Bình đẳng giới hiểu theo nghĩa chung nhất được ghi rõ ở chương I, điều 5 Luật Bình đẳng giới là “việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” (1). Ở cấp độ nhỏ hơn, bình đẳng giới trong gia đình được giới hạn lại trong phạm vi là các thành viên của gia đình: vợ, chồng, con trai, con gái, nam và nữ. Luật Bình đẳng giới đã quy định rõ ở chương II, điều 18: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hóa gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình” (2). Trong mỗi một gia đình luôn có 2 mối quan hệ cơ bản nhất là vợ - chồng và cha mẹ - con cái. Gia đình là một xã hội thu nhỏ, nơi định hình và truyền tải những chuẩn mực về giới thông qua các mối quan hệ cơ bản đó.
Nhà xã hội học người Mỹ Talcott Parsons đã đưa ra một số quan điểm về giới trong thuyết chức năng cấu trúc của mình. Ông cho rằng xã hội là một hệ thống, và để duy trì sự thống nhất và sự tồn tại của hệ thống thì cần phải thực hiện 4 chức năng: thích nghi, đạt được mục tiêu, hòa hợp, và tiềm tàng (duy trì khuôn mẫu) (3). Thuyết này cho rằng xã hội luôn có trật tự, và ở một trạng thái cân bằng, với sự đồng thuận của các thành viên về mục đích, giá trị, hành vi phản ánh trong cơ cấu xã hội và thể chế. Các chuẩn mực, thiết chế và khuôn mẫu hành vi sở dĩ tồn tại là do chúng phục vụ một chức năng xã hội nào đó. Áp dụng vào vấn đề giới, theo lý thuyết này thì nam giới đã được xã hội gán cho chức năng chuyên môn để tạo ra của cải vật chất, còn phụ nữ là người có chức năng biểu đạt để tạo ra của cải tinh thần. Như vậy, sự phân công lao động theo giới hợp lý là phải phù hợp với đặc điểm sinh học, chức năng tự nhiên của nam và nữ. Điều này cho thấy trước đây, lý thuyết chức năng cấu trúc cho rằng việc phụ nữ luôn gắn với các công việc nhà, nội trợ, chăm sóc các thành viên là điều hiển nhiên vì đó là đặc điểm riêng của giới tính và góp phần duy trì xã hội. Lý thuyết này không ủng hộ việc xóa bỏ sự phân công lao động cũ theo giới trong gia đình và xã hội, không đấu tranh cho vấn đề bình đẳng giới.
Max Weber trong lý thuyết xung đột của ông lại nhìn nhận vấn đề bất bình đẳng giới dưới góc độ của sự phân tầng xã hội. Theo ông thì phụ nữ phải chịu sự bất bình đẳng vì trước hết là vì họ không có tài sản, tiếp theo là do các quan điểm thuộc về hệ tư tưởng văn hóa. Những điều này hạn chế người phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, địa vị và quyền lực. Ảnh hưởng của những tư tưởng văn hóa đã khiến người ta thường gán cho phụ nữ trách nhiệm, bổn phận với việc chăm sóc gia đình, làm cho địa vị của họ thấp kém hơn nam giới, dẫn đến bất bình đẳng. Yếu tố quyền lực cũng là một trong những nguyên nhân, thiệt thòi về cả kinh tế, địa vị, quyền lực khiến người phụ nữ không thể được đối xử như với nam giới.
Trước đây, khi xã hội Việt Nam cũ, vị thế và vai trò của người phụ nữ trong gia đình luôn bị hạ thấp, họ luôn bị đối xử bất bình đẳng và phải gắn liền với công việc nhà. Theo như lý thuyết của Parsons, những điều này đã được xã hội mặc nhiên thừa nhận để duy trì trật tự ổn định, nó phù hợp với đặc điểm sinh học và chức năng tự nhiên của nam và nữ. Ngay từ buổi bình minh của nhân loại đã có sự khác biệt trong phân công lao động về giới. Nam giới khỏe mạnh nên thường ra ngoài săn bắt, tìm kiếm thức ăn, phụ nữ yếu hơn nên thường ở nhà nấu nướng, chăm sóc con cái. Trong suốt lịch sử phát triển của xã hội, với đặc điểm mạnh mẽ về thể chất, cứng rắn về tinh thần, nam giới luôn giữ địa vị thống trị, gánh vác những công việc nặng nề mang tính cơ bắp. Phụ nữ thì không có sức mạnh về thể chất, lại có khả năng mang thai và nuôi con bằng sữa mẹ nên thường đứng ở địa vị thấp hơn. Với đặc điểm riêng về sức vóc và tính cách, nam giới lo những việc lớn, quan trọng trong gia đình và xã hội, còn phụ nữ chỉ quẩn quanh với việc bếp núc, đồng áng, chăm sóc con cái. Còn theo Weber thì chính những yếu tố văn hóa, tinh thần đã chi phối tất cả, đó mới chính là nguyên nhân gây bất bình đẳng. Những định kiến giới xuất phát từ hệ tư tưởng mang tính gia trưởng, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và hằn sâu trong nếp nghĩ của người Việt Nam. Dưới quan điểm Nho giáo, nam giới trong xã hội phương Đông được coi là trụ cột và có toàn quyền quyết định mọi việc trong gia đình, gắn với quan điểm phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Trong khi đó phụ nữ không bao giờ làm chủ gia đình, mà chỉ là người lo nội trợ, chăm sóc con cái, luôn phải sống lệ thuộc, phục tùng nam giới, không có được tiếng nói riêng và cơ hội để phát triển, khẳng định mình. Họ phải chịu nhiều thiệt thòi trong chế độ hà khắc, bất công, nằm trong vòng kiềm tỏa của “tam tòng, tứ đức”, phải sống theo khuôn phép, chịu đựng và hy sinh. Trong vấn đề hôn nhân, phụ nữ cũng không được quyền quyết định mà phải nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ, thậm chí có những người còn chưa biết mặt vị hôn phu của mình. Phụ nữ cũng bị gắn liền với đạo lý về tiết hạnh, người đàn bà không được phép lấy 2 chồng, và nếu chồng chết phải ở vậy đến cuối đời. Với địa vị thấp kém, họ cũng không trở thành đối tượng được hưởng thừa kế, không có tài sản.
Ngày nay, khi xã hội ngày càng tiến bộ, tư duy và nhận thức của con người dần đổi mới, những quan niệm cũ, tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ đã dần mất đi. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những quan niệm cũ đã bị xóa bỏ hoàn toàn. Những định kiến giới vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là ở nông thôn và vùng sâu vùng xa, nơi ít được tiếp xúc hơn với tiến bộ xã hội, còn ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo. Phụ nữ vẫn bị gán cho công việc nội trợ và chăm sóc con cái, có ít cơ hội để tham gia vào các hoạt động xã hội, các việc làm tốt, học tập để nâng cao trình độ. Bên cạnh làm việc để đóng góp vào thu nhập kinh tế cho gia đình, họ phải đảm nhiệm thêm cả việc nhà. Điều này khiến họ ít có thời gian dành cho bản thân, nghỉ ngơi giải trí hay tham gia các hoạt động bên ngoài xã hội. Những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam như sự nín nhịn, chịu thương chịu khó phần nào đó lại trở thành rào cản khiến họ không thể tự giải phóng được chính mình. Quyền quyết định trong gia đình cũng phần lớn là thuộc về nam giới, nhất là những việc lớn, quan trọng.
Trong vấn đề sinh con, nuôi và chăm sóc con cái ở gia đình ngày nay vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam khinh nữ. Người ta vẫn thường thích đẻ con trai hơn con gái, và ưu tiên đầu tư hơn cho con trai, ngay cả trong việc tài sản thừa kế. Ở các gia đình nông thôn hay miền núi không đảm bảo về kinh tế, việc đi học luôn được ưu tiên cho các bé trai, còn các bé gái phải ở nhà phụ giúp cha mẹ, chăm sóc các em. Đa số phụ nữ ở những nơi đó đều có trình độ học vấn rất thấp, sống cam chịu và còn nhiều tự ty, mặc cảm. Người đàn ông ngoài công việc nương rẫy thì không chia sẻ những trách nhiệm khác trong gia đình với vợ. Tư tưởng gia trưởng còn tồn tại và sự chậm thay đổi của ý thức xã hội là nguyên nhân khiến phụ nữ trở thành nạn nhân của phân biệt đối xử, bạo lực gia đình, tình trạng này hiện còn đang có xu hướng gia tăng.
Cũng là một nhà chức năng như Parsons, nhưng Miriam Johnson lại theo thuyết nữ quyền. Bà đề xướng ra thuyết chức năng về giới để định vị nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong gia đình dưới chế độ gia trưởng trong xã hội và đi vào mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Bà cho rằng gia đình có chức năng khác biệt với các thể chế khác, đó là chức năng xã hội hóa trẻ con và tân tạo về mặt tình cảm các thành viên trưởng thành của nó, các hoạt động chủ yếu đối với sự cấu kết xã hội và tái sản xuất giá trị. Vị trí xã hội cơ bản của người phụ nữ trong gia đình là nhà sản xuất chính của các chức năng cốt yếu đó. Theo Johnson, ở chế độ gia trưởng, trong việc chăm sóc con cái, người phụ nữ mang tới cho các bé trai và bé gái nhận thức về tính nhân bản chung. Các kìm hãm thể chế và văn hóa đòi hỏi phụ nữ phải yếu ớt và phục tùng trong mối quan hệ với người chồng - người mà thông qua phương tiện trung gian cạnh tranh trong nền kinh tế mang lại cho gia đình sự an toàn ở cấp độ kinh tế. Nhìn nhận mẹ chúng trong vai trò “bà vợ yếu đuối”, bọn trẻ học cách tôn sùng chế độ gia trưởng và hạ thấp giá trị của sự biểu cảm với ý nghĩa là một thái độ trong quan hệ đi ngược lại phương tiện dường như mạnh mẽ và có giá trị hơn (4). Bà đã góp phần mở ra các vấn đề về bất bình đẳng với hy vọng phong trào phụ nữ sẽ tạo ra được sự biến đổi về văn hóa xã hội.
Theo như Johnson, gia đình là môi trường đầu tiên của việc xã hội hóa con người, là nơi trao truyền lại những nhận thức, kỹ năng của thế hệ trước cho các thế hệ sau. Sự định hình các tư tưởng, quan niệm, khuôn mẫu, mối quan hệ về giới được truyền tải từ thế hệ này qua thế hệ khác và ngày càng ăn sâu vào suy nghĩ, nhận thức của con người. Tính cách của nam và nữ không phải tự nhiên sinh ra đã có mà do quan niệm và sự thừa nhận của xã hội được truyền lại thông qua cha mẹ và gia đình. Từ khi còn nhỏ, các cá nhân đã được xã hội hóa theo những tính cách mà gia đình và xã hội mong muốn. Trong xã hội truyền thống phương Đông, trẻ em trai được giáo dục theo quan điểm “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, gắn liền với những đức tính như mạnh mẽ, quyết đoán, dũng cảm,... Còn trẻ em nữ được giáo dục theo những chuẩn mực về “tam tòng, tứ đức”, gắn với những đức tính như nhẹ nhàng, dịu dàng, nhẫn nhịn,... Quan niệm phải có con trai để nối dõi tông đường cũng đã khiến cho các bé gái không được đối xử công bằng ngay từ nhỏ, thiếu sự quan tâm, chăm sóc, thậm chí không được học hành. Ngay từ nhỏ, các bé gái đã phải học từ mẹ các việc may vá, nội trợ..., học cách phục tùng. Những tôn ti trật tự trong chế độ gia trưởng đã dẫn đến bất bình đẳng trong gia đình và ảnh hưởng đến mỗi con người từ khi còn nhỏ. Cùng chung quan điểm với Johnson, Walter Mischel trong lý thuyết học tập - xã hội đã lý giải rằng vai nam - nữ hình thành và phát triển ở mỗi cá nhân là do lĩnh hội và làm theo những hành vi của cha mẹ hay những người trong/ngoài gia đình. Quá trình này có thể diễn ra một cách vô thức, tự phát khi đứa trẻ tự động bắt chước hành vi của người cùng giới. Chính vì vậy những trẻ em gái rất dễ quan sát và làm theo những gì chúng được chứng kiến từ người mẹ. Sự nhẫn nhục, cam chịu của người mẹ cũng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của những bé gái, khiến cho cuộc sống sau này của chúng cũng nối tiếp theo đó, quẩn quanh và không có lối thoát.
Thuyết nữ quyền tự do lại lý giải về sự bất bình đẳng giới bắt đầu từ việc phân bố lao động theo giới tính, sự tồn tại của phân cách công cộng và các khu vực riêng tư của hoạt động xã hội. Lý thuyết này nhận diện sự phân bố lao động theo giới tính thành 2 khu vực: khu vực riêng tư và khu vực công cộng. Khu vực riêng tư bao gồm các chu kỳ tuần hoàn vô tận của các công việc có yêu cầu cao, không được chú ý, không được trả lương, và bị đánh giá thấp gắn liền với việc nhà, chăm sóc trẻ, và sự phục vụ về tình cảm, thực hành, tính dục cho nam giới trưởng thành. Các ban thưởng thực sự của đời sống xã hội: tiền, quyền lực, địa vị, sự tự do, các cơ hội để tăng trưởng và nâng cao giá trị bản thân đều tìm thấy ở khu vực công cộng. Hệ thống đã ngăn trở giới hạn sự thâm nhập của phụ nữ vào khu vực công cộng, ấn lên vai họ trách nhiệm của khu vực riêng tư, cách ly họ trong các công việc nội trợ cá nhân, miễn cho bạn đời của họ khỏi bổn phận chia sẻ các công việc nhọc nhằn của khu vực riêng tư (5). Do chủ nghĩa phân biệt giới tính mà người phụ nữ dần bị thoái hóa các vai trò, trở thành phụ thuộc, không đáng được chú ý, bị đè nén.
Trước đây, trong chế độ phong kiến, phụ nữ bị ràng buộc, giam hãm trong gia đình, bị tước đi quyền được học hành. Chính vì lý do đó, phụ nữ không có cơ hội để phát huy và phát triển trí tuệ của mình, nên trí tuệ, học vấn luôn thấp kém hơn nam giới. Điều này khiến cho phẩm chất của phụ nữ không được bộc lộ, chứ không có nghĩa là phụ nữ sinh ra đã kém hơn nam giới về năng lực trí tuệ. Các nhà nữ quyền tự do đã chỉ ra rằng phụ nữ và nam giới chỉ khác nhau về đặc điểm sinh học chứ không phải trí tuệ. Họ luôn hướng tới mục tiêu xóa bỏ bất bình đẳng giới và phụ nữ được đối xử công bằng. Phụ nữ hoàn toàn có thể làm những công việc mà nam giới làm, và được trả công một cách bình đẳng. Sau này, khi các ngành nghề kinh tế dần phát triển đa dạng hơn, phụ nữ cũng tham gia lao động nhiều hơn, không còn bị giới hạn trong “khu vực riêng tư” như thuyết nữ quyền tự do đã nói. Tuy nhiên nam giới và nữ giới cũng vẫn tập trung vào những ngành nghề nhất định. Phụ nữ chủ yếu làm ở các ngành công nghiệp nhẹ, buôn bán, công sở, dịch vụ xã hội. Trong khi đó nam giới luôn chiếm ưu thế ở các ngành nghề đòi hỏi nhiều kỹ năng, nhất là các ngành khoa học. Nam giới thường ở các vị trí lãnh đạo, và được trả lương cao hơn nhiều lần so với phụ nữ. Ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa vẫn còn ảnh hưởng nhiều của tư tưởng cũ, sự khác biệt trong phân công lao động theo giới vẫn còn rất lớn. Nam giới đảm nhiệm không chỉ những công việc đòi hỏi sức khỏe mà còn cả những việc có liên quan đến giao tiếp bên ngoài xã hội. Còn hầu hết phụ nữ chỉ ở nhà lo cơm nước, đồng áng, chăm sóc con cái và các thành viên trong gia đình. Công việc của phụ nữ vất vả hơn so với nam giới cả về khối lượng lẫn thời gian, nhưng đó lại là những công việc không được coi trọng và trả công.
Để thực hiện bình đẳng giới thực chất cần phải đi từ nhận thức tới hành động, phải có sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội trong việc tuyên truyền giáo dục. Gia đình là môi trường đầu tiên trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người. Đây là nơi diễn ra quá trình xã hội hóa cá nhân, hình thành nhận thức, thái độ về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có những quan niệm về giới. Chính vì vậy, nếu có được những nhận thức đúng đắn về giới trong từng tế bào của xã hội thì sẽ góp phần vào bình đẳng giới thực chất của toàn xã hội. Nếu những định kiến giới còn tồn tại trong gia đình, ở những người lớn (cha mẹ, ông bà) thì điều đó sẽ ảnh hưởng đến những đứa trẻ. Hành vi chăm sóc, giáo dục trẻ em nếu có sự phân biệt theo giới thì sẽ có tác động tiêu cực đến các thế hệ sau. Không chỉ ở việc giáo dục, cách đối xử của ông bà, cha mẹ với nhau, hành vi, lối sống, thái độ trong gia đình cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của trẻ nhỏ về vấn đề bình đẳng giới. Nếu những người lớn bình đẳng với nhau, mọi quyết định được đưa ra để bàn bạc một cách dân chủ, môi trường gia đình không có bạo lực hay phân biệt đối xử thì trẻ nhỏ sẽ có được nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới. Điều này cho thấy những người lớn trong gia đình cần phải tự mình nâng cao nhận thức về bình đẳng giới.
Với tư cách là thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình là nơi đầu tiên có thể thực hiện một cách bình đẳng sự phân công lao động theo giới. Phụ nữ luôn bị gắn với thiên chức làm mẹ, làm vợ nên luôn phải gánh vác các công việc nhà, chăm sóc trẻ em... Những công việc này tiêu tốn của họ rất nhiều thời gian, khiến cho phụ nữ ít có cơ hội tham gia vào thị trường lao động để có thu nhập. Tình trạng này có thể dần được xóa bỏ nếu nam giới tự nguyện và sẵn sàng chia sẻ những công việc nhà, giúp đỡ phụ nữ chăm sóc con cái. Như vậy phụ nữ sẽ có điều kiện tham gia vào các công việc xã hội, phát huy khả năng và tạo thêm thu nhập, dần trở nên tự tin và có tiếng nói hơn. Có thu nhập, phụ nữ sẽ san sẻ gánh nặng kinh tế với người chồng, bên cạnh đó họ được chồng mình chia sẻ các công việc trong gia đình. Những đứa trẻ của họ cũng sẽ nhìn vào đó mà có nhận thức đúng đắn về vai trò giới trong gia đình, làm cho phân công lao động bình đẳng hơn.
Trong vấn đề đầu tư các nguồn lực để phát triển, trước đây định kiến giới đã làm cho người vợ và trẻ em gái chịu nhiều thiệt thòi, nhất là trong việc giáo dục cũng như chăm sóc sức khỏe. Gia đình cũng là nơi đầu tiên có thể cân bằng các quyết định đầu tư, xóa bỏ định kiến giới và sự bất bình đẳng. Nam giới và nữ giới đều sẽ có điều kiện được học hành để nâng cao trình độ học vấn, được tôn trọng sự lựa chọn về công việc. Công bằng giới cũng sẽ thể hiện ở quyền được chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí, hưởng thụ văn hóa và các dịch vụ xã hội. Một người mẹ có đủ sức khỏe và trình độ học vấn sẽ có thể tác động tốt hơn đến con cái của mình thông qua việc chăm sóc, giáo dục.
Bình đẳng giới trong gia đình nói riêng và trên phạm vi toàn xã hội nói chung không phải chỉ là vấn đề của riêng nữ giới mà là của cả cộng đồng. Bên cạnh thể chế và nền kinh tế, gia đình là yếu tố quan trọng tác động thường xuyên và trực tiếp đến nhận thức và hành vi của con người về bình đẳng giới. Sự tham gia của cả nam giới và nữ giới cộng với những nhận thức đúng đắn, tiến bộ có thể mang lại bình đẳng giới về thực chất. Đó là yếu tố để nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, xóa đói giảm nghèo và là tiền đề cho sự phát triển bền vững của đất nước.
_______________
1, 2. Luật Bình đẳng giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội, 2006.
3, 4, 5. Vũ Quang Hà, Các lý thuyết xã hội học, tập 1, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, tr.146, 469, 485.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 354, tháng 12-2013