Giáp).
([39][125]) Nguyên văn viết 竹9. Chữ này Vương Hồng Sển ghi là Trúc Bài hay Trúc Bè. Nhóm dịch giả VSH dịch thành ra là Bè Tre. Có lẽ các tác giả đã phỏng đoán vì chữ này tra tự điển Hán Nôm đều không thấy.
TRẤN ĐỊNH TƯỜNG
KIẾN ĐỊNH GIỒNG (GIỒNG KIẾN ĐỊNH) ([1][126])
Ngày xưa đây là lỵ sở, nay đã chuyển đi nơi khác. Chỗ nầy có gò đất nổi cao, bốn phía đều bằng phẳng rộng rãi, là nơi trọng yếu của đường bộ, xưa nay từng là nơi chiến địa. Khi nhà Nguyễn mới Trung hưng (đời Thế tổ Cao hoàng đế 1778), từng đóng đồn ở chỗ hiểm yếu ấy, sau khi đại định không tu bổ nữa, nhưng nền cũ vẫn còn nên nay đặt làm huyện lỵ. Xuống phía đông 18 dặm đến giồng Yến (giồng Cánh Én), phía tây có giồng Kỳ Lân [30a], giồng Trảo Trảo và giồng Dự ([2][127]), 3 giồng cao thấp lên xuống tiếp tục nhau, cách tây nam 25 dặm đến giồng Lữ ([3][128]), lại cách phía tây 4 dặm đến giồng Trà Luật (Trà Luộc), 28 dặm đến giồng Sao ([4][129]), 6 dặm đến giồng Triệu. Các giồng này tuy lớn nhỏ không đều nhưng đều trồng bông vải, dâu, gai, dưa, đậu, khoai, thuốc lá, bắp, dân đều lấy đó làm sản nghiệp.
TAM GIỒNG (BA GIỒNG)
Ở địa phận trấn Định Tường, đất nầy gò đống lồi lõm, cây cối um tùm liền nhau xuyên qua giữa 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Hưng. Phía trước có sông dài ngăn lại, ở sau dựa theo bưng biền, đây là chỗ cứ hiểm tụ nghĩa của đảng Đông Sơn (đảng của Đỗ Thanh Nhơn). Năm Bính Thân (1776) có binh biến, Ngoại hữu Phương Quận công dùng quân nghĩa lữ Đông Sơn để thu phục Gia Định. Nhưng sau đó Đỗ Thanh Nhơn có sự bất hòa với tướng quân Lý Tài của đạo Hòa Nghĩa nên Lý Tài nghĩ Hữu phủ Kính Quốc công đã mất, không còn chỗ nương tựa, trong bụng lấy làm nguy, nên mới chiếm lấy núi Châu Thới mà làm phản [30b]. Quân Đông Sơn đánh mãi không thắng, nên phải đắp đồn dọc theo sông từ Bến Nghé đến Bến Than để phòng giữ. Ngày 8 tháng 10, Mục vương (Nguyễn Phúc Dương) từ phủ Quy Nhơn là căn cứ sở của ngụy Nhạc do đường biển lẻn vào Gia Định, sai Tham mưu Khoáng Điển hầu họ Nguyễn truyền dụ cho Lý Tài biết vua trở về. Về Lý tướng quân nầy, sự việc như sau: Nguyên tháng 4 năm Ất Mùi (1775), Mục vương vào Quảng Nam đánh quân Tây Sơn, thua trận nên bị bè đảng của giặc Hòa Trung đạo Tập Đình hầu và Hòa Nghĩa đạo Lý Tướng quân bắt từ Hà Lạc về. Tập Đình hầu nhiều lần muốn giết Mục vương, may có Lý tướng quân bảo vệ mới được an toàn. Sau Tập Đình hầu bạo ngược lại phản Tây Sơn làm loạn ([5][130]), rốt lại dong thuyền chạy về Quảng Đông nhưng cũng bị quan Tổng đốc bắt, chiếu luật giết đi. Riêng Lý Tài luôn phò tá kính cẩn có ý muốn tôn lập Mục vương, vì họ đã tin hiểu nhau từ lúc còn đang bị Tây Sơn lung lạc chế ngự. Nay Lý tiếp được tin thật bèn sai 4 thuộc tướng là Tân, Hổ, Hiền, Nam, đem cả bổn bộ binh mã thẳng xuống Bến Nghé để bái nghinh Mục vương về đồn Dầu Miệt (Một) ([6][131]). Khi ấy binh tướng Đông Sơn không đánh mà tự bỏ chạy về Ba Giồng đồn trú, chỉ có vài mươi quan triều bảo vệ Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế (Nguyễn Phúc Thuần) nơi hành tại Bến Nghé mà thôi. Ngày 4 tháng 11, Lý tướng quân lại hộ vệ Mục vương xuống Bến Nghé chịu mệnh của Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế nhường ngôi ở chùa Kim Chương, Mục vương cử Lý Tài làm quan bảo giá. Trong lúc đó đạo quân Hòa Nghĩa rất hung hãn tàn bạo, dân không chịu nổi. Trước đó, Thế Tổ Cao hoàng đế đã dự đoán sẽ có sinh biến, nên đã qua trước Ba Giồng để chiêu phủ Đông Sơn chờ khi dùng đến.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), quân giặc Tây Sơn do Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ đem binh thủy bộ vào đánh. Binh triều Nguyễn cùng binh Hòa Nghĩa chung sức chống trả, đối trận với thủy binh Tây Sơn ở sông Bến Nghé. Hai bên đang ghìm nhau như thế cò trai thì bộ binh Tây Sơn do thượng đạo Trấn Biên tiến xuống Hốc Môn, liền bị Hổ tướng quân của đạo Hòa Nghĩa chận đánh và giết được viên tướng ngụy là Tuần sát tên Tuyên [32a], quân Tây Sơn phải rút về bến Than, gặp lúc Chưởng cơ binh triều là Văn Đức hầu Trương Phúc Thận đem quân từ Cần Giuộc tiến lên Sài Gòn tiếp viện, đạo Hòa Nghĩa lại nghi là quân thù Đông Sơn đến đánh tập hậu, bèn bỏ Hốc Môn về giữ Bến Nghé. Thế là quân Tây Sơn thừa thế đuổi theo, quân thủy, quân bộ cùng tấn công, binh của Hòa Nghĩa phải bỏ chạy, bọn người Tàu Lý Tài chạy đến đâu cũng đều bị quân Đông Sơn ngăn chặn giết cho đã nư thù. Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế chạy qua Long xuyên, Mục vương thì qua Ba Vát nhưng đều bị quân Tây Sơn vây ngặt bắt đem về Bến Nghé, rồi sau đều bị giết cả.
Tháng 9, ngụy Nhạc và ngụy Huệ về Quy Nhơn, để bộ binh do Tổng đốc Châu, Hổ tướng quân Hãn, thủy binh do ngụy Tư khấu Oai và ngụy Điều khiển Hòa ở lại giữ Gia Định.
Tháng 10, Thế Tổ Cao hoàng đế khởi binh từ đạo Long Xuyên, cử Tiền quân Dũng Quận công Nguyễn Quân trước đánh chiếm cứ Ba Giồng. Phương Quận công đem nghĩa binh Đông Sơn cần vương nên [32b] bốn mặt nghĩa binh tiếp ứng, tất cả đều treo cờ trắng và đội khăn trắng ([7][132]). Tháng tư năm Mậu Tuất (1778) lấy được Gia Định, liền gia phong cho Phương Quận công chức Phụ chánh Thượng tướng, nhưng về sau ngài cậy có công lớn, trở nên kiêu căng thất lễ, có ý hai lòng, nên đêm 23 tháng 3 năm Tân Sửu (1780) bị vua giết chết, rồi sai Chưởng thủy dinh Thăng Nhật hầu lãnh bộ binh, Nội tả Thiêm Quận công lãnh thủy binh, và chia quân Đông Sơn ra làm 4 đạo: Dũng Quận công lãnh tiền quân, Triêm Quận công Võ Doãn Triêm lãnh hữu quân, Nội hữu Lương Quận công Tống lãnh tả quân, Chưởng cơ Trương Văn Bác lãnh hậu quân. Trước hết, vua sai Dụ Quận công Nguyễn lãnh trung quân ra cứ Bình Thuận để điều khiển bộ binh, chọn tháng 5 năm ấy ra đánh ngụy tặc ở Quy Nhơn. Lúc ấy tướng sĩ Đông Sơn có lòng oán hận, tất cả đều bỏ trốn về Ba Giồng để chống lại vua. Triều đình sai Ngoại tả Thuyên Quận công Tống Phước Thuyên và Lương Quận công đến đánh và đã giết tiệt cả chính tướng, tỳ tướng của quân càn bậy ấy, còn đạo quân Bình Thuận [32b] tiến đến Bình Hòa liền hiệp với quân của Tiếp Quận công đối lũy với địch, trong lúc ấy hậu binh Gia Định không chịu xuất chinh cho nên Dụ Quận công phải kéo quân về, còn Tiếp Quận công thì ở lại sơn đồn Trà Rang để cứ thủ.
Danh tích lai lịch của Ba Giồng là như thế, cho nên ngẫm việc đời mới nhận thấy rằng, hình thành tên tuổi của Đông Sơn là ở Ba Giồng mà bại diệt tên tuổi của Đông Sơn cũng ở Ba Giồng, nên mới gọi chung tên người với tên đất là như thế, ấy là lấy cái thỉ chung giữa đất đai và con người vậy, mà hầu như không biết đất được cách núi ngăn sông, dân giàu, của đủ, là để giúp người ra cứu đời, dẹp loạn, thành toàn sự nghiệp mình, lại an dân, lưu danh trong sử sách, ấy là thiên lý vậy. Nhược bằng trái với đạo trời, nghịch mạng vua, kết bè lũ hung ác hại dân, ấy là tự người làm ra, tuy có vững chắc như ải Hào Hàm ([8][133]), hiểm trở như sông Ngô ([9][134]), lợi hại như rắn Thường Sơn ở Kiếm Các quan ([10][135]), mạnh tợn như cọp dữ dựa góc núi ở Lương Sơn Bạc ([11][136]), há có thể trông cậy được sao mà lại ỷ vào bề thế một nhúm đất để gây phiền rối!
LÃO TRỰC GIỒNG (GIỒNG LÃO TRỰC) [33b] KEO GIỒNG (GIỒNG KEO)
Ở Đại Tiểu Hải Châu; ở đây người ta trồng bông vải và khoai, nhà cửa nhân dân rất thưa thớt.
NHẬT BẢN GIỒNG, TỔNG ĐỖ GIỒNG, DUNG GIỒNG [GIỒNG NHẬT BẢN, GIỒNG TỔNG ĐỖ, GIỒNG DUNG (DONG)]
Ở cồn Nhật Bản: Trồng bông vải, khoai lang, khoai nước. Nhà cửa ẩn hiện trong bóng tre trúc, cổ thụ um tùm.
ĐẠO TÂN GIỒNG, DU TÁN GIỒNG, TỈNH GIỒNG [GIỒNG BẾN LÚA, GIỒNG TÁNG DÙ, GIỒNG GIẾNG]
Ở miền biển Ba Lai: trồng bông vải, khoai lang, dâu, gai; ở đây có thôn xóm của cư dân.
CÁI VANG GIỒNG (GIỒNG CÁI VINH)
Ở sông nhỏ Cái Vinh: trồng khoai lang, khoai nước.
THỦY MAI GIỒNG (GIỒNG MÙ U)
Có nhiều cây thủy mai, tục gọi là cây mù u.
BỘ TÂN GIỒNG (GIỒNG BỘ TÂN)
Có dân cư chuyên trồng bông vải, khoai, đậu.
CHIÊU GIỒNG - LÃO NGÂN GIỒNG (GIỒNG CHIÊU, GIỒNG LÃO NGÂN)
Ở trên bãi biển Ba Lai.
GIỒNG HOA, GIỒNG TOÁN, GIỒNG THÀNH, GIỒNG CHÂN BIỀU (CHƯN BẦU), GIỒNG CHÓ ([12][137]), GIỒNG KẾT ([13][138])
Đều ở địa phận Kỳ (Cà) Hôn: trồng khoai lang, dưa, rau cỏ; đều có nhà cửa của dân cư.
[34a] GIỒNG TRÚC, GIỒNG BẦU NAO, GIỒNG TRÂM, GIỒNG CANG
Đều ở Gò Công: ở đây có nhiều thôn xóm của cư dân, trồng bông vải, khoai, đậu, rau, dưa.
GIỒNG THÀNH, GIỒNG CHUYÊN (GẠCH), GIỒNG TRƯỜNG (DÀI), GIỒNG NĂN, GIỒNG XA LUÂN (BÁNH XE)
Đều ở bờ sông Cần Lộc: trồng khoai lang, khoai nước.
GIỒNG THÁP, GIỒNG ME, GIỒNG TÁO
Ở bờ sông Cái Tháp, đều trồng bông vải, khoai.
MỸ THO GIANG (SÔNG LỚN)
Ở trước mặt trấn, là một con sông lớn trong trấn. Sông phát nguyên từ sông Cửu Long, tận nội địa tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy cuồn cuộn từ phía bắc qua phía tây đến Lào qua địa phận sông Nam Vang của Cao Miên, rồi chia làm 2 sông Tiền Giang và Hậu Giang chảy xuống hướng đông. Sông Tiền Giang chảy qua trấn Vĩnh Thanh rồi chuyển vào nam vòng quanh trước trấn Định Tường rồi chảy ra cửa biển Đại, Tiểu Ba Lai, không biết sông dài bao nhiêu ngàn vạn dặm, sông chảy không dứt, đã sâu lại rộng, nước trong và ngọt, cá tôm bắt dùng không hết; tuy ở thượng lưu của nó thường có nước lụt, nhưng khi chảy đến Tiền Giang, Hậu Giang thì tuôn thông ra sông nhánh hai bên bờ, khi đến các cửa biển, thế nước giảm dần [34b], nên từ Cao Miên trở lên thì có nạn nước lụt, còn từ trấn Vĩnh Thanh trở xuống, thì khi mùa lụt chỉ như nước rong lớn dâng lên mà thôi, rốt lại không có nỗi lo tràn ngập gò nỗng.
HƯNG HÒA GIANG
Tục gọi là Vũng Gù, ở phía đông cửa sông Bảo Định, cách trấn về phía đông 47 dặm rưỡi. Ngược lên phía bắc 32 dặm đến cửa sông Bát Đông, 118 dặm ([14][139]) đến đồn cũ Phong Ca Khơ me. (Thủ sở ở bờ đông sông nầy, có con sông nhỏ, xuống phía đông độ 3 dặm, thông với sóc ([15][140]) Cao Miên. Ở đây có người Việt ([16][141]), người Hoa và người Cao Miên chung sống, là vùng địa giới trấn Phiên An, nhưng phân thủ thì thuộc về đạo Tuyên Oai, thuộc quyền trông coi của trấn Định Tường, để kiểm soát việc cấm đi vào nước Cao Miên). Từ đoạn sông nầy trở lên là sông Bát Chiên, ở phía đông cửa sông Bảo Định, thuận dòng chảy về hướng nam 168 dặm rưỡi đổ ra cửa biển Lôi Lạp (Soi Rạp).
THUỘC LÃNG GIANG (SÔNG THUỘC LÃNG)
Ở bờ phía tây hạ lưu sông Hưng Hòa, cách trấn về phía đông nam 97 dặm. Cửa sông rộng 35 tầm, sâu 3 tầm, cách phía tây nam 90 dặm rưỡi đến ngã ba, nơi hợp lưu của 2 sông Tra Giang và sông Cà ([17][142]) Hôn.
TRA GIANG (SÔNG TRA)
Ở bờ tây hạ lưu sông Hưng Hòa. Cửa sông rộng 57 tầm, sâu 31 thước ta. Bờ phía bắc cửa sông, năm Mậu Thân (1788), khi nhà Nguyễn mới Trung hưng có đắp đồn bằng đất để giữ nơi hiểm yếu, nay dấu cũ vẫn còn, cách trấn về phía đông nam 125 dặm. Sông này theo hướng tây bắc 3 dặm rưỡi đến ngã ba nguồn sông Gò Công (từ miệng ngã ba sông đi lên phía tây 34 dặm đến chợ Gò Công thông với Rạch Dịch (?) ([18][143])), rồi chảy ra cửa Tiểu, hơn 8 dặm đến ngã ba sông Chà Diệp (từ nhánh cửa sông phía nam đi thêm 40 dặm đến chợ sông Chà Diệp) hơn 14 dặm nữa hiệp lưu với ngã ba sông Thuộc Lãng và sông Kỳ Hôn (Cà Hôn).
KHỔNG TƯỚC CANG (GÒ KHỔNG TƯỚC)
Tục gọi Gò Công, cách trấn về phía nam 90 dặm rưỡi. Vùng này ruộng tốt, đất phì nhiêu, lúa gạo phong phú, có nhiều gò đống, [35b] khe ngòi. Năm Đinh Mùi (1787), Khâm sai Chưởng hậu quân Tánh Quốc công chiếm cứ địa lợi nơi nầy, chiêu mộ dân làm lính, dựng cờ nghĩa, nhiều lần đánh với quân giặc Tây Sơn, cất tiếng cho việc Trung hưng. Dân nơi đây phần nhiều là người trung nghĩa nên dùng nơi đây làm đất dụng võ.
KÌ HÔN GIANG (SÔNG CÀ HÔN - TRÀ HÔN)
Ở bờ phía đông sông Mỹ Tho, cách trấn về phía nam 7 dặm rưỡi. Đi về phía đông 10 dặm rưỡi đến chợ Kỳ Hôn (Cà Hôn), nơi đây dân cư đông đúc; 2 dặm đến chợ Lương Quán; 50 dặm rưỡi hợp lưu với ngã ba của sông Tra Giang và sông Thuộc Lãng.
TIỂU HẢI MÔN (CỬA TIỂU)
Cửa rộng 1 dặm rưỡi, khi nước lên cửa sâu 28 thước ta, nước ròng sâu 23 thước ta. Phía đông ngoài cửa biển có nổi cồn cát ngầm, tục gọi là cồn Mông. Bãi biển này lắm bùn lầy, lòng cảng vừa hẹp vừa cong. Cách phía nam trấn 93 dặm rưỡi, đi ngược lên 12 dặm nữa đến đồn phòng bị (Sở thủ ngự).
ĐẠI HẢI MÔN (CỬA ĐẠI)
Cách trấn về phía nam 87 dặm; cửa biển rộng hơn 7 dặm, khi nước lên sâu 27 thước ta, nước ròng sâu 22 thước ta. [36a], cửa biển nhiều bùn lầy, lòng cảng hẹp và cong, nên thuyền bè ít ra vào. Phía tây cảng có cồn Nhật Bản, trên cồn có trạm đồn trú, trước mặt nổi cồn cát ngầm, tục gọi là cồn Tàu. Phía đông cảng có cồn lớn gọi là cồn Tiểu Hải, nằm ở giữa dòng để ngăn khóa cửa sông, lớn và dài, đầu phía nam là bờ đông bờ tây Cửa Đại và Cửa Tiểu. Đầu phía bắc chia làm 3 nhánh, nhánh phía bắc ngược lên đến Kỳ (Cà) Hôn rồi lên sông Mỹ Tho; nhánh phía đông vào nam làm Cửa Tiểu; nhánh phía tây cũng vào nam làm Cửa Đại, cả ba nhánh ấy đều chảy ra biển.
LONG CHÂU
Tục gọi là cù lao Rồng ([19][144]). Cù lao này ở ngay trước trấn, làm cái án gần của trấn. Khi trước cửa sông Mỹ Tho sâu rộng, có cặm bảy miệng đáy ([20][145]), thuyền buôn qua lại phải đậu nghỉ ở đây để hóng mát xem trăng, đợi nước thuận mới đi lên hoặc xuống. Từ năm Mậu Thân (1788) trở lại đây, phù sa bồi lấp ngày càng cao lớn, hình thế như con rồng nằm, vì vậy Thế Tổ Cao hoàng đế mới ban cho tên là Long Châu. [36b] Cồn dài gần 2 dặm, làm la tinh cho cửa sông, che kín trấn sở, ngăn chặn sóng dữ, nghiễm nhiên là chỗ danh thắng. Nhà địa lý nói: Cửa sông mà có cồn cát nổi lên cao, đất ấy ắt sẽ thịnh vượng. Chỗ này đúng là được như vậy.
BA LAI NAM GIANG (SÔNG BA LAI NAM) ([21][146])
Cách trấn về phía tây nam 12 dặm, dòng sông sâu rộng, bốn mùa nước đều trong, chỉ giữa mùa hạ nắng gắt nước mới mặn, sông này lấy 2 bờ nam bắc để chia làm ranh giới của 2 trấn Định Tường và Vĩnh Thanh.
BA LAI HẢI MÔN (CỬA BIỂN BA LAI)
Cách trấn về phía nam 84 dặm rưỡi; cửa rộng 1 dặm rưỡi, khi nước lên cửa sâu 26 thước ta, nước ròng sâu 21 thước ta. Vì đường đi rậm rạp hoang vu, nên thuyền bè ít khi qua cửa nầy.
ĐĂNG GIANG TÂN KINH (KINH MỚI RẠCH CHANH)
Ở phía tây bắc của trấn. Ngày trước con kinh nhỏ Sông Chanh ở phía đông, nguồn cùng Ba Lai ở phía tây, khoảng giữa ấy bùn lầy ẩm ướt, cỏ lác hoang bẩn, kéo dài hơn 57 dặm rưỡi, ở đây phía nam thì [37a] nhiều giồng gò, ruộng vườn, phía bắc thì nhiều rừng sâu và chằm to lan rộng đến 5, 6 trăm dặm, đây là chỗ Đông Sơn tụ nghĩa rồi tiến chiếm Ba Giồng, lợi dụng thế hiểm để hoành hành các nơi, khi lùi tựa theo rừng sác, bưng chằm, thật như cọp vào rừng sâu, rồng về biển cả, chẳng ai biết tung tích đâu là đâu. Giặc Tây Sơn đã bao phen bị họ làm cho khốn đốn mà cũng chẳng biết phải làm sao. Năm Ất Tỵ (1785), Đô úy Trấn của ngụy Tây Sơn nhân có ngòi nhỏ ở hai đầu bèn đào nối mở một con sông ngang để cắt đứt chỗ hiểm yếu, tạo thành một đường kinh đi tắt, rất tiện lợi, về sau người ta hay đi đường này.
TRA THẬP GIANG (RẠCH XOÀI MÚT) ([22][147])
Ở phía bắc sông lớn Mỹ Tho, cách trấn về phía tây 2 dặm. Ngày xưa khi gió đông nam nổi lên, thì thế nước rất dữ, sóng gió cuồn cuộn, thuyền bè qua lại luôn bị nguy hiểm. Năm Mậu Thân (1788) thời Trung hưng trở lại đây, có bãi rồng (Long Châu) nổi lên, ngăn giữ sóng gió, thuyền bè qua lại rất tiện lợi. Có bài vịnh: "Trừng Giang như luyện" nghĩa là sông phẳng lặng như tấm lụa, nay hung dữ nguy hiểm đã tiêu tan mà thành con đường thủy rất phẳng lặng.
[37b] SẦM ([23][148]) GIANG (SÔNG RẠCH GẦM)
Ở về phía bắc hạ lưu sông Tiền Giang, cách trấn về phía tây 28 dặm rưỡi. Bờ đông, bờ tây làm ranh giới cho 2 huyện Kiến Đăng và huyện Kiến Hưng. Bờ phía tây có chợ nhỏ, ngược lên hướng đông bắc 7 dặm rưỡi, bờ phía nam có chợ Thung, quán xá đông đúc; 2 dặm rưỡi nữa đến ngã ba: ngả phía tây chảy 17 dặm rưỡi hợp với sông Rau Răm rồi chảy xuống hạ lưu sông Tiền Giang; ngả phía bắc chảy 24 dặm đến cùng nguồn Giồng Lữ có chợ Thuộc Nhiêu, ruộng vườn mầu mỡ, nhân dân chuyên nghề trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm.
BA LAI BẮC GIANG (SÔNG BA LAI BẮC)
Ở về hạ lưu sông Tiền Giang, cách trấn về phía tây 60 dặm rưỡi. Cửa sông sâu rộng, bờ phía tây có chợ quán đông đúc, dân cư đa phần chuyên nghề cày ruộng dệt cửi. Từ khi có Tây Sơn dấy loạn, nhiều phen đây thường là nơi chiến trường, hầu như trở thành chỗ đất bỏ hoang. Nay được yên ổn, nhân dân mới trở lại. Đi 33 dặm về phía đông tới chợ Thanh Sơn tục gọi chợ Cai Lậy ([24][149]), thuộc đất hai thôn Hữu Hòa và Thanh Sơn, quán phố san sát, thuyền bè tới lui liên tục, trở thành sầm uất. Đi về hướng đông 64 dặm rưỡi nữa thì đến cửa kinh mới Rạch Chanh rồi chảy ra sông lớn Hưng Hòa.
[38b] HIỆP ĐỨC GIANG (SÔNG CÁI LÁ)
Ở địa phận 2 thôn Tân Hiệp và Tân Đức, tục gọi là rạch Cái Lá ở về bờ phía bắc hạ lưu Tiền Giang, cách phía tây trấn 62 dặm rưỡi. Dân cư ở có ruộng vườn, hằng sản, nhiều người chuyên nghề dệt cửi, sản xuất nam sô sa, nam trừu lãnh, dệt cửi đúng phép, hoa văn tinh xảo, vốn đã nổi tiếng từ lâu, nhưng đường tơ đem sánh với hàng người Hoa thì hơi kém phần trắng trơn mà thôi.
AN BÌNH GIANG
Tục gọi là sông Cái Bè, ở địa phận đông, tây thôn An Bình, cách trấn về phía tây 67 dặm rưỡi. Đi vào sông độ 1 dặm có chợ quán đông đúc, nhiều nhà giàu có mua trữ cau để chuyển bán cho người buôn ở Sài Gòn; nhiều người làm ghe lán so với ghe bản lồng thì vừa to vừa dài hơn, trên đậy mui dài từ đầu đến đuôi ghe, dưới gá sàn dùng chở bông vải, vỏ cây, cá khô và những thổ sản thô tạp của Cao Miên, dùng toàn những người chống sào đứng trên mui ghe chống đi, gọi là ghe láng để đi buôn bán ở Cao Miên.
CẦN LỐ GIANG (SÔNG CẦN LỐ) ([25][150])
Ở bờ phía bắc sông Tiền Giang, sông rộng 32 tầm, khi nước lên sâu 21 thước ta, nước ròng sâu 16 thước ta [38b] cách phía tây trấn 164 dặm. Vào cửa sông về phía bắc 25 dặm thì cụt dòng. Dân cư ở đây thưa thớt, tre xanh rậm rạp liền nhau tạo thành rừng, có nhiều cây bách bì (cây tràm) (loại cây nầy có cả trăm lớp vỏ, lột lấy vỏ để làm vật lợp nhà, xảm thuyền, đậy điệm đồ đạc, còn thân cây thì làm củi) và lác thì dùng làm chiếu, bao cà ròn, và buồm thuyền. Dân ở đây muối cá đồng làm mắm, chặt tre cây kết bè, theo dòng nước xuôi xuống bán ở các vùng chợ búa.
BẠCH NGƯU GIANG (SÔNG TRÂU TRẮNG)
Ở bờ phía bắc Tiền Giang, cách trấn về phía tây 206 dặm rưỡi. Cửa sông rộng 23 tầm, khi nước lên sâu 14 thước ta, nước ròng sâu 9 thước ta. Từ cửa sông đi về hướng bắc 40 dặm đến vùng bưng biền ([26][151]) dân cư rất thưa thớt. Đất ở đây phía trước giáp sông lớn, có nhiều gò đất cao trồng bông vải, dâu, mè, bí rợ, bí đao, bắp, khoai lang, thuốc lá, đậu nành, đậu trắng, đậu đen. Phía sau là vùng đất thấp ướt, bưng biền có nhiều tôm cá ([27][152]), tre và các thứ cây tạp rậm rạp tạo thành rừng, là vùng đất có nhiều địa lợi nhưng chưa khai khẩn hết. Cách 19 dặm đến hạ lưu sông Đốc Vạn, 3 dặm nữa đến thượng lưu sông Đốc Vạn, 20 tầm [39a] đến đồn cũ Hùng Ngự (Hồng Ngự), 68 dặm đến sông Hiệp Ân và đồn mới Hùng Ngự (Hồng Ngự).
BẢO ĐỊNH HÀ
Tục gọi là kinh Vũng Gù. Cửa sông này gối vào sông Hưng Hòa, cách phía đông bắc trấn 47 dặm rưỡi. Ngày xưa phía đông bắc, sông nhỏ Vũng Gù chảy đến xóm Thị Cai là hết, phía tây sông nhỏ Mỹ Tho cũng xuống đông đến chợ Lương Phú tục gọi là Bến Tranh thuộc đất thôn Lương Phú là hết, khoảng giữa là ruộng đất liên tiếp từ nam đến bắc. Năm Ất Dậu (1705) đời vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế thứ 15, sai Chính thống Vân Trường hầu qua đánh Cao Miên. Bọn địch thường xuất hiện ở chỗ nầy quấy nhiễu quân dân ta, sau Vân Trường hầu bèn đắp lũy dài từ xóm Thị Cai đến chợ Lương Phú, rồi cho đào từ hai đầu chỗ cùng của sông Vũng Gù và sông Mỹ Tho, dẫn nước chảy quanh, làm hào lũy ngoài để củng cố thế phòng ngự. Sau nhân đường nước lưu thông, lại đào sâu thêm, thành ra con kinh ghe thuyền đều đi được. Nhưng đường sông từ đông đến tây xa cách, nên đến chỗ Vọng Thê (tục gọi là Thang Trông, là chỗ trước đó dựng thang cao để đứng nhắm đo đạc địa thế, nhân đó gọi thành tên đất), [39b] đây là nơi nước thủy triều gặp nhau làm chỗ giáp nước, nước lờ đờ khi lên khi xuống, thế nước chẳng chảy mạnh, tuôn mau, lại nhiều chỗ quanh co hẹp nhỏ, nên bùn cỏ tích tụ, ngày càng bị cạn lấp, nên thuyền lớn đi đến đây phải đợi nước lên đầy mới đi được. Năm Kỷ Mão niên hiệu Gia Long thứ 8 (1819), vua có chỉ dụ sai đo thẳng từ chỗ Thang Trông đến Hóc Đồng dài 14 dặm rưỡi, sai Trấn thủ Định Tường là Bửu Thiện hầu Nguyễn Văn Phong điều 9.679 dân trong trấn, cấp cho mỗi người một tháng là một quan tiền và một phương gạo ([28][153]) chia làm 3 phiên thay nhau đào mở, bề ngang 15 tầm, sâu 9 thước ta, 2 bên có đường cái quan rộng 6 tầm, hoặc theo đường sông cũ mà uốn nắn đào cho sâu rộng thêm, hoặc mở kinh mới để nối liền nhau, tùy sự tiện lợi mà làm. Khởi công từ ngày 28 tháng giêng đến ngày 4 tháng 4 nhuận thì xong. Vua ban tên là Bảo Định hà, ai nấy đều cho là rất thuận tiện.
BÁT ĐÔNG GIANG (RẠCH BÁT ĐÔNG) [40a]
Ở bờ phía tây thượng lưu sông Hưng Hòa. Cửa sông rộng 9 tầm, khi nước lên sâu 7 thước ta ([29][154]), nước ròng sâu 2 thước ta. Từ cửa sông đi nửa dặm có xóm nhỏ ([30][155]), dân cư ở đây thưa thớt, làm ruộng theo lối đao canh hỏa thực, tức đốn cây đốt thành than tro, suốt năm cần cù. Xuống phía nam 17 dặm đến cửa sông Rạch Chanh, 14 dặm rưỡi đến cửa sông Bảo Định, chảy ra bắc 118 ([31][156]) dặm đến đồn cũ Phong Ca Khơ me làm thành một phần sông Bát Chiên.
BÁT CHIÊN GIANG (RẠCH BÁT CHIÊN)
Ở thượng lưu sông Hưng Hòa, là giới hạn cuối cùng phía bắc của trấn này. Bờ phía tây là nơi đồn đạo Tuyên Oai trú đóng. Phía trước đạo xuống phía nam 37 dặm đến đồn cũ Phong Ca Khơ me, là giới hạn cuối cùng hạ lưu sông Bát Chiên. Ở trước đạo cách nửa dặm là nơi người Việt ([32][157]), người Hoa, người Cao Miên chung sống, họ trao đổi nhau những thổ sản của núi rừng chằm ao, ở đó có sở tuần ty coi việc thuế khóa và cước phí, cứ 10 phần thâu 1 phần. Lại cách 100 dặm đến đồn cũ Thông Bình, 74 dặm đến sông Vàm Gia (Vàm Dừa) là địa đầu thượng lưu sông Bát Chiên.
Sông nầy nước ngọt mà đục, dòng nước quanh co, cỏ cây rậm rạp [40b], có nhiều sóc của dân Cao Miên. Là nơi bùn lầy nước đọng, đến lúc mưa lụt, nước dâng đầy tràn, trên đất có thể đi thuyền được, cho nên khách buôn thường lén chở hàng hóa theo sông Bát Chiên qua sông Vàm Gia, đến Cầu Nôm rồi tới Nam Vang để trốn thuế. Đạo thủ Tuyên Oai quản lý cả 2 chi thủ Phong Ca Khơ me và Thông Bình, chia giữ chỗ hiểm yếu để kiểm soát các việc vượt biên trái phép và tuần phòng nơi biên giới, ấy là vùng địa đầu quan trọng.
VÀM GIA (SÔNG VÀM DỪA) ([33][158])
Ở thượng lưu sông Bát Chiên, là giới hạn cuối cùng về phía tây của trấn nầy. Ngày xưa khi mới khai thác, nhân dân ở đây hãy còn ít ỏi nên đồn Phong Ca Khơ me đặt ở chỗ nầy để làm giới hạn cho người Việt và người Thổ; nay nhân dân sinh sống ngày càng đông, đất ruộng được mở mang ra tới phía trên đạo Tuyên Oai nhưng cư dân khi đi về thường bị xét hỏi rất bất tiện, nên tháng 4 năm Gia Long thứ 18 (1819), vua có chỉ chuẩn dời đồn Phong Ca Khơ me sang chỗ đồn Thông Bình, dời đồn Thông Bình sang xứ Vàm Gia [41a] sát biên giới Cao Miên, tương ứng từ xa với các đạo Tiền Giang và Tân Châu, ấy là để khi hữu sự tiện bề thông báo cho nhau. Sông ở trước đồn chia làm 2 nhánh: nhánh hướng tây chảy qua Ba Cầu Nôm rồi chảy ra Tiền Giang, đến thượng du đạo Tân Châu, ngược lên tới Nam Vang đến thành của quốc vương Cao Miên; nhánh hướng nam chảy xuống sông Hiệp Ân ra Tiền Giang, 70 dặm nữa đến đồn mới Hùng Ngự (Hồng Ngự).
ĐẠI TIỂU HẢI CHÂU (CÙ LAO ĐẠI TIỂU)
Dài 35 dặm, bề ngang 8 dặm, nổi lên giữa lòng cảng, chia ra làm hai cửa tả hữu Đại Hải, Tiểu Hải, còn gọi là Trấn Hải châu, ở đây cây cối rậm tốt, dân cư có 5 thôn: Phú Thạnh Đông, Tân Phong, Long Thới, Long Hòa, Thỉ Lập ([34][159]) chia nhau để ở, xóm làng ruộng đất trồng trọt chăn nuôi, cùng nhau sống yên ổn. Ở giữa nổi lên gò cao, có nước ngọt chảy ra, người ở đó làm xong nông vụ, lại đi biển đánh bắt, không để phí sức thừa, có thể gọi là dân biển và làm ruộng ([35][160]).
QUỚI SƠN CHÂU (CÙ LAO CỒN TÀU)
Cù lao nằm ở phía tây ngã ba cửa biển lớn, chu vi 8 dặm, thế đất uốn khúc quanh co như hình con rồng [41b]. Có cù lao đất che kín phía bắc con sông ; nằm xiên phía đông dòng sông Bạc Sa (tục gọi là cồn Tàu nằm phụ ở phía tây bắc Hải Châu), nằm đối xiên đông lưu sông. Cù lao nầy đứng một mình giữa sóng gió, thế núi khí hùng ([36][161]), cuộc đất sức mạnh ([37][162]), bến bờ vững chắc, có thể hình thành được bề thế to lớn, cây cối sum sê, đất đai phì nhiêu, có sinh khí thịnh vượng, có hai thôn Hoàng Long và Quới Sơn ở đây.
THỚI SƠN CHÂU (CÙ LAO THỚI SƠN)
Cù lao nằm ở phía tây sông lớn Mỹ Tho, chu vi 5 dặm, cồn Tôn (tục gọi cù lao Họ) ([38][163]) phụ vào phía nam, lấy cây cao làm tinh phong ([39][164]) che chắn, ở đây đất bồi khí vượng, dân thôn Thới Sơn sống ở cù lao ấy.
PHÚ AN CHÂU (CÙ LAO PHÚ AN)
Tục gọi là cù lao Bãi Đắm ([40][165]), ở phía tây sông lớn Mỹ Tho, chu vi 8 dặm, ruộng vườn rất tốt, có dân 2 thôn Phú An Tây và Phú An Lộc ở đó. Cù lao có sông rộng, nước trong, bóng nước tiếp chân trời, trông xa vạn khoảnh, đúng là một cảnh tiên vậy.
KIẾN LỢI CHÂU
Tục gọi là cù lao Trà Luật (Trà Luộc) ([41][166]) ở tổng Kiến Lợi nằm về phía bắc hạ lưu Tiền Giang, làm tinh biểu cho sông Trà Luật (Luộc) (Sông rộng 29 tầm, nước lớn sâu 21 thước ta, nước ròng sâu 16 thước ta, bờ phía tây có chợ Trà Luật (Trà Luộc) cách trấn lỵ về phía tây 55 dặm, về phía bắc 8 dặm rưỡi đến ngã ba sông. Ngả đông bắc cách 4 dặm đến sông Ba Lai, ngả bắc 26 dặm rưỡi đến giồng Trà Luật (Trà Luộc), có chợ thôn quê, cuối dòng sông đầy bùn cỏ gọi là chằm Khoai.) Giồng này dài hơn 5 dặm, có dân năm thôn Long Phú, Phú Hòa, An Tân, Giao Long, An Thủy Đông cư ngụ. Ở đây ruộng vườn xanh tốt.
THI HÀN CHÂU (CÙ LAO CÁI THIA)
Ở phía bắc sông Tiền, thuộc tổng Kiến Phong, dài 42 dặm. Sông Thi (tục gọi là vàm Cái Thia, rộng 70 tầm, sâu 6 tầm. Đi về bờ phía bắc nửa dặm có chợ, tục gọi là chợ Cái Thia, phía đông thuộc thôn Mỹ Đức Đông, phía tây thuộc thôn Mỹ Đức Tây, còn chợ thì ở giữa tên là chợ Mỹ Đức, nhưng thôn Mỹ Đức Đông lại là đất xây dựng huyện trị (lỵ). Đi 45 tầm đến ngã ba sông. Dòng sông lớn phía tây là sông Đại Hội, tục gọi là sông Cái Cối ([42][167]), do các con sông nhỏ chạy dọc theo một số thôn xóm đều tụ hội lại đó nên mới gọi là sông Đại Hội. Đi 27 dặm ngoài đến xóm nhỏ Tam Tự, rồi chảy ra sông Hàn, tới nhánh Bắc Tiền Giang thành sông Đức Lương. Phía đông là thôn Mỹ Đức Tây, còn phía tây là thôn Mỹ Lương. Mười một dặm đến ngã ba Vàng Nhứ, từ ngã ba đi về bắc 17 dặm ngoài tới chằm cùng. Từ ngã ba đi 5 dặm rưỡi về phía nam đến sông Mỹ Luông tục gọi là Rạch Miễu, là giới hạn của sông Đại Hội, nước lớn đầy ghe thuyền mới tới lui được) phía đông ôm nắm sông Hàn (tục gọi là Vàm Hàn), phía tây ôm hợp lưu của hai sông Thi và sông Hàn mà cù lao nhô ở giữa nên mới gọi là cù lao Thi Hàn. Lại vì cù lao ấy nổi lên sáu đầu nhọn bày hàng kế tiếp nên còn gọi là Lục Châu Đầu. Đầu phía đông cồn thứ nhất là đất của hai thôn Mỹ Lương và Hòa Lộc, cồn thứ hai là đất của thôn Mỹ Hưng, cồn nhỏ thứ ba làm trụ đá (để trụ) ([43][168]) cho ngã ba sông Cổ Lịch. (Sông rộng 28 tầm, sâu 12 thước ta chảy về bắc 2 dặm rưỡi đến ngã ba. Từ ngã ba chảy về đông bắc 7 dặm, nhập vào sông Đại Hội, chảy về phía tây bắc 10 dặm lại cũng nhập vào sông Đại Hội). Cồn thứ tư là đất của thôn Mỹ Thuận. Cồn thứ năm là đất của thôn Mỹ An Đông. Cồn thứ sáu là đất của hai thôn Thanh Hưng và Mỹ Long (Luông) ([44][169]), cây cối cao lớn khác thường, ruộng vườn phì nhiêu, nhân dân theo nghề làm ruộng, đánh cá.
LONG ẨN CHÂU (CÙ LAO LONG ẨN)
Cù lao nầy làm trụ biểu cho sông Long Ẩn, (rộng 38 tầm, sâu 2 tầm, cách phía tây trấn 124 dặm chảy vào phía bắc 6 dặm đến ngã ba sông. Nhánh bắc chảy vào chằm cùng. Nhánh tây nam chảy 9 dặm ra sông lớn). Cù lao nầy dài 3 dặm ở phía bắc lưu Tiền Giang, có thôn Mỹ Xương đầy ruộng vườn dân cư, phía đông nhìn sang sông Bình Giang (rộng 72 tầm, sâu 11 thước ta cách phía tây trấn 118 dặm. Đi về phía bắc 6 dặm đến ngã ba. Nhánh bắc chảy 3 dặm rưỡi là vào chằm cùng, có ruộng vườn dân cư. Nhánh tây nam chảy 5 dặm rưỡi hiệp lưu với sông Long Ẩn).
Phía tây trông về sông Cần Lố (rộng 32 tầm, sâu 21 thước ta, cách phía tây trấn 141 dặm rưỡi, chảy về bắc chừng 25 dặm là cùng nguồn). Sông quanh co vắng vẻ, có nơi như vực sâu, giữa nổi một cồn hình trạng có bờm và đuôi ngoắc nguẩy yêu kiều giữa sông lớn mênh mông, giống như con giao long giỡn nước, nhưng đầu sừng còn chưa lộ rõ. Cồn nhỏ cây thấp, lại giống con giao long ẩn nấp giữa vực sâu, nên gọi là Long Ẩn (Rồng núp).
Ô CHÂU (CÙ LAO QUẠ)
Ở phía bắc lưu Tiền Giang, phía nam của cù lao Long Ẩn, làm bình phong ngoài cho sông Long Ẩn. Nơi đây vườn cau sum sê, cây cối xanh tươi, bến bờ sâu thẳm, có nhiều hang ổ cá tôm, bầy quạ thường tụ tập ở đấy để bắt tôm cá, nên mới gọi là cù lao Quạ. Cù lao nầy dài hơn 7 dặm, có dân thôn Nhân Hậu Đông ở đấy.
BA LĂNG CHÂU (CÙ LAO BA LĂNG)
Ở phía bắc thượng lưu Tiền Giang, nằm bổ thẳng vào sóng cả của sông dài, nên gọi là Ba Lăng. Cù lao dài 5 dặm, có tre và cây cối rậm rạp, ruộng cao, đất tốt thích hợp với cây bông vải, thuốc lá, chè, dưa, các thứ cây ăn quả, mè, đậu, mới lập thôn Tân An ở đấy.
[43a] VIÊN (VƯỜN RẪY)
Ở hụyện Kiến Đăng và Kiến Hưng, vườn cau ở đây sum sê. Cau tươi, cau sấy và cau khô nhà nào cũng có, người ta chất đống ngoài sân, dựa trong lẫm để bán đi các nơi xa gần.
LÂM TẨU (RỪNG SÁC)
- Ở Cần Lộc (tại nhánh tây cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) thông với cửa Tiểu), có cây dà, cây đước.
- Ở sông Tra, Gò Công, sông Lá Dừa, cảng Ba Lai thì có lá dừa nước.
- Ở Rạch Chanh, Bát Chiên thì có cây tràm và không tâm bồ (tục gọi là cỏ bàng). ([45][170])
- Ở Bạch Ngưu, Đốc Vạn và Hồng Ngự thì có rừng tre, tất cả đều là vật có lợi.
CHẰM AO
Huyện Kiến Đăng từ đông sang tây tiếp giáp vùng biên giới Cao Miên có nhiều bưng biền, chằm, ao, cá tôm dùng ăn không hết. Cứ đến tháng 4, 5, khi mưa xuống nước tràn thì cá sinh trưởng đầy dẫy kiếm ăn ở trong ruộng, trong đầm. Phàm những nơi có nước và có cỏ dù sâu chỉ độ hơn tấc ta cũng có cá ở; từ tháng 10 trở đi hết mùa mưa, nước rút, cá xuống ([46][171]) sông cho nên lệ có thu thuế cá [43b], gọi là thuế dư cấp, ai bỏ tiền đấu được thầu mới được hành nghề. Ở thượng lưu sông, người ta đắp đập chắn ngang, khiến cho cá không bơi ngược dòng lên bờ được; ở giữa sông dựng tấm đăng bằng tre chận dòng nước kỹ lại để giữ cá rồi bắt đem bán cho người buôn, dùng sọt mà đong đổ vào ghe lớn, đổ nước ngọt vào và thường phải dùng gàu thay nước, cá được thay nước sạch, có nhiều nhớt nên sức chịu đựng lâu dễ sống, chủ cá thu được mối lợi lớn. Lại có một dãy địa phương như kinh mới Rạch Chanh, Bắc Giang, tuy đóng thuế điền, nhưng nghề nghiệp chính lại là đào ao nuôi cá bán để nạp thuế ([47][172]). Ấy là nguồn lợi sông chằm thật là vô cùng.
([1][126]) Nguyên văn bản in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép "Kiến Định (定) giồng". Nguyên văn VHN lưu trữ cũng chép Kiến Định. Nhưng nguyên văn in kèm bản dịch của nhóm dịch giả VSH thì lại chép "Kiến An (安) giồng" Thật ra cả ba bản nguyên văn nêu trên chỉ là bản sao chép viết tay mà sai sót rõ nét thì rất nhiều, nhưng dị bản này thật khó xác định mà bản in khắc gỗ thì không còn nên đành lấy theo số đông "Kiến Định".
([2][127]) Dự (蕷), tức Thự dự (薯蕷) là củ mài, ăn và làm thuốc được, còn gọi là Hoài sơn (懷山)
([3][128]) Giồng Lữ (呂墥). Theo người dân địa phương Cai Lậy, Đồng Tháp thì đây là giồng Lũy, gò Lũy, tức tên giồng mà ngày xưa quan binh đã đắp lũy, đóng đồn (壘墥).
([4][129]) Giồng Sao: Nguyên văn viết 墥:. Chữ : nầy tra trong tự điển Nôm không thấy.
([5][130]) Tập Đình hầu là người khách Quảng Đông tính rất hung bạo, nhiều lần Nguyễn Nhạc muốn giết đi. Tập Đình biết ý phản lại Tây Sơn làm loạn, sau đó chạy về Quảng Đông và bị Tổng đốc nhà Thanh bắt giết.
([6][131]) Tức Thủ Dầu Một, nay là thị xã tỉnh lỵ Bình Dương.
([7][132]) Ý chịu tang cho Thái Thượng vương Duệ Tông và Tân Chánh vương (Mục vương) bị Tây Sơn giết.
([8][133]) Hào Hàm (崤函): Chữ Hào (崤) cũng viết là B. Hào Sơn cũng viết là Hào Cốc (崤谷) là góc phía đông của ải Hàm Cốc, cho nên ải Hàm Cốc cũng gọi là Hào Hàm. Hàm Cốc quan là một cửa ải rất vững chắc của nhà Tần (Trung Quốc), nay thuộc vùng Hà Nam.
([9][134]) Ngô giang (吳江): Là tên tắt của Ngô Tùng giang (吳淞江) ở cảnh địa tỉnh Giang Tô, xưa gọi là Lạp Trạch, cũng gọi là Tùng giang (松江), Nam giang, Tùng Lăng giang, Ngô Thục giang, tục gọi là Giang Châu hà, cửa sông gọi là Ngô Tùng khẩu. Sông này chặn ngay yết hầu của Trường Giang, là một cửa sông cực kỳ quan yếu của miền Nam Trung Quốc.
([10][135]) Thường Sơn xà (常山蛇)Tức rắn Thường Sơn ở Cối Kê rất lợi hại, cắn mổ được đủ hướng. Ai vô ý nắm bắt phía đầu thì đuôi nó ngoặt về trước chích nọc độc ngay. Ai nắm đuôi để bắt thì bị đầu nó quay lại cắn. Còn ai đè nó ở giữa lưng thì đầu đuôi cùng quay lại cắn chích, còn gọi là Suất Nhiên. Nhân rắn độc dữ chống đỡ được nhiều phía tấn công nên Tôn Võ Tử có đặt ra một trận pháp gọi là Thường Sơn Xà trận, trận thế ứng đối mọi phía như thân con rắn Thường Sơn. Cửa ải Kiếm Các vùng Thiểm Tây có rất nhiều loại rắn nầy gián tiếp ngăn chặn quân địch tấn công ải.
([11][136]) Phụ ngung hổ (負嵎虎):Ta thường đọc là phụ ngung hổ tức cọp tựa góc núi ăn thua đủ. Loài cọp khi bị săn đuổi túng thế đổ quạu trụ lại dựa lưng vào góc núi chống cự là rất nguy hiểm. Sách Mạnh Tử nói: "Có đám đông rượt hổ. Hổ trụ lại dựa lưng góc núi chống cự, chẳng ai dám tới gần". (Hữu chúng trục hổ, hổ phụ ngung,vô cảm xanh). Lương Sơn Bạc là cái chằm, nơi cát cứ của 108 tay hảo hán do Tống Giang cầm đầu hồi đời Tống chống lại triều đình. Danh tiếng anh hùng Lương Sơn Bạc được miêu tả sinh động trong truyện Thủy Hử.
([12][137]) Nguyên văn viết chữ Nôm chó (C) hơi mờ nhòe trông giống như chữ Hán vãng (往) nên có sách đọc là giồng Vãng (chờ chỉ giáo).
([13][138]) Nguyên văn viết結tức Kết, nhưng người địa phương gọi đây là giồng Két.
([14][139]) Bản nguyên văn do VHN lưu trữ chép 88 dặm (八十八里).
([15][140]) Súc (畜): tức là vùng cư dân của một bộ lạc, tiếng Nôm đọc là sóc. Ngày nay, ở miền Tây Nam bộ có rất nhiều sóc của người Khơ me, cũng như ở Tây Nguyên có nhiều "buôn" của người dân tộc. Thật ra sóc là âm của tiếng Khơ me Srok chỉ một làng xóm.
([16][141]) Nguyên văn "Hoa dân", chữ Hoa (華) có nghĩa là tinh hoa, vàng son rạng rỡ, văn minh. Người Trung Quốc tự xưng mình là Trung Hoa, còn chung quanh đều là "man di, mọi rợ". Người Việt xưa cũng bắt chước tự xưng mình là "Hoa nhân", để phân biệt với các "man di" xung quanh là Thượng, Lào, Miên (Campuchia), Tiêm La (Thái Lan). Ai cũng có tinh thần tự tôn dân tộc quá đáng.
([17][142]) Nguyên văn viết 奇婚 tức Kỳ Hôn nhưng còn gọi theo tên ngoài là Trà Hôn hay Cà Hôn.
([18][143]) Chữ này nguyên văn có bản chép液, có bản chép掖 nhưng đều tra không ra, tạm đọc theo tiếng Hán là Dịch.
([19][144]) Thời Pháp thuộc, cù lao Rồng là nơi an trí các người mắc bịnh Hansen (bịnh cùi, hủi) do các dì phước đạo Thiên Chúa coi sóc.
([20][145]) Mỗi miệng đáy mắc vào hai cây cọc cắm sâu xuống lòng sông. Miệng đáy bằng lưới hình phễu, mép miệng trên ngang mặt nước, mép miệng dưới sát đáy sông kéo lên kéo xuống nhờ cặp nài. Do nước chảy mạnh, bao nhiêu tôm cá trôi vô miệng tuôn vào đuôi miệng đáy gọi là cái đụt. Tùy theo cá tép chạy nhiều hay ít mà thời gian đổ đụt lâu hay mau.
([21][146]) Nguyên văn viết波淶, chữ Nôm 淶có thể đọc lai, rai, rài nhưng nhân dân Nam Bộ gọi đây là cửa Ba Lai, sông Ba Lai, còn sông Tân Thới thì mới gọi là vàm Rài (淶).
([22][147]) Trong PCGBC, Trương Vĩnh Ký chép sông này còn gọi là rạch Bà Bèo.
([23][148]) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép là Gằm Giang.
([24][149]) Nguyên văn viết該礼. Chữ 礼 âm Hán Việt đọc lễ có nghĩa là lạy. Chữ Nôm: lạy phải viết đủ là D hoặc E. Đây có lẽ tác giả viết chữ Lạy theo ý. Từ lạy đọc thành lậy. Cai Lậy là chợ trên Quốc lộ 4, có đường quẹo vô Mộc Hóa.
([25][150]) Nguyên văn viết芹露. Chữ 露 đọc theo Hán Việt là lộ, đọc theo Nôm là lố. Đọc Cần Lố là đúng theo cách gọi của địa phương.
([26][151]) Nguyên văn pha trạch 陂澤 dịch là bưng biền, là nơi quanh năm đất sình lầy lấp xấp nước, mọc đầy năn lác.
([27][152]) Nguyên văn viết魚虌tức ngư miết là cá và con ba ba. Trong GĐTTC魚虌 để chỉ thủy sản nói chung, Trịnh Hoài Đức thường dùng chữ Ngư miết này. Nếu dịch "cá rùa" thì không hợp với phương ngữ miền Nam. Hai chữ này miền Nam thường dịch là "cá tôm" hay "cá mắm", tức ngoài Bắc dịch là "cá mú".
([28][153]) Từ đo lường phương (方) không thấy trong tự điển Hán Việt. Căn cứ vào cách tính của Lê Thành Khôi trong cuốn Histoire du Vietnam, thì 1 phương gạo bằng 30 lít gạo.
([29][154]) Thời Trịnh Hoài Đức chỉ sử dụng thước ta hay Trung Quốc. Từ 1890, một (1) thước ta tương đương 0,4 m (4 dm). Thước Trung Quốc tương đương 0,32 m.
([30][155]) Chữ tiểu quán (小舘) với nghĩa là "xóm nhỏ" được tác giả dùng ở đoạn nói về "Bảo Định hà". "Bát Đông giang" và "Thi Hàn châu".
([31][156]) Nguyên văn bản VHN lưu trữ chép bách bát thập lý (百八十里) tức 180 dặm. Bản VSH và bản Nguyễn Tạo đều chép bách thập bát lý tức 118 dặm.
([32][157]) Trong toàn bộ sách này, Hoa nhân chỉ người Việt, Đường nhân chỉ người Hoa. Di phần nhiều chỉ người Khơ me.
([33][158]) Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép Vàm Gia giang gọi là Vàm Gia mà không dịch là Vàm Dừa. Điều này có thể đúng vì nhiều địa phương chỉ gọi bằng tên chữ Hán.
([34][159]) Hai chữ Thỉ Lập (始立) không phải tên thôn mà có nghĩa là "mới thành lập". Nhưng như vậy thì chỉ tính được có 4 thôn, thiếu một thôn. Vậy tạm dịch theo nghĩa tên thôn cho đủ 5.
([35][160]) Nguyên văn Ngư mục chi dân (魚牧之民).Trịnh Hoài Đức thường dùng chữ mục (牧) để chỉ người làm ruộng như trong bài thơ "Chu thổ sừ vân" trong Cấn Trai thi tập ông viết: Phá hiểu sừ vân mục tử trù, nghĩa là "Vừa tưng bửng sáng nông dân đã làm đồng". Nếu hiểu "mục tử" là kẻ chăn trâu là lạc xa ý tác giả.
([36][161]) Nguyên văn Sơn long khí hùng (山竜氣雄). Sơn long là từ phong thủy chỉ thế núi.
([37][162]) Nguyên văn Khôn mã lực kiện (坤馬力健). Khôn mã là từ khoa phong thủy chỉ "Cuộc đất".
([38][163]) Nguyên văn chép 戶. Chữ này âm Hán Việt là hộ, nhưng âm theo chữ Nôm là họ. Vậy đây là cù lao Họ.
([39][164]) Nguyên văn tinh phong (星峰) là từ khoa phong thủy chỉ cái cồn nổi chắn ngang cửa sông.
([40][165]) Nguyên văn chép罷耽, tức bãi Đắm. Vương Hồng Sển đọc theo Trương Vĩnh Ký là bãi Đám có khi nhầm, do lỗi morasse vì chữ đám Nôm viết là坫. Nhóm dịch giả VSH ghi là bãi Doãn cũng chưa đúng.
([41][166]) Nguyên văn viết Trà Luật (茶律) nhưng Trương Vĩnh Ký trong PCGBC chép là cù lao Trà Luộc, tên chữ là Kiến Lợi châu.
([42][167]) Tuy chữ Nôm cối thường được viết chữ hội (会 - 會) và bộ mộc (木) bàng, tức là桧hay檜, nhưng Trịnh Hoài Đức viết chữ cối với chữ cữu (cựu) đầu (臼) tức cái Cối Xay, và chữ hội (会 - 會) thì theo ý chúng tôi sự chỉ ý càng rõ nét hơn khi viết với Mộc bàng, vậy tục danh sông Đại Hội chính là Cái Cối vậy!
([43][168]) Để trụ (砥柱) nguyên chỉ núi. Sách Thủy kinh hà thủy chú: "Khi xưa vua Vũ trị nạn lụt, phàm gò núi nào cản nước thì đục bỏ, vì cần phá núi, thông sông. Sông bao quanh núi rẽ nhánh mà chảy. Nhìn ngọn núi trong dòng sông như cây trụ cho nên mới nói là trụ đá, tức để trụ".
([44][169]) Mặc dù miếu hiệu vua Gia Long viết chữ (隆), còn thôn Mỹ Long viết chữ (龍) nhưng khi phát âm cũng trùng là long nên phải kỵ húy đọc trại là luông.
([45][170]) Không tâm bồ (空心蒲) tức cỏ bàng dùng để dệt đệm, bao cà ròn.
([46][171]) Từ đặc biệt miền Nam để gọi cá lên xuống theo mùa mưa. Đầu sa mưa, cá từ sông theo đường nước mưa chảy xuống sông lội ngược lên đồng gọi là cá lên . Giữa tháng 10, trời dứt mưa, cá theo nước chảy ra sông gọi là cá xuống.
([47][172]) Thuế điền nộp nhẹ hơn các ngành nghề khác. Người dân tiếng là đóng thuế điền làm ruộng, nhưng thật là đào liếp nuôi cá lợi nhiều mà đóng thuế ít.