“Nam nữ thụ thụ bất thân”, “nam nữ khác nhau”, “nam nữ không ngồi cùng chiếu”, “em gái vợ không đến nhà anh rể” đều là những cấm kỵ nhằm tránh để những hành vi tính giao không chính đáng giữa nam và nữ có thể xảy ra; “trước nhà quả phụ thị phi nhiều”, vì vậy mà ngay cả đến con của bà quả phụ cũng “không gặp gỡ, chỉ làm bạn với Phật”; từ cấm kỵ mà nhìn nhận, thì việc giao tiếp qua lại giữa người và người đều phải qua một sự chọn lựa, tục ngữ nói rằng, “Qua ruộng dưa không nhặt dép, đến vườn mận không sửa mũ”, “bé trai không động đến lẵng đường mè, gái khuê không nhìn vườn dưa cải” đều tránh để người ta nghi ngờ cho rằng những hành vi của mình có động cơ không trong sáng. Loại kiêng kỵ này phát triển đến mức cực đoan, thậm chí đã đi đến mức thấy người chết mà không cứu, như “người hiền không tiến cử thầy thuốc, người khôn không dâng thuốc”, “không cứu người bị chết đuối”… Những điều này đã trở thành một loại chuẩn tắc về hành vi tự tư tự lợi về sau này.
Dân gian còn cho rằng, hoàn cảnh khách quan là một nhân tố quan trọng gây nên họa hoạn, nên ngoài những hành vi lương thiện của bản thân mình thì cũng phải chú ý đến sự chọn lựa trong khi kết giao qua lại với người. Tục ngữ cho rằng, “theo người tốt thì học theo người tốt, theo bà đồng thì học theo bà đồng”, “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, vì vậy mà cần phải kết giao với người tốt. Trong dân gian có kiểu nói rằng “thà là đánh lộn với người mặt đỏ, chứ không thèm nói chuyện với kẻ mặt vàng”, “mắt vàng tròng xanh, chớ kết giao tình”, tuy đó cũng chưa hẳn là điều khoa học, nhưng nó cũng phản ánh nguyện vọng giao kết với người tốt của dân gian. Kiêng kỵ, tránh xa vốn là một phương thức chủ yếu của cấm kỵ. Nếu như biết rằng cái gì đó ẩn chứa sự nguy hiểm, thì cần phải cắt đứt mối quan hệ với nó.
Trong quan hệ xã giao của con người, nếu như một bên bị bệnh, thì người không bị bệnh có khả năng hình thành sự uy hiếp đối với anh ta, hoặc giả, nói ngược lại, anh ta cũng có thể tạo nên những sự uy hiếp đối với người khác. Vì vậy, người bệnh cần phải chấm dứt hoặc cố gắng giảm thiểu quan hệ xã hội, nhằm tránh gây ra những nguy hại cho nhau. Các tộc Hán, tộc Miêu, tộc Ngõa, tộc Lạc Ba, tộc Dao, tộc Phổ Mễ, tộc Tạng, tộc Di, tộc Đồng v.v. đều có tập tục “kỵ cửa”, nghĩa là dùng những vật như nhành cây, cỏ, cờ, giày, vải đỏ, nón trúc… làm dấu hiệu lên cửa, cấm để người khác bước vào. Có một số người còn kết hợp với tín ngưỡng quỷ thần để giải thích cho tính thiết yếu của “kỵ cửa”. Tục xưa còn có tập tục đầu tháng âm lịch (ngày sóc) không tiếp khách. “Phong tục thông nghĩa” viết: “Sách địa chí nói rằng ‘tiếp khách vào ngày sóc tất có đánh nhau’”.
Người lớn tuổi cũng kỵ không ngủ lại, vì e rằng sẽ có chuyện bất trắc. Tục ngữ có câu: “Người bảy mươi tuổi không giữ lại qua đêm, người tám mươi tuổi không mời ngồi lại”. “Người bảy mươi tuổi không giữ lại dùng cơm, người tám mươi tuổi không giữ lại qua đêm”, đều chỉ ý nghĩa này. Trong việc kết bạn qua lại thì kỵ không qua lại với hòa thượng, đạo sĩ, ni cô. Tục ngữ nói “Cửa trước không để ni cô vào, cửa sau không để hòa thượng tới”, “Biết giao kết bạn bè, thì kết giao với thợ sắt, thợ mộc; không biết kết giao bạn bè thì mới kết giao với đạo sĩ, hòa thượng”, trong đó, ý nghĩa mà người ta tránh né chính là sợ phải nhận lấy điều tai bay va gửi. Đối với tộc người Băng Long thời xưa, trong thời gian săn thú, gieo mạ thì kỵ khách đến thăm, nếu không, người ta cho rằng có đi săn mà không có thú, có trồng mà mầm không mọc, thú và mầm cây đều bị linh hồn của người ngoài bắt đi mất. Đây chính là một niềm tin tập tục quy tội cho người khác, vì vậy, trong những trường hợp đặc thù này thì kỵ không qua lại bạn bè với người khác.