Thợ nhuộm Đan Loan
Đan Loan xưa là một làng của tổng Minh Luân, huyện Đường An, nay thuộc xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đan Loan là quê hương của Phạm Đình Hổ, một làng nổi tiếng trong lịch sử với nghề nhuộm. Đan Loan là một từ Hán - Việt (đan là màu đỏ, loan là con chim phượng), ý nói người thợ nhuộm của làng như con chim phượng bay đi khắp nơi, tạo ra nhiều màu sắc, với màu đỏ là màu rực rỡ nhất, làm đẹp cho đời. Người Đan Loan không chỉ nhuộm tại làng mà còn mang nghề nhuộm đi khắp bốn phương trời.
Ngày xưa, vào dịp nông nhàn thợ nhuộm Đan Loan quẩy gánh trên vai, đi đến các làng quê, Kẻ Chợ, để nhuộm quần áo, nhuộm vải lụa cho mọi nhà. Dân gian xứ Đông có câu ca: “Tiền làng Đọc, thóc làng Nhữ, chữ làng Trằm”. Đọc chính là tên nôm của Đan Loan. Cụm từ “tiền làng Đọc” ý nói nghề nhuộm Đan Loan hái ra tiền.
Năm này qua năm khác, khi tích tụ được vốn liếng họ mở cửa hiệu trên phố, chợ. Ở Thăng Long, họ sống tập trung thành phố, nay là phố Thợ Nhuộm. Từ thế kỷ XV, họ sống tập trung mở hiệu ở phố Hàng Đào, như sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi đã ghi: “Hàng Đào nhuộm điều”. Thợ nhuộm Đan Loan không chỉ nhuộm điều, họ nhuộm đủ các màu theo yêu cầu của thị dân, của cung đình và phủ chúa. họ tư hào về nghề nghiệp của mình, viết câu đối lưu truyền hậu thế:
Thiên hạ thanh hoàng do ngã thủ
Triều đình chu tử tự ngô gia.
Nghĩa là:
Thiên hạ có màu xanh, màu vàng đều do bàn tay ta làm ra
Triều đình vua quan, áo màu đỏ, màu tía cũng từ nhà ta mà có
Ở phố Hàng Đào, họ đã mở chợ nhuộm, lấy tên là chợ nhuộm Hoa Lộc. “Dân ở đâu thì thánh thần ở đó”, họ dựng đền thờ thành hoàng là Triệu Xương và tổ nghề là Phương Dung tại Hoa Lộc, nay là ngôi nhà 90A phố Hàng Đào. Hàng năm cúng giỗ vào ngày Rằm tháng Giêng Âm lịch.
Thần phả ở Đan Loan ghi: Vào thời nhà Đường, có một viên quan tên là Triệu Xương cùng vợ là Phương Dung công chúa đi qua vùng này thấy làng quê trù phú, phong cảnh hữu tình, người dân tần tảo cấy cày lại ham đọc sách (làng Đọc) nên ngụ lại ở làng dạy cho dân biết nghề nhuộm vải vóc tơ lụa, vốn là nghề gia truyền mà cha ông để lại. Từ đó làng Đọc có thêm nghề nhuộm. Dân làng nhớ công ơn, nên thờ ông bà Triệu Xương – Phương Dung làm thành hoàng kiêm tổ nghề.
Trong đền ở chợ Hoa Lộc xưa có một tấm bia ghi nhận quá trình trùng tu có niên đại là tháng 9 năm Vĩnh Thịnh thứ hai (10-1703). Văn bia cho biết 7 dòng họ là: Vũ, Phạm, Lê, Dương, Bùi, Đào, Đoàn của Đan Loan đã đóng góp tiền của xây dựng đền chợ Hoa Lộc.
Từ nghề thợ nhuộm tơ lụa, khi đã tích luỹ đủ vốn liếng (tiền làng Đọc) họ kiêm luôn việc kinh doanh tơ lụa. Thời Pháp thuộc ở phố Hàng Đào, chủ các hiệu nhuộm và buôn bán tơ luạ lớn hầu hết có gốc từ làng Đan Loan.
Tóm lại, người Đan Loan xứ Đông đã góp phần hình thành phố Thợ Nhuộm, phố Hàng Đào ở Kẻ Chợ Thăng Long từ thế kỷ XV.
Thợ bạc Châu Khê
Châu Khê xưa là Chu Xá trang hình thành từ thời Lý thế kỷ thứ XI, nay là một thôn của xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Châu KHê là quê hương của Lưu Xuân Tín, Thượng tư Bộ Lại thời Lê Thánh Tông (1460-1497) được triều đình trao trọng trách lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành. Ông về Châu Khê đem người làng, họ hàng lên phường Đông Các lập xưởng đúc bạc, gọi là Tràng Đúc, nay là số nhà 53 phố Hàng Bạc. Người Châu Khê lên Thăng Long làm nghề đúc bạc ngày càng đông. Trai đinh năm giáp đều có mặt. Họ xây nhà mở cửa hiệu, quy tụ lại thành phường lập nên phố Hàng Bạc, gọi là Hàng Bạc Châu Khê. Họ tổ chức phường theo mô hình làng, xã, lập thành năm giáp, xây dựng đình thờ thành hoàng làng, Đại tướng quân Phạm Sỹ ở đình Thượng, nay là số nhà 50 phố Hàng Bạc và đền thờ Tổ sư Lưu Xuân Tín ở đền Kim Ngân hay đền Hạ, nay là số nhà 42 cùng phố. Hằng năm ngày 19 tháng Giêng Âm lịch vào đám tế lễ, hội họp trở nên chật hẹp. Năm 1895, họ mua đền Nội miếu của phường Hài Tượng, sửa sang lại làm nơi thờ thành hoàng làng Châu Khê. Trên nóc cổng đền hiện nay còn dòng chữ “Châu Khê vọng sở, Nội miếu cổ từ”.
Sau khi vua Gia Long chuyển Tràng đúc vào Thuận Hoá, đại bộ phận dân Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long. Thời điểm này không còn đúc bạc nén nữa, họ chuyển sang làm nghề kim hoàn và nghề đổi bạc vụn lấy bác nén và ngược lại (bạc vụn và bạc nén được coi là đơn vị tiền tệ dưới thời phong kiến). Vì thế khi người Pháp đến Hà Nội, họ gọi phố Hàng Bạc là phố đổi tiền: Rue des Chan Geurs. Như vậy, người dân Châu Khê, Hải Dương đã góp phần hình thành nên phố Hàng Bạc Thăng Long với 3 nghề: đúc bạc nén, nghề kim hoàn và nghề đổi bạc.
Thợ lược làng Vạc
Làng Vạc có tên chữ là Hoạch Trạch, xưa thuộc huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Căn cứ vào từ dạng thì chữ “Hoạch” có nghĩa là cái vạc, “Trạch” là ân huệ. Hoạch Trạch có nghĩa là ân huệ của cái vạc. Dân gian vốn đơn giản, không ưa chữ nghĩa dài dòng gọi tắt nôm na là làng Vạc.
Theo truyền thuyết và Hoạch Trạch Nhữ tộc phả ký do tiến sĩ Nhữ Đình Toản (1701-1773) soạn vào giữa thế kỷ XVIII thì cụ Nhữ Tiến Hiền, tiến sĩ khoa Canh Thân (1680) đời Lê Hy Tông làm quan đến Hình Bộ Thượng thư sau thăng Lễ Bộ thượng thư, được cử đi sứ Trung Quốc vào năm 1698. Trong dịp đi sứ, ông học được cách làm lược tre ở nước ngoài. Về nước, tiến sĩ Nhữ Tiến Hiền cùng bà vợ là Lý Thị Hiệu đã tổ chức hướng dẫn cho dân làng làm lược.
Làng Vạc có nghề làm lược tre từ đó và lược Vạc nổi tiếng đến tận ngày nay. Hai ông bà Nhữ Tiến Hiền và Lý Thị Hiệu được tôn làm “Thánh sư nghề lược” và được lập đền thờ tại làng.
Em trai Nhữ Đình Toản dựng phường Diên Lộc ở Thăng Long, tập hợp những người làm lược để giúp đỡ nhau trong nghề nghiệp. Sau đó Nhữ Đình Toàn về trí sĩ được vua ban cho 16 mẫu lộc điền, đã dành 12 mẫu cho phường Diên Lộc lấy hoa lợi làm vốn để duy trì và phát triển nghề làm lược.
Lược Vạc trở thành hàng hoá, được chuyển tới các phố phường, Kẻ Chợ… Từ đó một số thợ làng Vạc ra Thăng Long tổ chức sản xuất lược tại chỗ, tạo nên một phường nghề là tiền thân của phố Hàng Lược ngày nay.
Trong cuốn Đường phố Hà Nội, tác giả Nguyễn Vinh Phúc viết: “Cứ như tên gọi thì đây là nơi tập trung các nhà sản xuất lược chải đầu hoặc buôn bán mặt hàng này, nhưng đó là vào thời Lê hoặc đầu thời Nguyễn”. Như vậy là từ xa xưa, người làm lược Vạc xứ Đông đã tới Kẻ Chợ hình thành nên một phường nghề trong ba mươi sáu phố phường Thăng Long.
Thợ da giày Tam Lâm
Tam Lâm là tên gọi chung của 3 làng: Phong Lâm, Văn Lâm và Trúc Lâm, tục gọi là 3 làng Trắm, xưa thuộc tổng Phạm Xá, huyện Tứ Kỳ, đầu thế kỷ XX cắt chuyển về xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Theo sắc phong còn lưu giữ tại địa phương thì vào đầu thời Mạc, tiến sĩ Nguyễn Thời Trung, người Trúc Lâm phụng mệnh triều đình đi sứ nhà Minh dâng lễ cống. Khi đi, ông xin mang theo 3 người cùng quê là Phạm Thuần Chánh, Phạm Đức Chính và Nguyễn Sĩ Bân. Trong thời gian lưu lại ở Trung Quốc, qua hỏi han, trò chuyện, học tập mỗi ngày một chút, các ông đã thu lượm được kiến thức về thuộc da và đóng giày. Hết thời gian đi sứ, các ông về nước mang theo những bí quyết về nghề thuộc da đóng giày. Các ông cũng tự đóng được một số mẫu giày đem dâng vua và tâu lên vua ý định truyền bá nghề này cho dân làng Tam Lâm. Ý tưởng này được nhà vua chuẩn y.
Làng Tam Lâm học được cách làm giày từ đó và dần dần trở thành trung tâm thuộc da đóng giày của cả nước. Nguyễn Thời Trung cùng 3 vị kể trên được suy tôn là Tổ sư nghề da giày. Sau đó, triều đình lại sắc phong cho tiến sĩ Nguyến Thời Trung làm thành hoàng làng Tam Lâm. Ba ông: Phạm Đức Chính, Nguyễn Sĩ Bân, Phạm Thuần Chánh được phong làm tổ nghề da giày.
Do điều kiện kinh tế xã hội thời bấy giờ, nhu cầu về da giày chủ yếu là ở chốn thị thành, vào dịp hội hè đầu xuân. Vì thế vào lúc nông nhàn, thợ giày Tam Lâm tạm biệt quê hương vào mùa thu, mang theo đồ nghề ra Kẻ Chợ. Ở đây, họ mở hiệu, hoạt động sôi nổi suốt mùa đông cho đến giữa màu xuân năm sau. Khi nhu cầu về giày dép ít đi, họ lại trở về quê hương làm ruộng. Và năm sau lại như thế. Ở đâu có nhu cầu về da giày, ở đó có người đóng giày Tam Lâm. Như thế mãi cũng bất tiện, một số định cư ở lại Thăng Long. Thợ Tam Lâm ngày một đông dần. Họ ở quây quần thành một phường, gọi là phường Hài Tượng - phường của những người thợ giày ở tổng Húc Túc, huyện Thọ Xương rồi phát triển sang cả đất thôn Tả Khanh (nay thuộc ngõ Hàng Hành) tiến tới lập cả một phố, gọi là phố Hàng Da tồn tại đến tận ngày nay. Phố này tập trung chủ yếu là thợ giày Văn Lâm (Trắm trên). Còn thợ giày Trúc Lâm (Trắm dưới) mở cửa hàng tập trung ở phố Bảo Khánh.
Nhờ nghề da giày, không ít gia đình trở nên sung túc phong lưu, từ cuộc sống bình thường nơi thôn dã họ đã trở thành thị dân giàu có, gắn bó với nhau theo quan hệ làng xóm ở quê nhà. Họ lập đền thờ tổ nghề ngay trên đất Thăng Long, hàng năm cúng giỗ, mở hội đình đám vào ngày 23-2 và 16-8 Âm lịch. Thợ giày Phong Lâm lập riêng ngôi đình bái vọng tổ nghề ở số 16 Hài Tượng - thợ giày Văn Lâm cũng lập riêng ngôi đình ở 40 phố Hàng Hành cạnh phố Hàng Da. Thợ giày Trúc Lâm cũng chung tay góp lập ra ngôi đình cổ ở số 20 phố Bảo Khánh.
Như vậy thợ giày Tam Lâm trong quá trình kinh doanh ở Kẻ Chợ đã góp phần hình thành các phố: Hài Tượng, Hàng Giày, Hàng Da và Bảo Khánh của Thăng Long 36 phố phường.
Nói về nghề đóng giày, giáo sư Pierre Gourou đã viết vào đầu những năm 1930 như sau: “Tuy nhiên các làng Trúc Lâm, Phong Lâm, Văn Lâm vẫn tiếp tục đóng giày và gần 500 thợ đóng giày của 3 xã này đi làm ở khắp Bắc kỳ và cả ở Trung kỳ”.
Như vậy nghề da giày Tam Lâm được truyền từ đời này sang đời khác tính từ vị tổ nghề Nguyễn Thời Trung tới nay đã gần 5 thế kỷ. Người ta ước tính có khoảng 2.000 thợ giày Tam Lâm đang hành nghề xa quê hương trên khắp đất nước Việt Nam.
Nguồn: Xưa& Nay, số 370/2010