1. Khái quát về giao lưu văn hóa, toàn cầu hóa:
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa “giao lưu văn hóa là sự tiếp xúc văn hóa, trao đổi ảnh hưởng và tác động qua lại giữa các nền văn hóa của các dân tộc khác nhau…”(1), GS. Trần Quốc Vượng định nghĩa “giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngòai bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn luôn đặt mỗi tộc người phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngọai sinh…”(2) Theo định nghĩa của GS. Ngô Đức Thịnh “giao tiếp văn hóa, nói ngắn gọn là quá trình các cộng đồng người gặp nhau và trên cơ sở đó tiếp nhận ở nhau những giá trị văn hóa”(3). Tóm lại, chúng ta có thể hiểu “giao lưu văn hóa” là khái niệm để chỉ sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài của các dân tộc có nền văn hóa khác nhau dẫn đến sự biến đổi, hội nhập một số yếu tố văn hóa lẫn nhau giữa các dân tộc nhưng không làm mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, của văn hóa, gắn bó với tiến hóa xã hội và cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa. Giao lưu và tiếp biến văn hóa vừa là kết quả của sự trao đổi văn hóa, vừa là chính bản thân của sự trao đổi ấy, do đó sự giao lưu tiếp biến văn hóa có một tầm quan trọng trong lịch sử nhân lọai.
Giao lưu văn hóa là quy luật tồn tại và phát triển của mọi nền văn hóa và mọi xã hội từ xưa đến nay. Xét về thực chất, giao lưu văn hóa chính là sự tác động qua lại biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát triển. Trong đó, các yếu tố nội sinh, mà trung tâm là con người giữ vai trò chủ thể có ý nghĩa quyết định trong việc định hướng mối quan hệ của chúng với các yếu tố ngoại sinh.
Lịch sử các nền văn minh của nhân loại cho thấy: không có một nền văn hóa nào dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu lại có thể liên tục phát triển trong một địa bàn khép kín, biệt lập, tách rời sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Vì vậy, giao lưu văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển của một nền văn hóa. Một nền văn hóa không thể tồn tại một cách “tự cấp, tự túc” được mà trong quá trình phát triển của lịch sử đất nước không thể tránh khỏi những cuộc giao lưu tiếp xúc ở mức độ nhiều hay ít.
Nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu như Jean Cazeneure, Roger Bastide hay Richley H Crapo đã nghiên cứu những diễn biến trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, trong đó Richley H Crapo đã đưa ra quan điểm của ông về Quy luật thống trị văn hóa (Law of cultural dominence).
Trong Quy luật thống trị văn hóa của Richley H Crapo, Ông đã chỉ ra những nguyên nhân, bản chất của vấn đề “diệt tộc” – đó là sự hủy diệt có hệ thống một lối sống cổ truyền và “diệt chủng” là tận diệt có hệ thống một dân tộc bằng công cụ văn hóa.
Đây chính là lời cảnh báo có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với các dân tộc trên thế giới trong quá trình giao lưu, hội nhập kinh tế thế giới, trong đó phải luôn cảnh giác với âm mưu “đồng hóa” và dẫn đến việc “toàn cầu hóa” về văn hóa.
Từ giữa thập niên 70 thế kỷ XX đến nay, khái niệm “toàn cầu hóa” bắt đầu được đề cập một cách rộng rãi. “Toàn cầu hóa” (globalization) là một khái niệm đã được sử dụng trên nhiều lĩnh vực và có nhiều định nghĩa khác nhau tùy theo cách sử dụng khái niệm này cho một lĩnh vực cụ thể nào đó. Chẳng hạn, khi nhấn mạnh tính chất chung của toàn cầu hóa, người ta xem toàn cầu hóa là sự xâm nhập của cả thế giới vào mọi lĩnh vực của đời sống nhân lọai trên phạm vi toàn cầu. Còn nếu đặt trọng tâm của vấn đề vào lĩnh vực kinh tế thì có thể xem toàn cầu hóa như là một sự liên kết của nhiều nước cùng trong chiều hướng phát triển chung, cùng tham gia họat động trong một thị trường chung”(4). Tóm lại, toàn cầu hóa là sự hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là một xu hướng phát triển mới tất yếu, khách quan, hợp quy luật và không thể đảo ngược của thời đại. Xu hướng vận động mới này của xã hội chứa đựng các cơ hội và thách thức quan trọng vào bậc nhất đối với mọi quốc gia hiện nay.
Toàn cầu hóa đã và đang đặt ra trước các quốc gia một thách đố, hoặc là hội nhập để thích nghi và tồn tại, bằng không thì coi như bị loại trừ, bỏ rơi. Chính vì vậy, việc thừa nhận xu thế toàn cầu hóa như một hiện tượng tất yếu, khách quan trong lịch sử phát triển xã hội của nhân loại là cần thiết. Từ nhận thức đó, mỗi quốc gia, dân tộc tự tìm cho mình định hướng giá trị đúng đắn trong việc tham gia vào quá trình này nhằm mục đích bảo tồn và phát triển các giá trị truyền thống của mình đồng thời góp phần làm phong phú thêm đặc điểm văn minh của toàn nhân loại với tư cách là hệ quả của sự tiếp biến văn hóa.
2. Tính hai mặt của toàn cầu hóa trong quá trình giao lưu văn hóa:
Chính sách “toàn cầu hóa” của chủ nghĩa tư bản trong nửa sau thế kỷ XX diễn ra trong bối cảnh có hai hệ thống xã hội thế giới đối lập nhau về ý thức hệ trên phạm vi toàn cầu (5). Vì vậy chính sách “toàn cầu hóa” của chủ nghĩa tư bản mang màu sắc chính trị rất điển hình : một mặt chủ nghĩa tư bản “tranh thủ lòng dân” và tranh thủ các nước, các dân tộc, trong phạm vi ảnh hưởng của họ làm đối trọng với hệ thống xã hội chủ nghĩa ; mặt khác chủ nghĩa tư bản thực thi chính sách “đóng chặt cửa” đối với lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh tế với các thành viên cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Một chính sách thực dân khác cũng đã được thực thi tại nhiều khu vực là lấy kinh tế làm vũ khí viện trợ và gây sức ép với các nước phụ thuộc họ chống lại nước khác không phải là đồng minh, mà là kẻ thù của họ, họ quyết tâm dùng mọi biện pháp, bất chấp mọi thủ đọan để xóa sổ nước này.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa tăng tốc và mở rộng gần như không biên giới, chính sách phát triển toàn cầu của chủ nghĩa tư bản hình thành ngay sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, mục tiêu chiến lược lâu dài của họ nhằm thực hành sự cai trị toàn diện trên thế giới. Nói một cách chính xác hơn là sự cai trị của các giới tài phiệt tư bản thông qua các tập đòan, công ty xuyên quốc gia – các tập đòan kinh tế – tài chính – ngân hàng siêu cường Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu.
Chính sách phát triển toàn cầu của chủ nghĩa tư bản đã cho ra đời những tổ chức tài chính, thương mại quốc tế như : Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) là hai thể chế do Mỹ nắm vai trò chi phối, bằng thể chế tài chính của mình họ đã can thiệp sâu vào tình hình kinh tế xã hội của các nước khi cần đến tiền của họ; Hiệp định thuế quan thương mại (GATT) hay còn gọi là vòng đàm phán Uruguay, tiền thân của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày nay. GATT đã qua tám vòng đàm phán và kết quả của vòng đàm phán cuối cùng là chuyển GATT thành một tổ chức mới WTO, từ 1995 đến nay WTO kế tục mở rộng ra cả thương mại hàng hóa, dịch vụ và sở hữu trí tuệ, chi phối đến hơn 90% tổng kim ngạch toàn cầu. Đây là những công cụ đắc lực đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy và bảo đảm tiến trình toàn cầu hóa.
Việc toàn cầu hóa thị trường và những tiến bộ vượt bậc của hệ thống thông tin làm cho các dân tộc với những nền văn hóa khác nhau trên thế giới thường xuyên tiếp xúc với nhau hơn. Song, cũng cần nhận thức rằng thành tựu mang tính thời đại này cũng có tính hai mặt của nó. Trước hết, trong giao lưu văn hóa quá trình toàn cầu hóa làm cho sự giao lưu văn hóa thường xuyên và cập nhật hơn. Thế kỷ thông tin được coi là tài nguyên quý báu không thể thiếu được của sự phát triển. Mạng thông tin máy tính toàn cầu, một công cụ lợi hại giúp các quốc gia chia xẻ kho tàng trí tuệ chung của nhân lọai. Mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về sự “đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của nhân loại” (6).
Sự phát triển về kinh tế do toàn cầu hóa đem lại sẽ khó tránh khỏi những đòi hỏi thay đổi về chính trị đối với nhiều quốc gia, thậm chí biến đổi cả về xã hội – văn hóa. Lối sống cũng phải thay đổi để thích nghi và phù hợp với xã hội hiện đại. Văn hóa truyền thống mỗi dân tộc đứng trước nguy cơ bị hòa tan và xói mòn…
Nguy cơ nói trên càng tăng lên gấp bội khi một vài siêu cường nào đó tự xem nền văn hóa của mình là ưu việt, tối thượng, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ muốn áp đặt các giá trị, các tiêu chuẩn của mình cho nhiều dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi thẳng ra là “xâm lược văn hóa” với nhiều biện pháp trắng trợn hoặc tinh vi. Nhà văn Bungari N. Khaitốp đã viết: “Nỗi đau chủ yếu không phải là tình trạng khốn đốn vì kinh tế. Đất đai Bungari giàu có, con người cần cù, thông minh còn đó… Sự đồng hóa về mặt tinh thần, đó mới là nguy cơ đang đe dọa chúng tôi, tiếng Bungari đang bị lấn át, lịch sử dân tộc đang bị sàm báng, nền văn hóa dân tộc đang bị phá hủy. Cái gọi là những giá trị phương Tây đang xâm nhập ồ ạt và công khai. Quá trình giao lưu đang xảy ra mạnh mẽ giữa một bên là nền văn hóa chân chính của dân tộc Bungari và một bên là sự tác động mạnh mẽ của bên ngoài. Học sinh Bungari đang được giáo dục thành “người của thế giới” (7).
Văn hóa Coca Cola cũng đã và đang thích ứng với giới trẻ Việt Nam, Coca Cola, lọai thức uống nhanh du nhập từ phương Tây, thực chất Coca Cola có hại cho sức khỏe bởi vì: chúng chỉ giải khát bề ngòai, làm ngưng sự đổ mồ hôi, người tiêu thụ lọai nước uống có gaz này cảm thấy khác thường lại muốn uống nữa, các thành phần hóa học chứa đựng trong những đồ uống này không có tác dụng tốt đối với cơ thể so với những đồ uống có chất nền thực vật. Hơn nữa, những đồ uống giả tạo này có xu hướng làm cho cư dân như người Việt quên dần thói quen truyền thống là thích uống nóng, uống những lọai nước tự nhiên như trà, rễ tranh, sữa đậu nành… Những lọai nước có gaz phải được uống thật lạnh với nhiều nước đá : hậu quả là trẻ em tiêu thụ nhiều lọai nước uống này về mặt vật chất không tốt cho sức khỏe, còn về tinh thần nó “diệt tộc” văn hóa. “Vì tạo nên thói quen “uống thức uống nhanh”, người dân mất dần tập quán pha trà, uống trà nóng trong bộ ly tách truyền thống. Mất thói quen pha trà sẽ kéo theo sự mất đi nhiều nếp sống văn hóa truyền thống trong cuộc sống người Việt.” (8)
Có thể nói phong cách pha trà, uống trà truyền thống như yếu tố văn hóa nội sinh, còn nước ngọt Coca Cola như yếu tố ngọai sinh từ bên ngòai thâm nhập vào và dần dần chiếm ưu thế trong thức uống, vô hình đã tạo nên sự “diệt tộc” thực sự. Tại Việt Nam, thực vật bản địa dùng chế biến đồ uống bị lãng quên để làm lợi cho các sản phẩm đồ uống nhập khẩu. “Sự xâm lăng của Coca Cola đánh dấu một sự san bằng về mặt văn hóa, mang hình ảnh một xã hội khác, đó là sự thực dân hóa phong tục, được biểu hiện ngay trong những chi tiết nhỏ nhất của đời sống hàng ngày. Chính đó là sự “diệt tộc” mà hậu quả xót xa là sẽ dần dần xóa đi mọi cá tính, nét đặc trưng bản sắc của một dân tộc. (9)
Tình trạng diệt tộc văn hóa sẽ xảy ra nếu ta cứ tiếp tục “đánh mất bản sắc, đặc trưng văn hóa của chính mình”.
Liên quan đến diệt tộc là diệt chủng, Richley H. Crapo cho rằng sự phá hủy một nền văn hóa là việc thực hành diệt chủng, là sự hủy diệt có hệ thống một dân tộc.
Theo một báo cáo mới có kèm bản đồ vừa được tổ chức bảo tồn quốc tế WWF nêu rằng: “Trong vòng một thế kỷ, thế giới đã mất đi khỏang 600 ngôn ngữ. Ngày nay, một nửa trong số 6000 ngôn ngữ cũng đang diệt chủng hoặc có nguy cơ “tuyệt chủng” cao. Với tốc độ hiện nay, 90% các ngôn ngữ sẽ biến mất trong thế kỷ 21”, đa số chúng là những ngôn ngữ được những người bản địa sử dụng. Thủ phạm gây ra sự “tuyệt chủng” này là gì? Đó là những “yếu tố văn hóa ngọai sinh”, là sản phẩm của văn minh công nghệ, là sự bành trướng của truyền thống toàn cầu và những phương diện khác của toàn cầu hóa. (10)
Sự tuyệt đối hóa những lợi thế về kinh tế và sự tuyệt đối hóa các giá trị kinh tế, coi đó là cốt lõi của giá trị “hiện đại hóa” và “toàn cầu hóa” của các nước phát triển, mà không tính tới các giá trị nhân văn, v.v… đang có khả năng trở thành xu thế chính sẽ tước mất của các dân tộc, các nhóm, các cá nhân ở các nước đang phát triển cơ hội bình đẳng, ngày càng đào sâu thêm vực thẳm phân hóa giàu nghèo.
Sự tuyệt đối hóa sức mạnh của trí lực, của khoa học kỹ thuật và công nghệ trong xu thế toàn cầu hóa đang vô hình tác động lên nhiều mặt, làm phá vỡ sự hài hòa môi trường xã hội, môi trường tự nhiên.
Xu thế toàn cầu hóa đang khơi dậy và thổi bùng các nhu cầu cá nhân của con người, đó là xu thế khách quan, nhu cầu “hướng ngoại”, “phương Tây hóa tuyệt đối” trở thành xu thế chính, nhất là ở các nước đang phát triển. Sự đơn giản hóa các nhu cầu, bỏ qua nhu cầu “hướng nội” thì đời sống tinh thần của con người sẽ đơn điệu và bị “sa mạc hóa”.
Xu thế toàn cầu hóa với sự bùng nổ thông tin, nhu cầu của con người làm cho mỗi người luôn bị căng thẳng bởi những đòi hỏi của hiện thực trước mắt, tức thời cấp bách. Vì vậy, dòng chảy của lịch sử từ quá khứ đến hiện tại hướng tới tương lai dường như bị “ngưng lại” bởi tính “thực dụng”, “thực tế”, “trần trụi”.
Nhận thức rõ những điều này, nhiều quốc gia trên thế giới đã xem xét lại vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc một cách nghiêm túc.
Ở các nước phương Tây, nói đến sự đối kháng với văn hóa Mỹ, không nước nào thực hiện quy mô lớn như Pháp. Bắt đầu từ năm 1989, Chính phủ Pháp đã tung ra chiến dịch vận động các nước trong cộng đồng Châu Âu (hiện là liên minh Châu Au) thiết lập cuộc chiến chống sự lấn sân thô bạo của văn hóa Mỹ như buộc các đài truyền hình phải chiếu ít nhất 40% phim trong nước. Canada ngẫu nhiên trở thành đồng minh của Pháp trong cuộc chiến văn hóa, vào tháng 6/1998, Canada đã tổ chức cuộc hội thảo tại Ottawa gồm 19 nước tham dự trong đó có Anh, Brazil và Mexico nhằm tìm ra đối sách chống lại sự xâm lăng của văn hóa Mỹ (11). Và gần đây nhất Hội nghị thượng đỉnh các nước công nghiệp phát triển (G-8) tổ chức hàng năm cũng là dịp để các nhà họat động xã hội tổ chức các cuộc biểu tình chống mặt trái của toàn cầu hóa. Ngày 01. 06. 2003, hàng chục ngàn người biểu tình chống toàn cầu hóa đã bao vây các tuyến đường cao tốc dẫn đến nơi diễn ra hội nghị thượng đỉnh G-8 ở Evian, họ hô cao khẩu hiệu: Hãy dừng ngay: G-8 nguy hiểm. Họ buộc tội G-8 lũng đọan kinh tế làm ngơ trước người nghèo (12). Ở Bolivia, người dân nghèo không tin vào toàn cầu hóa, họ biểu tình chống toàn cầu hóa, khẩu hiệu trong các cuộc biểu tình là: Không xuất khẩu khí đốt và các nguồn tài nguyên khác, không có tự do thương mại, không toàn cầu hóa dưới bất kỳ hình thức nào. Đại đa số 8 triệu dân Bolivia là người gốc da đỏ, Cách đây 2 thập niên, Bolivia theo chế độ thị trường tự do, người ta bán ồ ạt các công ty nhà nước. Những quy định của chính phủ bị buông lỏng theo tinh thần tất cả vì một khẩu hiệu “Kỷ nguyên mới tăng trưởng và thịnh vượng” (13). Các chính sách này đã giảm tỷ lệ lạm phát, nhưng mặt khác người dân không được hưởng lợi. Hậu quả là tỷ lệ người nghèo ngày càng tăng, hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng sâu, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đẩy Bolivia trở thành nước nghèo nhất khu vực Nam Mỹ. Những chính sách về thị trường tự do đối với nhiều người nghèo Bolivia trở nên rất xa lạ. Theo họ, chính sách này chỉ mang lại lợi ích cho các nước giàu và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của họ.
Ở phương Đông, Trung Quốc hô hào chống ô nhiễm tinh thần; Nhật Bản tổ chức các cuộc họp khu vực châu Á bàn về văn hóa dân tộc; ở Singapore, chính quyền áp dụng chiến lược đa sắc tộc hướng mọi sắc tộc đồng sức để xây dựng nên một bản sắc dân tộc. Ở Việt Nam chúng ta, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nói rõ quan điểm: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường”.
Trước những thách thức của toàn cầu hóa, phương án tối ưu cho nền văn hóa dân tộc là kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị phương Tây và các giá trị của nền văn hóa khác nhằm hiện đại hóa văn hóa để có thể trở thành nền tảng tinh thần, động lực của hiện đại hóa.
Tuy nhiên chúng ta cũng không nên chỉ quá chú trọng đến tính tiêu cực của toàn cầu hóa mà không nhìn nhận đến khía cạnh tích cực của nó. Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và thông tin phát triển như vũ bão thì toàn cầu hóa là một xu hướng tất yếu, một quy luật tồn tại để phát triển. Xét ở góc độ kinh tế, việc tham gia vào quá trình toàn cầu hóa sẽ tạo ra những cơ hội mà các nước đang phát triển có thể tận dụng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống người dân, tiến đến tự do thương mại và đầu tư. Quá trình này sẽ làm cho các rào cản đối với trao đổi thương mại và đầu tư sẽ bị lọai bỏ dần, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngòai, đồng thời kết hợp phát huy các nguồn lực bên trong tạo một sức mạnh tổng hợp nhằm phát triển nội lực vốn có của mình.
Bên cạnh đó, quá trình tự do thương mại và đầu tư không những góp phần mở rộng hơn các dịch vụ của chính phủ, làm giảm giá hàng hóa, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, góp phần tăng thu nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn mở ra cho các doanh nghiệp một môi trường cạnh tranh lành mạnh và tự do, kích thích mỗi doanh nghiệp phải không ngừng hòan thiện và phát triển để tăng cường khả năng cạnh tranh của mình trong môi trường mới.
Ngòai ra, chính sách tự do hóa thương mại và đầu tư còn có những tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống tài chính và nền kinh tế quốc gia. Việc liên doanh, liên kết các công ty đa quốc gia lại chính là một đối trọng chống lại tiến trình, xu thế thâu tóm quyền thống lĩnh thế giới về một quốc gia có sức mạnh về kinh tế nhất. Toàn cầu hóa cũng là một đối trọng chống lại thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Nó là công cụ để phá tung bức rào ngăn chặn dòng suối văn hóa tri thức của nhân lọai đến với tất cả các quốc gia, dân tộc trên hành tinh này, mang lại cho họ những tri thức, hiểu biết và tiến bộ.
Ngày nay, trên thế giới có không ít những vấn đề lớn vượt ra khỏi tầm kiểm sóat của một quốc gia riêng lẻ, ví dụ như vấn đề môi trường, vấn đề gia tăng dân số, vấn đề bệnh tật, vấn đề nhân quyền, vấn đề an ninh… Và chính quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sẽ giúp các quốc gia tạo được một sức mạnh tập thể để có thể giải quyết thỏa đáng những vấn đề này.
Văn hóa chung của nhân loại là do văn hóa riêng của các quốc gia cộng đồng hợp thành. Trong mỗi nền văn hóa ấy có những giá trị chung, giá trị riêng, độc đáo, mang đậm đà bản sắc riêng và có cả những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, thậm chí phản nhân văn cần phải gạt bỏ, vượt qua.
Bất cứ nền văn hóa của dân tộc nào trên thế giới đang tồn tại cho đến ngày nay đều bao chứa trong đó những giá trị truyền thống, mang sắc thái của dân tộc mình. Trong quá trình phát triển lịch sử, các giá trị truyền thống bị biến đổi theo những đòi hỏi của sự phát triển sản xuất và đời sống xã hội. Bản thân cuộc sống của các dân tộc luôn luôn tự sàng lọc, gạt bỏ, làm phong phú thêm các giá trị truyền thống. Các giá trị truyền thống này không hề đứng yên và bất biến, mà trái lại luôn năng động, tiến triển, được tái sinh và sáng tạo, đổi mới liên tục. Ở những thời kỳ tiến triển mạnh mẽ của lịch sử, vào những thời điểm chuyển giao thời đại, hệ các giá trị truyền thống có những thay đổi mạnh mẽ; có những giá trị bị gạt bỏ, có những giá trị đựơc duy trì, bổ sung làm phong phú thêm; và cũng có những giá trị mới ra đời, hoặc được tiếp nhận từ bên ngoài.
Xử lý mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và các giá trị truyền thống nói riêng văn hóa các dân tộc nói chung theo Tiến sĩ khoa học Lương Việt Hải (Viện Triết học)14, cần phải tuân theo ít nhất ba nguyên tắc (phương châm) cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Việc giữ gìn và bảo vệ các giá trị truyền thống là một đòi hỏi của bản thân cuộc sống, của sự tồn vong quốc gia dân tộc trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa nói chung. Nhưng việc giữ gìn, bảo vệ các giá trị truyền thống ấy, một mặt, phải giữ được bản sắc dân tộc; mặt khác, không được để rơi vào thái cực bảo thủ, không chịu thay đổi cho phù hợp với những điều kiện lịch sử đang thay đổi, các giá trị truyền thống cũng phải được hiện đại hóa.
Chấn hưng văn hóa dân tộc nói chung, các giá trị truyền thống nói riêng, đổi mới chúng tạo ra sự kế thừa và phát triển liên tục, tránh được sự đứt gãy theo kiểu “sốc” trong đời sống văn hóa và các bậc thang giá trị là một công việc rất tế nhị, nhạy cảm, có vai trò đặc biệt trong việc giữ gìn sự ổn định đời sống tinh thần của xã hội. Đó cũng chính là điều kiện để hội nhập mà không hoà tan hay đánh mất bản thân mình. Giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống đồng thời đổi mới chúng là chuẩn bị sức mạnh cho văn hóa truyền thống bước vào hội nhập. Làm tốt việc đó thì văn hóa sẽ vững vàng trong vòng xoáy của cơn lốc toàn cầu hóa.
Hai là, phát huy nội lực đồng thời với việc mở rộng giao lưu, học hỏi bên ngoài. Trước hết, nếu không giữ gìn và phát triển các giá trị truyền thống thì không có cơ sở nội tại cho việc tiếp thu các giá trị mới từ bên ngoài. Nói cách khác, một khi nội lực bên trong chưa đủ sức mạnh thì khả năng tiếp thu ngoại lực sẽ rất hạn chế. Hơn thế nữa, chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống mới có thể hy vọng mang những đóng góp riêng của mình vào nền văn hóa chung trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa.
Việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống đồng thời với việc mở cửa, giao lưu, chủ động tiếp thu và hội nhập với bên ngoài. Trong điều kiện toàn cầu hóa ngày nay, chấn hưng, phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc hoàn toàn đối lập với bảo thủ, đóng cửa. Thời đại ngày nay không cho phép làm việc đó và cũng không khôn ngoan nếu cố tình đóng cửa, bởi không một ai, không một dân tộc nào có thể sống đơn độc, tách biệt trong xu thế toàn cầu hóa của thế kỷ XXI. Nếu đóng cửa, không chủ động giao lưu, học hỏi, chúng ta sẽ không thể phát triển và ngày càng tụt hậu.
Nhưng như đã nói, khi mở cửa trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, sẽ có cả cái xấu, cái tốt cùng đến với chúng ta. Vấn đề là phải đủ mạnh, đủ tỉnh táo, sáng suốt, đủ kiến thức, trình độ để tiếp nhận đúng cái tốt, các giá trị đích thực và ngăn chặn, hạn chế các giả giá trị, phản tiến bộ. Nếu đóng cửa, chúng ta cũng không thể tránh khỏi toàn cầu hóa và sẽ ngày càng tụt hậu, nhưng mở cửa mà không suy nghĩ tỉnh táo, sáng suốt cũng sẽ thất bại.
Ba là, trong giao lưu, hội nhập phải tích cực chống âm mưu đồng hóa, xóa nhòa văn hóa truyền thống dân tộc. Như đã nói, toàn cầu hóa trong điều kiện hiện nay, vừa là cơ hội vừa là thách thức. Nó mang đến cả những giá trị phản nhân văn của chủ nghĩa cá nhân cực đoan và những âm mưu áp đặt văn hóa, xóa bỏ những giá trị truyền thống bản địa, làm mất bản sắc riêng của dân tộc. Đó là một trong những thách thức của toàn cầu hóa. Vượt qua thách thức đó chỉ có thể bằng cách duy nhất là gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc , trên cơ sở hiểu biết và nhận thức đầy đủ giá trị của các nền văn hóa khác để tiếp thu có chọn lọc và thực hiện tiếp biến văn hóa một cách chủ động, không đánh mất mình mà làm phong phú thêm cho đời sống riêng của cộng đồng dân tộc.
3. Kết luận:
Chúng ta đang đứng trước những thử thách lớn diễn ra ở nhiều nơi. Thông qua công nghệ, văn hóa đã thâm nhập vào nhau giữa các nước. Có những nước do thiếu tinh thần tự chủ trong tiếp thu văn hóa nước ngoài đã để diễn ra trong nước mình một sự pha trộn văn hóa, pha trộn lối sống. Văn hóa dựa vào những thu nhập có tính chất thương mại đã động chạm, thậm chí làm xiêu vẹo gốc rễ của nó trong tư cách động lực và mục tiêu của phát triển. Nhiều thanh niên ở những nơi đó đã trở thành “thượng đế” trong các thị trường văn hóa và kết quả là sự hư hỏng trong cách sống, cách sinh hoạt đã làm di hại đến truyền thống dân tộc, đảo lộn những mục tiêu ban đầu của văn hóa.
Sự toàn cầu hóa về văn hóa đã đưa lại cho các dân tộc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đồng thời cũng có thể đưa đến những mặt trái, mặt tiêu cực của nó. Vấn đề là phải chọn lọc tiếp thu cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên). Giá trị truyền thống trước những thách thức.- H.: CTQG, 2002
- Người nghèo Bolivia không tin vào toàn cầu hóa. Báo SGGP, Thứ Bảy, 18/10/2003
- Ngô Đức Thịnh, Giao lưu văn hóa…, Tạp chí Dân tộc học, số 2, 1984, tr. 39
- Phan Thị Yến Tuyết. Các bài giảng, đề cương chuyên đề Giao lưu và tiếp biến văn hóa.
- Trần Ngọc Thêm, Tìm vể bản sắc văn hóa Việt Nam, H. : Nxb Tp. HCM, 2001
- Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, H. : Nxb Giáo dục, 1997, tr. 50
- Trần Nhu. Những bài học của ASEAN trong quá trình gia nhập toàn cầu hóa. Báo cáo hội thảo khoa học về Toàn cầu hóa
- Trường Lưu. Hợp tác và giao lưu văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa // Tạp chí Văn hóa nghệ thuật .- Số 10, 2002.
- Văn hóa Việt Nam truyền thống và hiện đại (nghiên cứu của các giáo sư chuyên gia về văn hóa). – H.: nxb Văn hóa
CHÚ THÍCH
(1) Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 2, tr. 118
(2) Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, tr. 51 - 52
(3) Ngô Đức Thịnh, Giao lưu văn hóa, Tạp chí Dân tộc học, số 2, 1984, tr. 39
(4) Đỗ Lan Hiền. Giá trị truyền thống trước những thách thức, tr. 78
(5) Trần Nhu. Những bài học của ASEAN trong quá trình gia nhập toàn cầu hóa. Báo cáo hội thảo Toàn cầu hóa
(6) Phát biểu của Tổng giám đốc UNESSCO – Federico Mayor tại lễ phát động “Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa” ngày 21/01/1988 tại Paris
(7) Hòang Trinh. Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa. Tr. 114
(8) Phan Thị Yến Tuyết, Đề cương bài giảng chuyên đề Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa
(9) Phan Thị Yến Tuyết, Đề cương bài giảng chuyên đề Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa
(10) Mạnh Kim. Khỏang cách trong nền văn hóa toàn cầu. Báo SGGP, xuân Kỷ Mùi
(11) A.T. Trước Hội nghị G-8 Hàng chục ngàn người biểu tình chống toàn cầu hóa. Báo SGGP, Thứ Hai, 2/6/03
(12) Mạnh Kim. Khỏang cách trong nền văn hóa toàn cầu. Báo SGGP, xuân Kỷ Mùi
(13) Người nghèo Bolivia không tin vào toàn cầu hóa. Báo SGGP, Thứ Bảy, 18/10/03
(14) Giá trị truyền thống trước những thách thức, Tr. 262
(Nguồn: Báo cáo trình bày tại Hội nghị Khoa học Trẻ năm 2003)