Tạp chí Văn của Hội Nhà văn TP. HCM số 19/ tháng 9-10 năm 2004 có đăng bài “Không thể lẫn lộn Tự Đức và Cao Bá Quát” của tác giả Hoàng Hương Trang (H.H.T). Theo chúng tôi, đây là bài viết có nhiều nhầm lẫn về tư liệu văn học liên quan đến Cao Bá Quát cần thiết phải có những đính chính.
Lâu nay viết về Cao Bá Quát các tác giả thường vấp phải sai lầm về tư liệu trích dẫn từ thơ văn Cao Bá Quát, lý do là chưa có công trình văn bản học nào tương đối hoàn chỉnh về tác phẩm Cao Bá Quát được công bố, lý do khác nữa là những đính chính lẻ tẻ trên báo chí thường không được chú ý đúng mức. Những ngộ nhận về tính cách Cao Bá Quát thường do giai thoại được thêu dệt xung quanh tác gia này đem lại (xấc xược, kiêu căng, ngạo mạn, cho mình là thơ hay nhất, chê tất cả mọi người, chê bai không từ một ai, ngang tàng, cao ngạo, khinh đời, không nể nang ai… như tác giả H.H.T đã khẳng định) chúng tôi tạm không bàn đến. Đôi điều nhầm lẫn cần lưu ý từ bài viết nói trên là:
1. H.H.T viết: “Vua Tự Đức đã từng có câu đối trước điện Cần Chánh được cả triều đình khen hay:
“Tử năng thừa phụ nghiệp,
Thần khả báo quân ân” (tr. 121).
Sự thực thì câu đối này, hoặc tương tự như thế, chưa từng có ở Huế. Giai thoại kể về Cao Bá Quát gắn với câu đối này lần đầu xuất hiện trên báo chí có lẽ từ bài viết “Một nhân vật tỉnh Bắc Ninh: Ông Cao Bá Quát” của Nguyễn Tường Phượng trên tạp chí Nam phong số 209, tháng 12-1934. Sáu năm sau, giai thoại trên được Trúc Khê ghi lại trong Cao Bá Quát danh nhân truyện ký (Tân Dân, in xong ngày 30-10-1940) nhưng có chút khác biệt: vua Thiệu Trị, người bảo Cao Bá Quát sửa lại câu đối, hoá thành vua Dực Tôn. Về sau, giai thoại này tiếp tục được ghi lại trong Khảo luận về Cao Bá Quát của Doãn Quốc Sỹ và Việt Tử (Nam Sơn, 1959), và gần đây trong Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, sách phê bình, bình luận văn học do Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn (Văn Nghệ, TP. HCM, 1994)… Thật ra, từ tháng 5-1940, trước cả Trúc Khê, trên Trung Bắc Chủ nhật số 13, tác giả Sở Bảo đã viết bài “Râu nọ cằm kia”, than phiền rằng “Kẻ nào đã nhận vơ mấy món ấy bỏ vào kho quốc văn của mình”, và chỉ ra đây không phải giai thoại về Cao Bá Quát mà là về ông Khâu Văn Trang, một vị danh thần đời Minh, có ghi trong Hải Nam nhân vật chí của Trung Quốc. Có điều câu đối trước khi được chữa là “Tử đương thừa phụ nghiệp/ Thần khả báo quân ân”, và sau khi được chữa là “Quân ân thần khả báo/ Phụ nghiệp tử đương thừa” chứ không phải Phụ nghiệp vẫn còn đứng trên Quân ân như H.H.T đã nói. Câu đối ở đây có một chữ khác biệt là chữ năng vốn viết là đương(1).
2. H.H.T nhắc lại giai thoại cho rằng Cao Bá Quát sáng tác câu thơ:
Ngán thay cái mũi vô duyên,
Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An
để chê thơ của Mặc Vân thi xã. Trên thực tế không thể có chuyện này. Thi xã Mặc Vân H.H.T nói ở đây chính là Tùng Vân thi xã (có tài liệu ghi là Mạc Vân thi xã), do Tùng Thiện vương Miên Thẩm (con thứ 10 của vua Minh Mệnh) hiệu là Thương Sơn sáng lập và cầm đầu(2) (có tài liệu nói người sáng lập còn là Tuy Lý vương Miên Trinh và Tương An Quận vương Miên Bửu, em ruột của Miên Thẩm (3)). Một vài nhà nghiên cứu đã dựa vào thơ văn Miên Thẩm (1819-1870) để chứng minh tình bạn thắm thiết giữa Cao Bá Quát và Miên Thẩm đã hình thành từ rất sớm, chậm nhất cũng là những tháng đầu tiên khi Cao Bá Quát bước chân vào chốn quan trường ở Huế. Bằng chứng là, Miên Thẩm viết bài thơ Đề Cúc Đường thi hậu(4), nói lên lòng cảm thương bạn đang chịu nỗi oan khuất, khen khí tiết bạn như cây bách, cây tùng trong khi Cao Bá Quát đang bị tù vì vụ trường thi năm 1841(5). Miên Thẩm còn viết bài Tặng Cao Bá Quát, trong đó có câu “Ngày ngày thương bạn phương Nam ngóng; xá tội mong sao chóng phản hồi” (Giao tình vị nhĩ ân Nam cố; nhật nhật kim kê vọng xá tần), khi Cao Bá Quát bị đày đi hiệu lực ở Giang-lưu-ba “khoảng 1843-1844”(6). Điều này đủ để phủ định giai thoại cho rằng Cao Bá Quát nhờ phê bình thơ của thi xã Tùng Vân(7) (cũng gọi Mặc Vân, thành lập khoảng 1848-1850(8)) mới được sự chú ý và mến trọng của Miên Thẩm. Về người giữ cương vị nguyên súy của thi xã Mặc Vân, theo H.H.T đó là Tự Đức (tr.121). Tuy nhiên chúng tôi không thấy tài liệu nào nói Tự Đức từng giữ cương vị này, mặc dù Tự Đức có mở một hội thơ năm 1871(9). Theo một số nhà nghiên cứu, người được bầu làm minh chủ (tức người đứng đầu, người ) Thi xã Mặc Vân là Miên Thẩm(10).
3. Tác giả H.H.T viết: “Vua Tự Đức một hôm khoe với quần thần: “Hôm qua trẫm nằm mơ làm được một bài thơ…” mọi người đều khen hay, riêng họ Cao chê rằng “Bài ấy thần đã đọc từ khi còn để chỏm” (tr. 122). Ở đây không rõ H.H.T ám chỉ bài thơ nào. Nếu đó là bài thất ngôn bát cú mà mỗi câu chữ Hán đều có một từ nôm song tiết láy âm thì Tự Đức “nằm mơ” chỉ làm nổi có 2 câu, chứ không phải cả bài. Đó là cặp câu 3 và 4 trong bài thơ hoàn chỉnh do Cao Bá Quát ứng khẩu đọc lên, vì ông nhận là có nghe đến trước đây, từ hồi còn đi học, như sau:
Bão mã tây phong huếch hoác lai,
Huynh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
(bài thơ được Nguyễn Tường Phượng giới thiệu trong bài “Một nhân vật tỉnh Bắc Ninh: Ông Cao Bá Quát” trên tạp chí Nam phong số 209, tháng 12-1934, và dịch như sau:
Ngựa báu theo gió tây huếch hoác lại,
Huynh hoang người tự theo về.
Trong vuờn chim oanh học nói tiếng khề khà,
Ngoài nội hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân không nghe tiếng sương sa lộp bộp,
Tiết thu chỉ thấy mưa ướt bài nhài.
Khù khờ thơ giỏi nhiều người biết,
Khệnh khạng còn đem ra hỏi người tú tài)
Tuy nhiên, tác giả Thái Bạch trong bài “Xét lại nhà thơ Cao Bá Quát” cho biết: “theo cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, chắt của Tuy Lý Vương thì bài thơ ấy đã có trong tập bản thảo về thơ từ hồi trào Minh Mạng”(11). Nếu đúng như vậy, bài thơ trên không thể của Cao Bá Quát làm để trêu, hoặc xược, Tự Đức như nhiều tài liệu thường nói đến.
Nhận xét về tính cao ngạo của Cao Bá Quát, tác giả H.H.T viết: “Họ Cao thường cho mình là thơ hay nhất, chê tất cả mọi người, tất cả vua quan triều Nguyễn đã lắm phen bẽ mặt với ông, đó cũng chính là cái cớ để sau này ông lãnh những hậu quả đáng tiếc” (tr. 122). Điều này không liên quan đến tư liệu thơ văn, nhưng xét ra không được rõ lắm, cần được thảo luận thêm. Tác giả H.H.T muốn nói đến “hậu quả đáng tiếc” nào? Nếu nói Cao Bá Quát vì gây bất hoà với vua quan triều Nguyễn ở Huế nên lãnh hậu quả là bị đẩy đi Quốc Oai làm chức Giáo thụ thì điều này chưa hẳn đúng. Vì có đi Quốc Oai Cao Bá Quát mới có điều kiện gia nhập và trở thành người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương. Và nói như nhà nghiên cứu văn học sử Phạm Thế Ngũ, đây có thể là kết quả vận động nằm trong chương trình trù hoạch từ trước của Cao Bá Quát, nhằm thực hiện ý đồ to tát đã có tính toán(12). Nếu nói Cao Bá Quát bị bắn chết giữa trận, tam tộc bị tru di sau này là vì Cao Bá Quát kiêu căng cao ngạo cũng không đúng, mà là vì ông dám nổi dậy, lãnh đạo khởi nghĩa chống lại triều đình. Thực ra, Cao Bá Quát có tỏ ra cao ngạo, ngang tàng nhưng đó là với đám vua quan triều Nguyễn tài đức kém cỏi. Còn đối với nhân dân lao khổ ông luôn tỏ lòng thương xót, cảm thông. Giới nghiên cứu từ nửa thế kỷ nay nhìn chung đều thống nhất điểm đó.
10-2004
CHÚ THÍCH
1. Vì thấy nhiều ấn phẩm tiếp tục mắc phải nhầm lẫn nói trên, chúng tôi đã viết bài “Về một giai thoại được xem là của nhà thơ Cao Bá Quát” để một lần nữa khẳng định giai thoại cùng câu đối này không thuộc về Cao Bá Quát (Kiến thức ngày nay số 299, ngày 20-11-1998, tr. 72-73).
2. Xem Mai Trân, “Hai bài thơ của Miên Thẩm về Cao Bá Quát”, tạp chí Văn học, Hà Nội, số 6, 1964, tr. 76).
3. Chẳng hạn, Lại Nguyên Ân, Từ điển văn học Việt Nam - từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tái bản lần thứ ba, 2001, tr. 399-402; Nguyễn Q. Thắng, Từ điển tác gia Việt Nam, Nxb. Văn hoá-Thông tin, 1999, tr. 1587 …
4, 5. Theo Lương An trong bài “Đề sau thơ Cúc Đường, một nhận xét đúng đắn và dũng cảm của Miên Thẩm đối với Cao Bá Quát”, bài thơ này được Miên Thẩm viết năm 1841 và được in vào tập Nhĩ Hinh, quyển 4, năm 1872 (tạp chí Văn học số 3, 1980, tr. 116-117).
6. Xem Mai Trân, bài đã dẫn. Theo bài viết này, bài thơ Tặng Cao Bá Quát của Miên Thẩm in trong Hoàng Việt phong nhã thống biên, ký hiệu A. 1798, là tuyển tập thơ văn chữ Hán của nhiều thi gia Việt Nam do Tự Đức sai biên soạn và in để làm tặng phẩm cho sứ bộ nhà Thanh do Lao Sùng Quang dẫn đầu sang phong vương cho Tự Đức năm 1849 (Bđd., tr. 76).
7. Xem Trần Thanh Mại, Tuy Lý Vương (Lịch sử ký sự), Ưng Linh xuất bản, Huế, 1938, tr. 49-50; Trúc Khê trong Cao Bá Quát danh nhân truyện ký, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1940, tr. 55-57.
8. Xem Mai Trân, Bđd., tr. 76.
9. Lại Nguyên Ân, Từ điển văn học Việt Nam, Sđd., Tr. 704.
10. Chẳng hạn, Trúc Khê trong Cao Bá Quát danh nhân truyện ký, Sđd., tr. 55; Vũ Ngọc Khánh trong Kho tàng giai thoại Việt Nam, Nxb. Văn hoá-Thông tin, Hà Nội, 2001, tr. 356-357...
11. Xem Thái Bạch, “Một nhà thơ cần phải xét lại - Cao Bá Quát”, Phổ thông tạp chí, Sài Gòn, số 156 (1-9-1965), tr. 57; “Xét lại nhà thơ Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, Sài Gòn, tháng 12-1972, tr. 24-25.
12. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, Nxb. Đồng Tháp tái bản (in lần đầu 1961), 1997, tr. 566.
Nguồn: Tác giả cung cấp