Emic và etic là cặp thuật ngữ chỉ hai cách tiếp cận bổ sung cho nhau trong việc nghiên cứu văn hoá, do nhà ngôn ngữ học và nhân loại học văn hoá người Mỹ Kenneth Pike tạo ra năm 1954, dựa vào hai thuật ngữ ngôn ngữ học tương ứng là “phonEMIC” (‘thuộc âm vị’, phonema = âm vị) và “phonETIC” (‘thuộc ngữ âm’, phonetics = ngữ âm). K. Pike đưa ra giả thiết rằng có hai triển vọng có thể vận dụng trong nghiên cứu hệ thống văn hoá không kém gì trong lĩnh vực nghiên cứu hệ thống âm của ngôn ngữ. Trong cả hai lĩnh vực đều có thể khảo sát đối tượng từ quan điểm của người trong cuộc hoặc của người ngoài cuộc.
Trong ngôn ngữ học, cách phân tích âm vị học chỉ ra những dấu hiệu khu biệt đặc trưng cho từng âm vị, có tác dụng phân biệt nghĩa trong lời nói đối với những người nói chính ngôn ngữ đó. Chẳng hạn, các dấu hiệu khu biệt cặp âm vị /m/ -/b/ có tác dụng phân biệt nghĩa của cặp từ “mà”/”bà”. Những người bản ngữ là người có đủ thẩm quyền nhất trong việc đánh giá về giá trị của những đặc trưng khu biệt cho phép nhận diện âm vị và xác định ý nghĩa chuỗi lời trong ngôn ngữ của họ.
Theo cách đó, cách tiếp cận “từ chủ thể” (emic) tập trung xác định những nét văn hoá đặc thù bên trong có ý nghĩa đối với các thành viên của một xã hội cụ thể, và các thành viên của nền văn hoá bản địa chính là những người có thẩm quyên cao nhất để phán xét về giá trị và độ tin cậy của những kết quả nghiên cứu theo cách tiếp cận “từ chủ thể”. Đó là cách nghiên cứu theo quan điểm của người trong cuộc.
Trong khi đó, những phân tích ngữ âm dựa vào những khái niệm và phạm trù có ý nghĩa đối với các nhà phân tích ngôn ngữ (chẳng hạn phụ âm răng-xát); các nhà ngôn ngữ là những người có thẩm quyền duy nhất trong sự đánh giá sự rõ ràng, chính xác của một ký hiệu ngữ âm. Tương tự, cách tiếp cận “từ khách thể” (etic) căn cứ vào những khái niệm và phạm trù xây dựng từ bên ngoài (có ý nghĩa đối với các nhà khoa học) để xác định các giá trị văn hoá. Chỉ có các nhà văn hoá học là những người có thẩm quyền đánh giá những giá trị và căn cứ của một nghiên cứu văn hoá học từ bên ngoài (“từ khách thể”). Đây là cách nghiên cứu theo quan điểm của người ngoài cuộc.
Cùng với Pike, nhà nhân loại học văn hoá Marvin Harris cũng đặc biệt chú ý đến sự phân biệt giữa cách tiếp cận “từ chủ thể” và cách tiếp cận “từ khách thể” trong những nghiên cứu của mình về thuyết duy vật văn hoá. K. Pike và M. Harris vẫn còn chưa nhất trí về định nghĩa cũng như ứng dụng của hai cách tiếp cận trong nghiên cứu văn hoá, nhất là về mục đích của cách tiếp cận “từ khách thể”. Đối với K. Pike, cách tiếp cận “từ khách thể” là con đường để đạt tới các cách tiếp cận “từ chủ thể”; còn M. Harris thì cho rằng cách tiếp cận “từ khách thể” là cứu cánh tự thân.
Theo quan điểm của K. Pike, cách tiếp cận “từ khách thể” rất hữu dụng đối với việc đi sâu khám phá và giải thích cấu trúc nội tại của các hệ thống nhưng cách tiếp cận “từ khách thể” không nên có vai trò vượt quá hoặc ưu tiên hơn cách tiếp cận “từ chủ thể”. Trong khi đó, theo M. Harris, cách tiếp cận “từ khách thể” rất hữu ích trong việc xác định sự kiện một cách khách quan và nó phải được ưu tiên hơn cách tiếp cận “từ chủ thể”.
Mặc dù có những khác biệt và chưa nhất trí, nhưng có thể thấy rằng hai cách tiếp cận “từ chủ thể” (emic) và “từ khách thể” (etic) là những phương pháp mang tính nhận thức luận. Nnghiên cứu văn hoá cần kết hợp cả hai cách tiếp này.
Nguyễn Văn Hiệu biên soạn
Nguồn: người biên soạn