Người Ngạc Ôn Khắc cấm vợ chồng đổi áo nón cho nhau, nếu không thì việc săn bắt sẽ gặp nhiều bất lợi. Trong rất nhiều thần thoại truyền thuyết của dân gian, có chuyện về người phụ nữ bỗng dưng mang thai do đổi đồ phục sức giữa nam và nữ. Ở một vài địa phương của tộc người Hán, khi kết hôn, người ta để hai bên đổi dây thắt lưng cho nhau, cũng chính là với ý nghĩa tượng trưng cho sinh dục. Trong việc sản xuất, lao động cũng như thế. Người nam thì có công việc của người nam, người nữ thì có công việc của người nữ, nếu nam làm công việc của nữ và ngược lại nữ làm công việc của nam thì đều bị xem là phạm cấm kỵ. Nam giới của tộc người Cao Sơn Đài Loan thì không được tiếp xúc với những chiếc cuốc nhỏ, những đồ nông cụ, máy may và vòng dây lợn chuyên dùng của người nữ; và nữ giới cũng bị cấm không được tiếp xúc đến vũ khí, vật dụng săn bắn của nam giới, không được vào nơi sinh hoạt riêng của nam giới. Phụ nữ của tộc người Phổ Mễ không được phép cày đất, không được săn bắn và lấy mật ong, vì đó là việc của nam giới. Đàn ông tộc Tạng ở Thanh Hải không được làm những công việc trong nhà như nhặt phân trâu, ép dầu, cõng nước, mài miến xào, làm cơm v.v, vì cho rằng đó là công việc của phụ nữ. Đối với tộc người Ngõa, khi tiến hành đấu vũ khí với nhau giữa những người đàn ông thì phụ nữ không được tham gia. Nam thành niên nếu không tham gia thì bị tộc tục chỉ trách, không dung chứa, nếu nặng thì sẽ bị phạt bằng lúa, bằng tiền, thậm chí là tịch thu nhà. Trong tộc người Hán vẫn còn lưu truyền một câu tục ngữ “nam làm việc của nữ, càng làm thì càng nghèo”. Thời xưa, nam giới thường làm ruộng, và tham gia các hoạt động xã hội; còn phụ nữ thì thường làm những việc trong nhà, không được phép tham gia hoạt động giao tiếp xã hội. Người nam mà làm những công việc của phụ nữ thì thường bị chê cười, cho rằng “không ra gì”; còn phụ nữ mà tham gia các hoạt động giao tiếp xã hội thì bị chỉ trích rằng “khùng”, “hoang dã”, “không theo quy củ”, “không đứng đắn”.
Thời xưa, người Trung Quốc chủ trương rằng giữa nam và nữ cần phải tránh nhau, giữa họ thường thì không được nói chuyện, không nhìn nhau, không tặng quà cho nhau, nhằm phòng tránh để người khác dị nghị rằng sẽ phát sinh những hành vi tính giao. Tộc người Phổ Mễ thì cấm kỵ không cho đàn ông trêu đùa với các cô gái, không cho phép người ngoài ngồi chung một chiếc ghế dài với các cô; trong dân gian, tộc người Hán có câu tục ngữ rằng “nam nữ khi đến lúc bảy tuổi sẽ không được ngồi chung bàn tiệc với nhau”. Rất nhiều các tộc người khác như tộc Hán, tộc Thái, tộc Di, tộc Hani, tộc Choang đều có tập tục phụ nữ không lên bàn tiệc đãi khách. “Nam nữ không ngồi chung”, không chỉ giới hạn đối với nam nữ không quen biết nhau, mà giữa anh chị em ruột cũng như vậy. Đối với cô, chị em gái, con gái đã lấy chồng mà nay trở về thì anh em trai không được ngồi chung chiếu, không được ăn chung bát; không những khi ở những nơi riêng tư, mà ngay ở những nơi công cộng thì cũng phải như vậy. Mãi đến đời mạt Thanh, đầu đời Dân Chủ Cộng Hòa, ở nhà hát kịch vẫn còn chia riêng chỗ ngồi của nam và chỗ ngồi của nữ, nam và nữ khi đến thăm khách thì cũng ngồi chia ra hai bên, ngay đến vợ chồng cũng không ngoại lệ.
Từ sự phân biệt giới tính trên cơ thể đã dẫn đến những phân biệt về giới tính thể hiện trên y phục, quần áo nam nữ không được phơi chung trên một cây sào. Theo những ghi chép từ “Trung Hoa Trung Quốc phong tục chí”, người Sơn Tây có cách nói rằng “nam nữ bất mậu dịch” (nam nữ không trao đổi với nhau). Lời nói dùng giữa nam và nữ cũng phải hết sức cân nhắc, thường là không được đùa giỡn với nhau. Nam và nữ không được nhìn nhau, càng cấm kỵ không được chọc cười cho nhau, trong dân gian có lưu truyền câu tục ngữ “mày mắt đưa tình”, “người cười lơi lả, ngựa hý lả lơi”. Trước đây, khi phụ nữ tộc Tạng nhìn thấy Lạt Ma và khách khứa thì phải dùng đường đỏ và trà sữa đồ lên mặt, nếu không sẽ bị cho rằng để mặt trần là nhằm khêu gợi dâm dục, có ý mê hoặc tăng khách, tất sẽ bị phạt tội.
Thời xưa, thường thì phụ nữ không được tham gia những hoạt động nghề nghiệp của nam giới. Tộc người Thái (Đức Hoằng) cấm kỵ không cho phụ nữ tham gia khiêu vũ tập thể chung với nam giới, phụ nữ không được đụng đến nhạc khí; khi người nam nói chuyện, thì ngoài những người phụ nữ lớn tuổi ra, các cô gái trẻ tuổi không được nói chen vào. Thời xưa, tộc người Hán hạn chế rất nghiêm đối với việc phụ nữ tham gia những hoạt động ở bên ngoài nhà. Phụ nữ kỵ không được nhàn rỗi, kỵ việc qua nhà hàng xóm chơi. Như thế gọi là “đàn bà không rảnh rỗi, vách nhà không thông nhau”. Những người phụ nữ thường la cà qua nhà người khác chơi thì sẽ bị người khác chỉ trích, xem là loại phụ nữ không quy củ. Phụ nữ tộc người Miêu cũng không được la cà qua nhà người khác, vì cho rằng, khi đi qua nhà người khác thì sẽ đạp thần cửa của nhà người khác. Phụ nữ tộc người Dao khi ăn tết cũng không được la cà qua nhà người khác chơi, bảo rằng “ra khỏi cửa thì sẽ bị nhiều bệnh”. Trong dân gian, phụ nữ Quảng Tây “khi đi vào đi ra phải đội nón, không được để đầu trần, cũng không được để lộ mặt trần để khiêu dâm người khác”.
Ngoài những cấm kỵ hạn chế không cho phụ nữ tham gia những hoạt động xã hội, đối với lời ăn tiếng nói và hành vi của phụ nữ (tức cái gọi là phụ dung) cũng có rất nhiều cấm kỵ nghiêm ngặt. Thời xưa, khi đi đường thì phụ nữ bị cấm không được ngẩng đầu, ưỡn ngực, nếu không sẽ bị liệt vào dạng “đào hoa khắc phu”. Chỉ có đàn ông con trai mới được phép ngẩng đầu ưỡn ngực, còn phụ nữ thì phải cúi đầu đi bước nhỏ, tốt nhất là men theo tường mà đi để tránh đàn ông. Để đạt đến mục đích này, thời xưa, người ta sẽ đính lên mép quần hay trên đôi hài một vài cái chuông đồng, gọi là “cấm bộ”. Như thế, khi đàn bà con gái bước đi hơi rộng thì tiếng kêu leng keng sẽ vang lên, khiến họ sợ phải thất lễ mà phải đi chậm lại. Thời xưa, tộc người Hán yêu cầu phụ nữ phải “mắt không được nhìn xéo”, “nói chuyện không để lộ răng”, “khi đi ra ngoài không được để lộ mặt”. Về tư thế ngồi, tộc người Cảnh Pha cũng cấm phụ nữ không được nâng cằm khi ngồi, vì cho rằng đó là tư thế thương khóc, không tốt; khi phụ nữ ngồi, thì không được nhấc hai chân lên, vì cho rằng như thế sẽ không đẹp mắt; thời xưa, người ta cũng cấm kỵ không cho phụ nữ dạng hai chân ra khi ngồi. Không những hành động, cười nói bị câu thúc, mà ngay đến việc ngủ nghỉ cũng có cấm kỵ. Tục ngữ có câu “trai ngáy thì đồng ruộng tốt, gái ngáy thì phòng không”, tức là phụ nữ bị cấm kỵ không được ngáy.
Dân gian Trung Quốc luôn có quan niệm nam tôn nữ ty, “đàn ông đại trượng phu, đàn bà tiểu đậu phụ” là câu nói được lưu truyền trong những lời đồng dao mãi cho đến nay. Trên cơ sở của ý nghĩa này, trong dân gian càng có nhiều những tín điều cấm kỵ về việc nam dưới nữ trên hay nữ trên nam dưới. Ví dụ như đàn ông ở dưới lầu, thì phụ nữ không được lên lầu. Khi cần phải lên lầu thì nên ra hiệu để đàn ông tránh mặt, nếu không sẽ gặp điều bất cát bất lợi. Tộc A Xương, tộc Bố Y đều có tục này, và cấm không cho phụ nữ ở trên lầu, đặc biệt là cấm không để con gái xa lạ chưa kết hôn ở trên lầu, cho rằng như thế sẽ xung phạm đến tổ tông. Loại tín điều nam ở trên nữ hay nữ ở dưới nam này còn lan rộng đến các dụng cụ, quần áo. Các tộc người Bạch, tộc A Xương, tộc Ngạc Ôn Khắc, Ngạc Luân Xuân, tộc Hán đều cấm kỵ không cho phụ nữ bước qua các đồ dùng, dụng cụ mà người đàn ông sử dụng, như quang gánh, cuốc, cày, bừa, dao, súng, dây yên ngựa, roi ngựa, cọc buộc ngựa…, càng không được dùng chân đạp lên; phụ nữ không được đạp hoặc bước qua quần áo, nón, hành lý của đàn ông, càng không được ngồi lên chúng, nếu không sẽ gây điều bất lợi cho người đàn ông. Nam giới cũng không được đi luồn qua dưới quần áo đang phơi của phụ nữ, vì như thế thì cũng giống như để đàn ba bước qua đầu mình vậy, đó là một điều sỉ nhục và bất hạnh đối với đàn ông. Nhằm tránh sự việc này xảy ra, người ta cấm kỵ phụ nữ không được đem quần áo phơi ở nơi qua đường, cấm đem quần áo phơi ở nơi cao, thường thì quần của phụ nữ chỉ được phép phơi ở bên cạnh nhà xí mà thôi.
Trong xã hội phong kiến, đàn ông có thể cưới ba bốn thê thiếp, còn phụ nữ thì chỉ có thể “theo cho đến hết đời”, không được xảy ra những hành vi thất tiết. Phụ nữ cấm kỵ nhất là thất tiết, khi thất tiết thì không còn mặt mày nào mà nhìn người khác, vì thế mà người ta thường nói “đói chết là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn”. Phụ nữ phải nhu thuận ôn hòa, phải nghe chồng; đàn ông không được sợ vợ, không dạy nổi vợ. Trong tuyệt đại bộ phận các tộc người đều tồn tại phong tục kiểu này. Tộc người A Xương cho rằng, “đàn bà nắm giữ nhà, nhà không giàu”, vì thế mà cấm không để người nữ làm chủ nhà; người Thái cũng cấm kỵ không để phụ nữ nắm kinh tế trong nhà; Tộc Bạch ở Tây Sơn Nhĩ Nguyên có lưu truyền câu “Đàn bà không có cuống họng, nói không biết giữ lời”; quần chúng tộc Băng Long thì thích nói “Ngựa cái không thể treo chuông, đàn bà không thể sánh cùng đàn ông”. Người Hán cũng xem thường phụ nữ, từ cách nói trên cũng có thể thấy được điều đó. Thời xưa, đàn ông khi nói về vợ của mình, thì hiếm khi nói là vợ, mà thường chỉ nói “người trong nhà của tôi”, “người nấu cơm trong nhà tôi”, hoặc gọi là “tiện nội”, “tào khang”. Thời xưa, phụ nữ thường không có tên, chỉ có họ bên nhà mẹ ruột, sau khi xuất giá thì lại lấy thêm họ bên nhà chồng, họ nhà chồng còn phải thêm ở trước họ của nhà bên mẹ ruột, gọi là “mỗ mỗ thị” (họ gì gì đó), và xem đó là tên hiệu của người phụ nữ.
Dân gian Trung Quốc rất tin tưởng và thờ phụng thần linh, nam thần nhiều hơn nữ thần, hơn nữa, trong cuộc sống thì giới nữ cũng bị giới nam áp bức. Vì thế mà trong nhiều trường hợp, nếu như thiên tai xảy ra thì sẽ quy tội cho giới nữ, xem đó là kết quả của việc đàn bà làm ô uế thần linh. Vì vậy mà người phụ nữ bị xem là vật ô uế, thứ khí độc. Người tộc Ngạc Ôn Khắc cấm không cho phụ nữ sờ đầu đàn ông con trai, họ cho rằng trên đầu của đàn ông con trai là nơi của Phật, nữ sờ đầu nam là một kiểu không tôn trọng người nam, và cũng làm ô uế Phật. Phụ nữ cũng không được đại tiểu tiện trong nhà, còn nếu là nam thì không việc gì. Rất nhiều tộc người đều có quan niệm rằng máu kinh của phụ nữ là thứ dơ bẩn, vì vậy, tộc người Di cấm kỵ không để con gái từ mười lăm tuổi trở lên bò lên nóc nhà, đối với người mang thai thì càng nghiêm cấm hơn. Tộc người Ngạc Luân Xuân cấm kỵ phụ nữ bước qua nước suối trong thời kỳ kinh nguyệt, nếu không, nước suối sẽ khô cạn; cũng không được ra sông tắm gội, nếu không thì trời sẽ mưa to. Những tộc người như Đạt Oát Nhĩ thì cấm kỵ phụ nữ không được bước qua bệ bếp, nế không sẽ xung phạm đến Táo vương, người Ngạc Luân Xuân, Ngạc Luân Khắc đều cấm phụ nữ không được dùng roi ngựa của người nam. Phụ nữ không được đi bên cạnh linh vị và đi đằng sau “cột tiên nhân”, không được đi ở nơi có đặt tượng thần, không được sờ mó vào quần áo của Saman, các vật dụng tế thần. Người tộc Nộ cấm kỵ không cho phụ nữ tham gia các điển tế thần linh của thị tộc, long thụ, sơn thần. Thời xưa, tộc người Hán còn cấm không để phụ nữ đi lên bãi thu hoạch lúa mạch, cấm kỵ không để phụ nữ ngồi lên phiến đá ở bãi thu hoạch lúa mạch, vì e rằng sẽ xung phạm đến thần tài, gây thiếu lương thực.
Dân gian cho rằng, những thứ “không sạch sẽ”, “xui rủi”, “không tốt lành”, “ám khí” đến cùng với những đồ vật dụng mới, là cái đã được an bài. Đây là do người ta sợ máu kinh của phụ nữ, cho rằng đó là thứ không sạch sẽ, là thứ nguy hiểm; mặt khác, đó là kết quả của việc áp bức giới tính, kỳ thị giới tính.
Nguyên tác: Hồng Vũ 2004: Cấm kỵ – Trung Quốc dân tục văn hóa. Trung Quốc Xã hội xuất bản xã
鴻宇2004.12: 禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社