Kỳ 1: Lá thư đến từ viễn xứ
Ngày 10/6/1980, một lá thư từ cán bộ ngoại giao người Nhật gửi cho ông Ngô Duy Đông - Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải Dương và Hưng Yên hiện tại) với nội dung:
"Kính gửi: Ông Ngô Duy Đông - Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng.
Thưa ông, tên tôi là: Makoto Anabuki, hồi trước là Bí thư thứ 2 của Đại sứ quán Nhật Bản, nay là cán bộ ngoại giao Nhật Bản tại Tokyo.
Trước hết tôi xin kính chúc tỉnh Hải Hưng đang phát triển mạnh mẽ trong ngành nông nghiệp, nhất là ao cá Bác Hồ, đem lại hiệu quả kinh tế cao và sản xuất rau cải được tăng lên.
Hôm nay tôi xin nhờ sự giúp đỡ của ông về việc sau đây:
Từ trước đến nay tôi nghiên cứu về văn hóa Việt Nam nói chung, đồ gốm cổ Việt Nam nói riêng. Gần đây, tôi mới biết là Viện Bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bảo tồn 1 lọ hoa lam Việt Nam đã được sản xuất từ Việt Nam hồi thế kỷ XV, thế kỷ XVI.
Lọ ấy mang chữ Hán như sau: Thái hòa bát niên nam sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý bút. Mười ba chữ Hán nói trên có nghĩa là: Năm 1450, một người thợ tên là bà (cô) Bùi Thị Hý ở Nam Sách châu vẽ hoa văn trên lọ.
Theo tôi biết thì thời Việt Nam thuộc nhà Minh chia nước Việt Nam thành 17 phủ (tổ chức hành chính), trong đó có Lạng Giang phủ. Lạng Giang phủ có 3 châu là Lạng Giang châu, Thượng Hồng châu và Nam Sách châu. Trong Nam Sách châu có 3 huyện là Thanh Lâm huyện, Chí Linh huyện và Bình Hà huyện. Có nghĩa là phạm vi của Nam Sách châu hồi đó là trung phần và bắc phần của tỉnh Hải Dương.
Dưới thời Vua Lê Lợi (Lê Thái Tổ) thì chia Việt Nam thành 5 đạo (Đông, Bắc, Tây, Nam, Hải Tây). Dưới thời Lê Nhân Tông thì tổ chức hành chính như thế nào, chúng tôi không có tư liệu để điều tra. Có lẽ không thay đổi tổ chức hành chính của hồi Lê Thái Tổ, vì lúc Vua Lê Nhân Tông tức vị mới được 2 tuổi.
Dưới thời Lê Thánh Tông thì đặt 12 đạo, trong đó có Nam Sách đạo và sau năm 1490, vua đó đã cải biến tổ chức hành chính và Nam Sách đạo đã trở thành Hải Dương xứ.
Vậy tôi muốn biết thời Lê Nhân Tông có Nam Sách châu không? Ở đâu? Bà (hay là cô) Bùi Thị Hý là người như thế nào? Học kỹ thuật vẽ trên gốm ở đâu? Hồi đó sản xuất gốm (lò gốm) đặt ở đâu?
Điều này rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử thủ công nghiệp và vai trò của đàn bà nói riêng.
Xin ông chỉ thị cho những chuyên gia nghiên cứu 13 chữ Hán nói trên và nếu có kết quả thì xin cho tôi biết qua Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội (hộp thư số 49 Hà Nội).
Hơn nữa nếu được thì xin giới thiệu cho tôi những chuyên gia khảo cổ học và mỹ thuật, nghệ thuật ở tỉnh Hải Hưng để trao đổi ý kiến với nhau.
Xin cảm ơn ông!
Nay kính
M.ANABUKI
Cán bộ Bộ Ngoại giao”.
Chiếc bình cực kỳ quý giá này được lưu giữ ở Bảo tàng Hoàng gia Topkapi, nguyên là một cung điện cực kỳ nguy nga lộng lẫy của Thổ Nhĩ Kỳ được xây dựng vào năm 1465 - 1487, một biểu tượng kỷ nguyên vàng nằm trong thành phố Istanbul cổ kính nguy nga và tráng lệ của các hoàng đế Ottoman. Chiếc bình gốm hoa lam quý giá này được mua bảo hiểm với giá 1 triệu USD chứng tỏ nó không chỉ là bảo vật của Thổ Nhĩ Kỳ mà còn là của cả ngành gốm thế giới.
Chiếc bình triệu đô ở bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ.
Lúc ông Anabuki tham quan, nó vẫn được chú thích một cách rất hồn nhiên là gốm của Trung Quốc (TQ). Sự hồn nhiên đó cũng có lôgíc ở chỗ TQ là cái nôi của gốm sứ thế giới và những chữ in trên bình là chữ Hán. Tuy nhiên, ông Anabuki đã ngờ ngợ khi đọc 13 chữ Hán kia và quyết tâm tìm ra ngọn nguồn của Nam Sách châu là ở đâu? Bùi Thị Hý là ai? Cuối cùng, sau khi tra nát sử sách, ông mới biết Nam Sách châu ở Việt Nam. Vốn là một người có cảm tình với xứ sở hình chữ S, ngay từ hồi bao cấp phong tỏa gắt gao nhất, ông vẫn viết thư cho Bí thư Ngô Duy Đông với một hy vọng lấp ló cuối đường hầm.
Thông tin từ người Nhật như một tia sáng mạnh từ phương xa dội về khiến ông Bí thư nổi tiếng một thời Ngô Duy Đông, người nổi tiếng là thân dân và có tư duy cải cách nông nghiệp như Bí thư Kim Ngọc của Vĩnh Phú không thể ngồi yên.
Năm 1983, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hải Hưng, đề án nghiên cứu nghề cổ truyền gốm sứ mà đặc biệt là gốm Chu Đậu được tiến hành. Qua sự nghiên cứu, điền dã, sưu tầm và nhiều lần khai quật của Bảo tàng Hải Dương cùng các cơ quan chức năng ở trong nước cũng như ở nước ngoài đã làm phát lộ một trung tâm gốm mỹ nghệ cao cấp với hàng ngàn mẫu mã gốm Chu Đậu như bát, đĩa, bình lọ cùng những dụng cụ sản xuất như bao nung, con kê, lò đốt...
Tựa như nàng công chúa ngủ trong rừng được đánh thức, những gì tinh túy nhất của mấy trăm năm trước từ trong lòng đất Chu Đậu bỗng một ngày tỉnh dậy, rủ rỉ kể chuyện xa xăm. Sự kiện này làm kinh ngạc các nhà sử học, khảo cổ học, học giả trong và ngoài nước và cũng làm sửng sốt ngay cả với người dân làng Chu Đậu.
Thì ra gốm Chu Đậu đã lưu lạc đến 32 nước trên thế giới - đến nay còn nhiều vạn cổ vật quý giá đang được lưu giữ ở khắp các châu lục, có mặt ở 46 bảo tàng danh tiếng trên thế giới từ châu Á sang châu Âu. Hàng loạt sự kiện tiếp theo của dòng gốm này làm bàng hoàng cả giới sưu tầm, nghiên cứu gốm sứ toàn cầu. Gốm cổ Chu Đậu được trục vớt từ những con tàu đắm ở dưới đáy biển Việt Nam (Cù Lao Chàm, Hòn Dầm, Hòn Cau, Bình Thuận và Cà Mau).
Đặc biệt là con tàu đắm ở Cù Lao Chàm - Đà Nẵng. Với 18 nước hợp tác trục vớt trong 2 năm (1998 - 2000) đã trục vớt được từ trong con tàu đắm này hơn 40 vạn cổ vật gốm sứ Chu Đậu từ thế kỷ XV. Trong hơn 40 vạn cổ vật đó có 27 vạn cổ vật còn lành, ngoài phần lưu lại cho Việt Nam 10% thì 24 vạn cổ vật mà tập đoàn trục vớt được đã mang về San Francisco và Los Angeles ở Mỹ để bán đấu giá. Theo số liệu thống kê của nhà bán đấu giá ở Mỹ, cổ vật giá thấp nhất cũng không dưới 1.000 USD, có chiếc bình gốm tỳ bà cổ Chu Đậu cao 24cm được các nhà sưu tầm kiên quyết tranh mua, đẩy giá lên tới 512.000USD.
Chiếc đầu rồng trấn yểm của bà Bùi Thị Hý.
Có thể nói con tàu đắm này là một kho báu, quảng bá cho tinh hoa văn hóa xứ Đông nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung ra toàn thế giới. Nói như bà Dessa Godard - Giám đốc ngành nghệ thuật châu Á của Tập đoàn đấu giá Befterfields tại San Francisco rằng: "Việc phát hiện dòng gốm Chu Đậu, đang trả lại cho Việt Nam một chương trong di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ đã hoàn toàn biến mất".
Mấy chục năm với những bằng chứng được coi là chấn động, đảo lộn mọi suy nghĩ về gốm sứ của thế giới, buộc nhiều nhà nghiên cứu gốm sứ nhất loạt phải chắp tay thốt lên rằng: "Nhất sứ Giang Tây (TQ), nhất gốm Chu Đậu". Nhất - ở đây là hàng đầu, là đỉnh cao của thế giới. Một sự so sánh quả thực trước đó kể cả những người bạo gan nhất của ngành gốm sứ Việt Nam cũng chẳng bao giờ dám mơ giữa ban ngày.
Tuy nhiên, mấy chục năm sau bức thư của ngài Anabuki, việc tìm ra chủ nhân của chiếc bình hoa lam mà nói rộng là một trong những sư tổ của nghề gốm Chu Đậu vẫn không khác gì “mò kim đáy bể”. Mười ba chữ Hán trên chiếc bình hoa lam cứ như một mật mã khó hiểu, đánh đố giới khoa học dù ngay trong lá thư này, ông Anabuki đã dịch rằng, đấy là một phụ nữ, tên là Bùi Thị Hý tạo tác. Ông đề nghị các nhà khảo cổ học và nghiên cứu nghệ thuật cho biết tiểu sử của bà Bùi Thị Hý, người học nghề làm đồ gốm ở đâu mà sáng tạo nên tác phẩm xuất sắc như vậy. Ông cũng không quên nhắc rằng đây là vấn đề quan trọng về thủ công nghiệp và thương nghiệp của Việt Nam ở thế kỷ XV, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ. Tuy nhiên, các nhà khoa học ở ta lại nghĩ theo một xu hướng khác hẳn.
Theo ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương, trước khi nhận được lá thư của ông Anabuki, các nhà sử học trong tỉnh đã sưu tầm được nhiều đồ gốm hoa lam và men đa màu lưu ở kho bảo tàng tỉnh từ những năm 60 của thế kỷ XX. Hiện vật tương tự cũng có ở một số bảo tàng trong nước, trong đó không ít tác phẩm của Đặng Huyền Thông, ghi rõ quê quán, ngày tháng năm sản xuất, nơi đặt hàng, người đặt hàng, hầu hết tập trung vào đời Mạc Mậu Hợp (1563 - 1593) nhưng trong nhiều năm vẫn chưa tìm ra nơi sản xuất.
Nhận được thông tin từ Anabuki do Tỉnh ủy chuyển đến, việc nghiên cứu mới thực sự tích cực, nhất là từ khi Ban Thông sử Hải Hưng thực hiện chuyên đề Nghề cổ truyền. Đây là cơ hội để tìm di chỉ sản xuất đồ gốm cổ. Sau 10 năm điền dã, nghiên cứu, kết quả là không chỉ tìm ra trung tâm gốm mỹ nghệ Chu Đậu mà tới 14 trung tâm khác trên địa bàn Hải Hưng khi đó... Tuy nhiên, để giải mã 13 chữ Hán trên bình gốm hoa lam nói trên, phải mất đằng đẵng ngót 30 năm...
Nam Sách châu do nhà Minh đặt liệu còn tồn tại đến niên hiệu Thái Hòa (1443 - 1453), khi mà sau kháng chiến chống Minh, Lê Lợi đổi hai phủ Lạng Giang và Tân An, nguyên là Lộ Hồng và Nam Sách thời Trần thành Đông đạo? “Đại Nam nhất thống chí” cho biết, đến đời Diên Ninh (1454-1459) mới đổi thành Nam Sách Thượng Hạ Lộ. Vậy thời Thái Hòa vẫn tồn tại Nam Sách châu. Như vậy 9 chữ đầu đã được giải mã và khẳng định tác giả viết đúng niên hiệu và địa danh đương thời. Đặc biệt hóc búa là 4 chữ cuối: "Bùi Thị Hý bút", nhiều học giả hiểu rất khác nhau. Đó quả thực là một cái bẫy. Ngôn ngữ vốn nhiều nghĩa trong những ngữ cảnh khác nhau, nhất là chữ Hán nên nhiều học giả nổi danh vẫn bị sa bẫy như thường.
"Bùi Thị Hý bút" phần lớn học giả ở Hà Nội, dịch là: Ông họ Bùi, vẽ chơi. Hồi mồ ma một giáo sư sử học họ Trần nổi tiếng, vị giáo sư này đã rất hùng hồn rằng phải đọc là Bùi Thị (tức là ông họ Bùi), phẩy, hý bút (tức là vẽ chơi), như thế mới tường minh!
Những cổ vật liên quan đến bà Bùi Thị Hý
Lại có nhiều học giả lập luận cũng rất thuận tai rằng thời phong kiến nhất là ở thế kỷ XV nạn trọng nam khinh nữ vô cùng khắc nghiệt nên phụ nữ không có tên tục mà chỉ có tên hiệu, cũng chẳng ai là phụ nữ mà dám "ký tên" lưu danh mình trên những sản phẩm buôn bán cả.
Lắm luận văn tiến sĩ khảo cổ học, nhiều sách chuyên khảo về gốm sứ, đến nay vẫn để nguyên như thế. Ngược lại, các nhà sử học địa phương mà tiêu biểu là ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương hiểu khác. Cách hiểu khá tương đồng với ông cán bộ ngoại giao Nhật, đã dịch là: Bùi Thị Hý vẽ.
Cơ sở của nó theo ông Hoành trong lịch sử dù hiếm, vẫn tìm được không ít phụ nữ được ghi tên trên đồ gốm, với tư cách là tác giả. Để gây chú ý về vấn đề này, cánh ông Hoành giới thiệu lại sự kiện trên tại tạp chí Khoa học và ứng dụng của Liên hiệp Hội khoa học Hải Dương vào tháng 5/2005 những mong cầu một chiếc chìa khóa hé mở cánh cửa bí mật
Kỳ II: Chiếc “chìa khóa vàng”
Khi đó ông Tăng Bá Hoành – Chủ tịch Hội sử học Hải Dương nhận được 7 trang gia phả của gia tộc nữ tài Bùi Thị Hý, ở trang Quang Ánh, huyện Gia Phúc, nay là thôn Quang Tiền, xã Hồng Quang, huyện Gia Lộc (Hải Dương) do ông Bùi Xuân Nhạn và Bùi Đức Lợi là hậu duệ cung cấp. Dưới đây là bản dịch: “Tháng giêng, đầu xuân, năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932), hậu duệ 13 đời của họ Lý trưởng Bùi Đức Nhuận, sao y như bản cổ, thủy tổ là Bùi Đình Nghĩa, nguyên ở ẩn ở đất Minh Ngọc, Nam Xang, Bình Lục, Hà Nam, sinh năm Đinh Mão, thời Trần Đế Hiện Đại Vương, niên hiệu Xương Phù 11 (1387). Ông là con tướng quân Bùi Quốc Hưng, người phù tá Lê Thái Tổ bình giặc Ngô (Minh), nguyên quán ở làng Cống Khê, tổng Bột Xuyên, huyện Chương Đức, tỉnh Sơn Tây, nhập cư làng Quang Ánh năm Đinh Hợi, thời Trần Giản Định Vương, niên hiệu Hưng Khánh thứ nhất (1407).
Ông bà sinh 2 người con tại Quang Ánh: Con thứ nhất là Bùi Thị Hý, không có con nối, bà là người thợ có tài làm bình gốm. Con thứ hai là Bùi Đình Khởi, sinh năm Quý Mão, thời Bình Định Vương, năm thứ 1423. Thủy tổ Bùi Đình Nghĩa là người có chí lớn, dũng cảm, có tài phi ngựa, nổi tiếng mưu trí. Khi đất nước có biến, tổ phụng sự tổ quốc, tòng quân, khi lâm trận thì đi đầu đạo quân, khi vỡ trận thành Đông Quang, người chiến đấu oanh liệt, hy sinh lẫm liệt, về sau không tìm được mộ táng. Thủy tổ có công lớn trong chiến trận, sau được Lê Thái Tông điểm công danh, ban lộc quan điền 55 mẫu… Thuyết tích họ Bùi, trang Quang Ánh có nghề cổ làm sành sứ lâu đời, khởi nghệ là nữ tài Bùi Thị Hý. Bà là người có tài văn chương, chữ đẹp, kỳ tài về họa. Bà cải trang làm nam giới, thi tới tam trường, phạm quy, bị quan trường đuổi. Sau bà lấy chồng ở huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách nhưng không có con.
Đĩa gốm Chu Đậu với 9 con rồng, biểu tượng cho 9 đời vua Nhà Lý
Người phụ nữ tài năng có nhiều con đường tiến thân, bà có nghề cùng với chồng là ông Đặng Sĩ, một chủ lớn về trang Quang Ánh vào năm Thái Hòa thập niên (1452) cùng em trai là Bùi Khởi chiêu tập người làm thuê, dựng lò, ở bắc trang, nơi ấy thuận đường thủy, gần sông Định Đào, giao thương với châu Nam Sách, chế tác những sản phẩm đặc biệt, cống hoàng triều, xuất cho nhiều thương nhân nước ngoài như: Trung Quốc, Nhật Bản, phương Tây, trao đổi gấm vóc, gỗ rừng, cá, gạo, vàng bạc. Từ đấy, nghề thịnh đạt, năm này qua năm khác tài lộc tăng nhiều, gia đình họ hàng giàu mạnh, cùng nhau khởi dựng trang. Đến thời đất nước loạn lạc, bọn hung tặc triệt phá, con cháu xiêu tán, không thể tác nghiệp, nghệ vinh suy vong, nghề hết”.
Gia phả viết gọn, súc tích, chính xác về năm tháng. Từ gia phả trên mà biết được lý lịch của người phụ nữ đặc biệt này từ gia cảnh, lịch sử, đặc biệt là học vấn, nghề nghiệp gốm sứ, tình hình giao thương vượt biển thế kỷ XV. Người lập gia phả cực kỳ trân trọng khi gọi Bùi Thị Hý là nữ tài. Gia phả viết năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932), do cụ Bùi Đức Nhuận, cháu 13 đời, trưởng chi 3, sao từ một gia phả cổ. Vậy gia phả cổ liệu có còn?
Ngày 27/6, gia đình họ Bùi lại đem đến cho Hội Sử học đọc vài trang của gia phả cổ, viết năm Minh Mệnh 13 (1832) tức trước bản sao một thế kỷ, viết trên lụa. Đây là tư liệu rất quý, xác định cho sự chính xác của bản sao. Gia phả thứ hai này cho biết năm sinh (1420) của nữ tài Bùi Thị Hý và cho biết những tư liệu này sao từ một gia phả xưa và từ tấm bia cổ. Vậy một tấm bia cổ này nay liệu còn? Cuộc truy tìm cứ thế mà diễn tiến. Ông Hoàng nhớ lại: “Từ những dữ liệu này, chúng tôi suy ra một số vấn đề. Bà Bùi Thị Hý thi đến tam trường, phải chăng đây là kỳ thi tiến sĩ? Vậy kỳ thi tiến sĩ ấy vào năm nào? Từ năm 1442 đến 1450, khi bà đã là nghệ nhân làm gốm chỉ có hai khoa thi: Nhâm Tuất (1442) và Mậu Thìn (1448). Người phụ nữ thời phong kiến 29 tuổi đã yên bề gia thất từ lâu. Vậy bà chỉ có thể dự kỳ thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê sơ (1442). Kỳ thi này Nguyễn Trãi làm độc quyển. Một người có tri thức và biết tài làm đồ gốm như bà thì không thể chỉ có một mình văn (chữ viết) trên đồ gốm, có thể có nhiều mà nay chưa biết”.
Ngày 12/8/2006, nhân ngày giỗ thứ 507 của bà, Hội Sử học Hải Dương, kết hợp với UBND huyện Gia Lộc và xã Đồng Quang tổ chức hội thảo về nữ tài Bùi Thị Hý qua di vật ở nước ngoài và 2 cuốn gia phả của họ Bùi nhằm bước đầu khẳng định vai trò của bà và những chủ nhân gốm Chu Đậu, đồng thời thúc đẩy việc tiếp tục sưu tầm những di vật có liên quan. Các nhà khoa học đã nhắc nhở hậu duệ của bà và Bảo tàng tỉnh phải đặc biệt quan tâm đến những di vật có chữ Hán còn lưu trong gia đình và địa phương, nhất là đồ gốm, đồ gỗ, bia ký và sách vở xưa.
Nậm rượu hình rồng (Gốm Chu Đậu)
Công việc này được anh Bùi Đức Lợi là hậu duệ đời thứ 15 đặc biệt quan tâm và nhiệt tình sưu tầm. Sự tha thiết với tổ tiên của bậc cháu chắt ấy đã gặp những may mắn hiếm thấy. Sau một năm chờ đợi, ngày 16/5/2007 anh Lợi tìm được con nghê ở lò gốm cổ, nơi mà gia phả nơi là do Đặng Sĩ xây dựng năm Thái Hòa thập niên (1452), cao 22cm, dài 27cm, đế rộng 6,5cm, phía đuôi có chữ viết, mang cho các nhà sử học nghiên cứu. Hình dáng cũng như chất liệu của con nghê này không có gì lạ vì có một số hiện tượng tương tự ở những hố khai quật tại Chu Đậu và làng Cậy, điều quan trọng là 2 dòng chữ: “Quang Thuận nhất niên, Quang Ánh trang, Bùi Thị Hý tạo”, có nghĩa: hiện vật do Bùi Thị Hý, ở trang Quang Ánh, tạo vào năm Quang Thuận thứ 1460.
Đây là di vật vô cùng quan trọng để xác định vai trò của nữ tài Bùi Thị Hý, dù là các đại nho cũng không thể dịch là ông Bùi nào đó tạo chơi được! Nhưng vẫn may không dừng lại ở đó. Ngày 10/7/2007, anh Lợi lại mang cho các nhà khoa học chiếc đĩa còn sống men, vốn là một phế phẩm được người xưa loại bỏ ngay ở chân lò chứ không đưa vào buôn bán. Đĩa có đường kính trôn 14cm, chân cao 0,7cm, tạo dáng một bông hoa 12 cánh, hoa văn khắc chìm theo truyền thống Lý Trần. Giữa đáy có bông hoa 9 cánh, trong đường tròn đường kính 9cm. Trên sườn khắc hoa cúc liên hoàn, rất tinh tế, tỉa kỹ từng gân lá. Xương gốm vàng nhạt, hơi thô, men chưa chín nên thô ráp, chưa phản quang. Phía ngoài để trơn. Trôn quét sơn nâu nhạt. Đĩa này nếu nung chín sẽ có màu xanh nhạt, dễ nhầm với gốm Lý Trần. Hiện vật tương tự đã được ở lò Thanh Khơi (Trùng Khánh, Gia Lộc) ở Chu Đậu. Đặc biệt, dưới trôn của hiện vật này viết theo đường tròn sát đĩa 18 chữ Hán nét mảnh. (Diên Ninh nhất niên, Gia Phúc huyện, Quanh Ánh trang, tỷ Bùi Thị Hý, đệ Bùi Khởi tạo). Có nghĩa là: vào năm Diên Ninh thứ nhất (1454), tại trang Quang Ánh huyện Gia Phúc, chị là Bùi Thị Hý, em là Bùi Khởi tạo (chiếc đĩa này). Các hiện vật này chúng ta có thể biết được khả năng mỹ thuật của của nữ tài trên 3 loại hình: vẽ (hoa lam trên bình ở Thổ Nhĩ Kỳ), điêu khắc (con nghê-1460 và sau là con rồng lớn ở ngã ba sông Định Đào), và khắc chìm (trên đĩa-1454).
Tiếp đó, anh Lợi lại lễ mễ mang cho các nhà sử học chiếc mâm đồng đã han gỉ, đường kính 48cm, cháy một phần ở phía ngoài. Chiếc mâm vốn là đồ gia bảo, do bố anh Lợi cất giữ, thời chạy giặc Pháp, ngôi nhà xưa của gia đình bị đốt phá, chiếc mâm đồng bị một mảng tường đè lên, phía ngoài lửa liếm cháy nham nhở nhưng bên trong chữ còn nguyên vẹn. Sau khi cọ rửa và xát phấn, Hội Sử đếm có 18 dòng, gồm 379 chữ, trong đó có một số chữ nôm. Đây là một bản sao bia mộ chí, có những thông tin vô cùng quý.
TS Nguyễn Đình Chiến – Bảo tàng lịch sử Việt Nam: “Gốm hoa lam xuất hiện đầu tiên tại Việt Nam ở đời Trần qua hiện vật phát hiện trong con tàu đắm thế kỉ XIV mà ngư dân Cà mau vớt được. Đến hiện vật của con tàu đắm tại Cù Lao Chàm là một phát hiện hết sức độc đáo bởi xuất hiện nhiều đồ gốm khớp với dòng gốm Bát Tràng, gốm Thăng Long, tất nhiên ở đó Chu Đậu vẫn chiếm đa số. Về việc giải mã mười mấy chữ Hán trên bình Hoa Lam tại Thổ Nhĩ Kỳ tôi vẫn nghiêng về cắt nghĩa chữ Bùi Thị Hý nghĩa là ông Bùi nào đó vẽ chơi chứ không phải Bùi Thị Hý là nghệ nhân nữ có tên Bùi Thị Hý”. |
Việc khắc văn bia mộ chí vào mâm đồng không phải có nguồn gốc ở Việt Nam mà từ thời Thương Chu ở Trung Quốc (thế kỷ IX trước CN) người ta đã ghi tiểu sử nhà vua thứ năm của nhà Chu vào một mâm đồng, chôn trong huyệt mộ, người Trung Quốc gọi là bàn sử (sử viết trên mâm). Các nhà sử học khôi phục toàn bộ văn bản như bản gốc và bản phiên dịch.
Bản dịch mặt trước bia đá: “Mộ người vợ kỳ tài họ Bùi, tên húy là Hý”. Hai dòng bên phải bia ghi: “Ngày 10 tháng 10 năm Cảnh Thống Nhâm Tuất (1502), phu quân (chồng) là Đặng Phúc lập bia. Phu nhân, sinh năm Canh Tý (1420), thời Bình Định Vương Lê Lợi”. Dòng bên trái bia ghi: “…Sau Đặng Sĩ (chồng trước) cùng những người làm thuê gặp nạn, chết ở biển Đông. Phu nhân tái giá lấy đại gia Đặng Phúc, người trang Chu (Đậu). Phu nhân là một trang nữ tài võ, thông văn, làm chủ thương đoàn (đi) Nhật Bản, Trung Quốc, phương Tây, đến nước ngoài buôn bán đặc phẩm (gốm sứ).
Thật buồn thay, phu nhân kỳ tài làm bình gốm mà lại không con. Sau về trang Quang Ánh, hưng công làm chùa, đình làng, làm thí chủ xây dựng nhà thờ họ; hưng công bắc cầu đá Đôn Thư, Lâm Kiều (ở bản huyện). Đến đêm 12, tháng 8 năm Kỷ Mùi (1499), trời đất cuồng phong, mưa gió, sấm chớp. Lạ thay, phu nhân nằm trong bình phong mà phát ra ánh sáng hồng như con rồng bay lên. Đoạn phu nhân hóa. Sau rất thiêng, ai có tâm cầu cúng, tất hiển ứng”. Chú dẫn: Khi thời thế thay đổi, bia cổ huyệt tổ cô giữ ở đất thiêng, cấm chỉ mọi vi phạm”.
Bình chim Phượng (Gốm sứ Chu Đậu) Gia phả chỉ cho biết bà lấy đại gia Đặng Sĩ, còn sau đó thế nào không rõ. Bia cho biết, ông Đặng Sĩ một lần chỉ huy đoàn tàu vượt biển buôn bán, gặp nạn, chết ở biển Đông cùng với thủy thủ đoàn. Sau đó bà tái giá lấy ông Đặng Phúc, một ông chủ lò gốm Chu Đậu. Bà thành chủ thương đoàn, vượt biển buôn bán với nhiều chuyến đi Trung Quốc, Nhật Bản và Tây phương bán đồ gốm. Chi tiết này vô cùng quan trọng về ngoại thương của Việt Nam ở thế kỉ XV.Các nhà nghiên cứu kinh ngạc ở chỗ, trước họ nghĩ hàng hải Việt Nam xưa kém phát triển, chỉ có những thuyền thúng, thuyền mủng hay thuyền gỗ nhỏ loanh quanh gần bở gần vụng chứ ít dám nghĩ đến thương thuyền lớn với bộ sậu buồm, chèo khổng lồ có khả năng vượt biển Đông đến các quốc gia khác. Khi quan sát những sản phẩm gốm Chu Đậu có vẽ các chi tiết tàu vượt biển, họ thường đinh ninh đó là những hình ảnh do thủy thủ nước ngoài kể lại cảnh mình hay gặp trên biển cho thợ gốm Việt Nam nghe, sau đó các nghệ nhân ta tưởng tượng rồi vẽ lại.
Qua tư liệu này, có thể nói, đó là hình ảnh trực quan của thủy thủ và thương nhân Việt Nam trên đường vượt biển, buôn bán với nước ngoài, trong đó có nghệ nhân Bùi Thị Hý “kể” về những sóng gió, vất vả khi bôn ba cùng những con sóng bạc đầu, những trận cuồng phong thịnh nộ của biển cả hay những quái thú, quái ngư của ngàn khơi. Điển hình là một đĩa hoa lam đường kính 36cm, hiện lưu giữ trong một bộ sưu tập ở Adilaide, Nam Úc. Lòng đĩa vẽ tích khá đặc biệt, 2 thuyền lớn, trên đường vượt biển, gặp gió lớn, buồm đã hạ xuống, trên mặt sóng xô dữ dội, có 3 thủy thủ rơi xuống nước, trong đó có 1 người đang bị một con cá khổng lồ đã nuốt đến thắt lưng. Cảnh tượng xám xịt một màu bi ai.
Nguồn: 24.com.vn