Đây là những luận điểm căn bản của một số nhà nhân học nổi tiếng trên thế giới được trình bày ở nhiều tài liệu khoa học khác nhau. Việc làm của tôi chỉ là: Đọc hiểu rồi tóm lược những luận điểm chính của họ và cấu trúc lại thành một bài viết để những ai quan tâm đến vấn đề này tiện theo dõi. Những ai muốn đi sâu hơn vào vấn đề này có thể đọc toàn văn tài liệu (được ghi ở phần tài liệu tham khảo).
1. Nhân học theo quan điểm phản - thực chứng luận (xem phần này ở mục từ “Nhân học” của cuốn sách này)
2. Một số quan điểm về môi trường trong nhân học
R. Rappaport phát triển lý thuyết về mô hình nhận thức thành ba tầng bậc; bậc thấp nhất là dựa vào sự khu biệt nhị phân - tức là sự khác nhau, cấp thứ hai là dựa vào sự giống nhau - sự cộng hởng mang tính hàm ý, ẩn dụ và cấp cao nhất là dựa vào tính đồng nhất hay sự giống nhau giữa cái tôi và cái khác tôi, môi trường và con người.
Tương ứng với ba tầng bậc trên là những quan điểm sau:
2.1. Quan điểm nhị phân (con người đối lập với tự nhiên…)
Trong quan niệm của phương Tây truyền thống, tự nhiên và con người được xem như tách biệt và trong vị trí đối lập. Hơn nữa chúng được nhìn nhận trong cấu trúc “chủ thể / khách thể” và tự nhiên được nhìn nhận như nguồn tài nguyên bị tận dụng, điều khiển, sở hữu, cai trị, quản lý và được “chăm sóc” bởi con người.
Tuy nhiên, trong nhân học đương đại, kiểu quan niệm ấy hiện nay đã bị thay đổi. Nhân học sinh thái đương đại đều dựa trên cơ sở mối quan hệ “chủ thể/chủ thể” của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
2.2. Quan điểm ẩn dụ/tượng trưng trong nhân học sinh thái (những thứ khác trong tự nhiên - thông qua văn hoá - như là con người)
Nurit Bird David (học trò của T. Ingol) đã nói về phép ẩn dụ của các bộ lạc đối với mối liên hệ giữa tự nhiên và con người. Trong một bài viết vào năm 1993, bà có giới thiệu một khái niệm về mối tương quan con người - tự nhiên để làm rõ ý kiến cho rằng, những tộc người bản xứ có xu hướng nhận thức mối quan hệ của họ với môi trường sống xung quanh là theo tương quan cá nhân, cái mà chúng ta gọi là cấu trúc chủ thể/chủ thể (liên chủ thể), đặc biệt đúng đối với những nền văn hoá săn bắt - hái lượm. Bà đa ra một số ví dụ để phân tích mối quan hệ thân thiết/tôn kính theo các mẫu hình quan hệ xã hội người đối với môi trường[1];
- ở một bộ lạc ở vùng cận Bắc Mỹ, việc săn bắn được mô tả như là cuộc giao cấu của người thợ săn với con vật bị săn đuổi - Đó là một quá trình gồm ve vãn, quyến rũ, kết thúc và sinh sản. (người Cree)
- Những thổ dân châu úc có một khái niệm khá phổ biến là loài người được sinh ra từ một vùng đất xác định. Sức mạnh của vùng đất này nhập vào những con người sinh ra ở đó và hiện thân cho sức sáng tạo và tổ tiên thần thánh (là những người mà trong thời kỳ thần thoại sinh ra tổ tiên đầu tiên của loài người). Loài người là con cháu của vùng đất.
- Tộc người Nayaka ở ấn Độ - cũng giống như những nhóm săn bắt hái lượm khác - đều đặt tên và có liên hệ mật thiết tới khu rừng mà họ đang sống và đến đấng sinh thành đang bảo trợ cuộc sống cho họ. Rừng nuôi dưỡng họ và cung cấp cho họ tất thẩy - vì thế được coi là đấng bảo trợ mãi mãi, được con người tin tởng liên tục và vô điều kiện.
Philippe Descola nói về một sinh thái học biểu trng: Vũ trụ (= nơi cư trú) bao gồm vạn vật và con người, đó là một thực tại được cấu tạo bởi số nhiều những chủ thể có quan hệ và giao tiếp với nhau, trong đó con người chỉ là một chủ thể. Thế giới này được giải thích như một xã hội đầy đủ (được cá nhân hóa, hoặc xã hội hoá): ở cùng một nơi cư trú, có con người và những loài giống như người cùng chung sống và có quan hệ tương tác. Các chủ thể đều có tính người và có những phẩm chất, thuộc tính như con người, ví dụ như năng lực, ý chí, ý thức… (là những gì mà trước đây chúng ta - theo quan điểm khoa học tự nhiên - đã không thừa nhận mà luôn chỉ nhìn nhận nó trong quan hệ đối lập giữa văn hoá - tự nhiên, chủ thể - khách thể).
Tóm lại, với cố gắng chống lại phương thức tưduy trong hàng loạt những cặp đối lập trong nền khoa học phương Tây (tự nhiên - văn hoá, tự nhiên - siêu tự nhiên, tự nhiên - lịch sử, tự nhiên - nghệ thuật, tự nhiên - trí tuệ..,), Descola không nhằm phủ định sạch trơn những thành tựu mà khoa học phương Tây đã đem lại cho nhân loại, mà chỉ mong muốn một thứ sinh thái học sẽ giúp các nhà nghiên cứu định hình lại vũ trụ quan mà theo đó họ có thể tạo ra những yếu tố có tính chất ít xa lạ hơn cho nhiều nền văn hoá của những người nằm ở vị trí bên lề của cuộc tập hợp giá trị được coi và được tin là hiện đại. Sinh thái học ấy chính là nền tảng để “chúng ta” (con người) gần hơn với “chúng” (giống như con người).
Đặc điểm nổi bật của nhân học biểu trng này là: Trong khi các khoa học tự nhiên quan tâm đến việc mô tả, diễn giải đối tượng nghiên cứu với tư cách là tự nhiên hữu cơ như chúng vốn là/thực sự là như thế, thì các nhà nhân học lại quan tâm đến các dạng thức khác mà các thành tố của tự nhiên được minh hoạ trong thế giới trí tuệ, hay còn gọi là thế giới nhận thức của chủ thể văn hoá. Có nhiều cách để tạo ra sự khác biệt, nhng cách thức phổ biến nhất là sự phân biệt giữa etic (quan điểm của người ngoài cuộc) và emic (quan điểm của người trong cuộc).
Lấy lại ví dụ về sự hiến dâng của con tuần lộc khi bị người thợ săn đuổi bắn. Đối với khoa học phương Tây, điều lý giải ấy của các nhà nhân học (dâng tặng, sex) là nhảm nhí, không thể tin được. Ngay cả đối với một người bình thường (không phải là người Cree) cũng không ai đủ nghiêm túc để tin câu chuyện đó cả. Các nhà nhân học thì lại có cách tiếp cận khác: Khi được nghe kể câu chuyện này, việc đầu của họ không phải là tính chân thật của câu chuyện mà họ cố gắng hiểu xem nội dung của câu chuyện ấy có ý nghĩa gì và đặt nó vào trong bối cảnh mà câu chuyện được tạo ra. Như vậy, câu chuyện chỉ ra rằng: ý tởng các loài vật nộp mình cho các thợ săn sẽ tạo ra một cảm giác đúng nếu chúng ta bắt đầu bằng một giả định (giống như người Cree vẫn thường làm) rằng toàn thể thế giới (không chỉ riêng con người) tràn ngập trong những sức mạnh của những chủ thể sáng tạo và có chủ định. Các nhà nhân học sẽ nhận thấy, trong vũ trụ luận của người Cree thì các mối quan hệ của họ với thế giới động vật bắt chước (giống như) các mối quan hệ có trong cộng đồng người, ví như hoạt động săn bắn được coi là thời khắc của một cuộc đối thoại liên cá nhân (interpersonal) đang diễn ra. Như vậy, đối với các nhà nhân học, việc giải thích hành vi của con tuần lộc (kiểu như các nhà sinh học giải thích rằng đây là một loại phản xạ có điều kiện đối với loài sói) không phải là hành vi của họ. Thay vì điều đó, mối quan tâm của họ là chỉ ra kinh nghiệm của cuộc đối đầu trực tiếp của người thợ săn với động vật được xây dựng thành dạng thức và ý nghĩa của nó như thế nào - mà theo lối nói của các nhà nhân học - là theo sự chỉ dẫn của văn hoá [1, tr. 509].
2.3. Quan điểm về personhood (con người (trực tiếp) = tự nhiên) là đỉnh cao cho trào lưu chống lại quan điểm truyền thống của phương Tây về cấu trúc nhị phân trong mối quan hệ môi trường - con người
Mở đầu là bài nghiên cứu “Bản thể luận Ojibwa” của một nhà nhân học văn hoá Mỹ Irvine Hallowell. Trong bài này, một khái niệm về con người hoàn toàn mới được tác giả giới thiệu và nó kích thích giới nhân học đương đại có những tư duy mới trong nghiên cứu cũng như trong đánh giá lại những tri thức kinh điển của ngành mình. Đó là khái niệm personhood (tạm dịch: phẩm chất người): Theo Hallowell ý niệm personhood của người Ojibwa xuất phát từ chỗ: Con người không phải được nhận thức từ vẻ bên ngoài, hình dáng mà là một thực thể thuần tuý.
Trong những người đi theo và phát triển bản thể luận này trong nghiên cứu môi trường phải kể đến T. Ingol.
3. Quan niệm về môi trường của T. Ingol
- Môi trường là một thuật ngữ mang tính tương đối: Môi trường của ai? Nói cách khác không có một sinh loài nào là không có môi trường, và cũng như vậy có thể nói không có môi trường nếu không có một sinh loài nào. Vì thế, môi trường của tôi là thế giới như nó tồn tại và chỉ có ý nghĩa khi có quan hệ với tôi. Và trong ý nghĩa này, môi trường chỉ tồn tại và trải qua sự phát triển với tôi và xung quanh tôi.
- Môi trường không bao giờ là hoàn chỉnh: Khi sự sống tiếp tục phát triển thì môi trường sẽ tiếp tục được kiến tạo. Vậy, nó là một quá trình của sự trởng thành và phát triển
- Khái niệm môi trường khác với khái niệm tự nhiên, về cơ bản nó mang tính lịch sử: Bởi vì, thế giới chỉ tồn tại như tự nhiên đối với một sinh vật khi sinh vật đó không sống ở đó và nhìn về nó theo cách thức của các nhà khoa học khách quan quan sát từ một khoảng cách an toàn và từ khoảng cách đó sẽ nảy ra một ảo tởng rằng tự nhiên không bị ảnh hởng bởi sự có mặt của anh ta. Trên thực tế, các môi trường chỉ tồn tại trong quá trình của cuộc sống của chung ta - do chúng ta có ảnh hởng đến chúng và chúng có ảnh hưởng đến chúng ta - nên về cơ bản chúng mang tính lịch sử. Do đó, chúng ta phải lo lắng về câu cửa miệng đơn giản như “môi trường tự nhiên”, bởi vì khi ghép hai từ đó làm một chúng ta đã thực sự hình dung chính bản thân chúng ta là cái gì đó không thuộc vào thế giới này, và như vậy chúng ta ở một vị thế can thiệp vào trong các quá trình của nó [sđd, tr. 516].
4. Hướng tới một sinh thái học cảm tính
Sentient ecology: Tri thức về các thành tố tự nhiên của môi trường, có được thông qua sự gắn kết trực quan hàng ngày và có tình cảm của con người đối với các thành tố đó. Nó khác với những tri thức có được từ sách vở.
Bằng 3 ví dụ, T. Ingol đã muốn nói về một dạng tri thức khác hẳn với tri thức khoa học. Những tri thức này được hình thành từ những trải nghiệm của cuộc sống, nó là một kiểu hình thái của cảm xúc.
- Chuyện về người cha của Ingol đã dẫn ông đi những vùng nông thôn và trên đường đi ông đã được người cha chỉ và cho nếm vị (ngửi, nếm những vị riêng biệt) của nhiều loại rong rêu. Chính nhờ điều này mà sau này Ingol đã phát hiện ra rằng, cái cách mà người cha của ông đã truyền thụ tri thức lại cho ông cũng chính là cái cách mà xã hội thổ dân người châu úc đã truyền tri thức lại cho con cháu họ.
- Chuyện về quá trình làm “lễ thành đinh” của người Walbiri (miền trung châu úc): Một đứa trẻ, chuẩn bị cho “lễ thành đinh” phải tiến hành một hành trình lớn kéo dài từ hai đến ba tháng. Được sự hộ tống của một người bảo trợ (chồng của chị gái) và một người anh, đứa trẻ được dẫn đi từ địa điểm này đến địa điểm khác và trên đường đi nó sẽ được tìm hiểu về thực vật, động vật và địa hình của quê hương mình. Người anh trai đi theo sẽ chỉ cho người em ý nghĩa Tôtem của vô vàn địa điểm mà họ đến thăm. Mỗi một khu vực có chuyện kể riêng về nó, kể về việc khu vực đó được hình thành như thế nào trong thời kỳ tổ tiên họ tạo dựng trái đất và đi lang thang trên nhiều vùng khác nhau của lãnh thổ ở thời kỳ có tên là giấc mơ. Quan sát vực nước trong lúc các câu chuyện kể về vực nước này được kể và diễn, đứa trẻ như được chứng kiến tổ tiên đang đi ra từ dưới mặt đất. Giống như vậy, lướt nhìn hình dáng của một ngọn đồi hay một mỏm đá lộ thiên, đứa trẻ nhận ra hình dáng của tổ tiên đã được tạc lại ở đó. Như vậy, sự thật hiển hiện khắp nơi trên không gian - địa lý sự thật của thời kỳ giấc mơ - và nó dần dần được đứa trẻ nhận ra khi nó trải qua từ cấp độ đơn giản, “bề ngoài” nhất của tri thức cho đến phần sâu hơn, phần “bên trong" của sự hiểu biết [sđd, tr. 517].
- Nhắc lại chuyện săn tuần lộc của người Cree: ở đây có thể kể ra hai phương diện. Thứ nhất, anh thợ săn có một giác quan rất tinh tế để có thể tìm ra những dấu vết của động vật (những hoạt động và sự hiện diện của chúng); thứ hai, khi người thợ săn nói về cách mà con tuần lộc tự trình diện trước mình thì mục đích của câu chuyện là nhằm tạo ra hình dáng cho xúc cảm của con người, đó là xúc cảm về sự sống động và gần gũi đối với con tuần lộc như là một sinh vật sống khác, một vật sống có tâm hồn, tri giác đầy đủ như của con người: anh ta cảm thấy dường như là sự sống của anh ta hoà lẫn với con vật - một xúc cảm giống như tình yêu và cảm giác này, trong phạm vi của đời sống con người là cảm giác của quan hệ tình dục. (Khi nói chuyện về cuộc đi săn, anh ta mang lại cho cảm giác đó một hình hài - thông qua sự diễn đạt của ngôn từ).
Như vậy, theo Ingol, khái niệm này (sinh thái học cảm tính) phản ánh đầy đủ loại tri thức mà con người có về môi trường của họ. Đó không phải là tri thức chính quy, được xuất bản và có thể được truyền tải trong các bối cảnh bất kỳ. Ngược lại, loại tri thức này dựa vào cảm giác, bao hàm những kỹ năng, sự nhạy cảm và định hướng được phát triển thông qua sự trải nghiệm lâu dài trong cuộc đời của một con người trong một môi trường cụ thể.
Khái niệm này còn được diễn đạt thêm bằng thuật ngữ trực giác. Điều cần nhấn mạnh ở đây là trực giác không phải là thấp hơn lý trí.
Nó là một kiểu nhận thức khác, nói như T.Ingol, đó là “thi pháp của cuộc sống” và chỉ trong khuôn khổ của thi pháp này chúng ta mới “hiểu" hết những câu chuyện có vẻ nhưthần bí, li kỳ mà óc t duy khoa học của phương Tây khó có thể chấp nhận được.
Tài liệu tham khảo chính
1. Hội Dân tộc học Việt Nam - Thế giới quan bản địa - Tài liệu các bài giảng của GS. Kaj Arhem (Đại học Goterborg - Thuỵ Điển) tại Bảo tàng Dân tộc học, Hà Nội - 2004.
2. Richard L. Warms; R. Jon MC. Gee (2000), Lý thuyết nhân học (người dịch Bùi Lưu Phi Khanh), tư liệu Viện Văn hóa Thông tin.
Nguồn: tác giả, viettems.com