Là biểu hiện của một trong các trào lưu suy nghĩ về thế giới hóa (có hay không sự thuần nhất hóa thế giới), các cuộc tranh luận hiện nay về thống nhất hóa văn hóa trước hết nhằm vào sự lan tỏa trên quy mô thế giới của các sản phẩm văn hóa Mỹ (điện ảnh, các phương tiện truyền thông đại chúng, internet, mà cả bánh mì nhồi thịt và Coca Cola, theo một cách đầy tranh cãi ở Pháp). Để chứng minh sự chấp nhận rộng rãi câu hỏi ấy, nhà chính trị học Mỹ Benjamin Barber cho rằng hiện đang xuất hiện một văn hóa thế giới, được thúc đẩy bởi các công ty toàn cầu, được truyền đi bởi một đội tiên phong đô thị và thế giới hóa. Thứ văn hóa được ông gọi là video học ấy, dường như trong mắt ông "được quy thành trạng thái hàng hóa, trong đó chiếc áo choàng làm nên thầy tu, cách nhìn trở thành hệ tư tưởng"(1). Nếu, như B.Barber nói, sự suy nghĩ công cộng gắn liền tất cả các mặt của văn hóa (cách ăn, văn chương cao, điện ảnh,...) thì phía các chuyên gia, chủ yếu là các nhà nhân học, xã hội học và địa lý học, lại cố tránh những quan niệm quá rộng ấy.
Làng hành tinh
Vấn đề toàn cầu hóa các văn hóa ban đầu có từ những giấc mơ không tưởng về xã hội toàn thế giới trong các TK XVIII và XIX. Nó được nhấn mạnh ở mỗi bước tiến lớn về công nghệ giao thông liên lạc (đường sắt, điện tín, điện thoại, liên lạc vô tuyến, điện ảnh, truyền hình và, cuối cùng, internet). Người ta cũng đặt ra vấn đề về sự cáo chung của các văn hóa riêng biệt, do gia tăng những sự giao tiếp từ TK XIX ở châu Âu. Nhưng chính vào TK XX mà vấn đề về sự biến đổi nhất là về sự thống trị của các văn hóa địa phương tăng lên. Từ đầu thế kỷ này, công nghiệp văn hóa Mỹ và những sản phẩm tiêu dùng của nó đã lan truyền, và những người bảo vệ trình độ văn hóa cao về văn chương, âm nhạc và khoa học của châu Âu, từ những năm 30, đã báo động về sự Mỹ hóa được coi ngang với một sự thoái hóa văn hóa. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong những năm 60 TK XX, sức mạnh công nghiệp điện ảnh Mỹ và, nói chung hơn, của sự lan truyền một số sản phẩm Mỹ điển hình, như bánh nhồi thịt hay Coca Cola, ngày càng bị tố cáo. Trong những năm 60 và 70 TK XX, người ta đồng thời chứng kiến sự tăng lên của những suy nghĩ về xã hội toàn cầu dưới ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng và của cuộc cách mạng truyền thông. Nhà xã hội học Canada Marshall Mc Luhan tiên đoán sự xuất hiện một kiểu xã hội mới, trong đó mỗi người sẽ biết được chuyện gì xảy ra ở đầu kia hành tinh (2). Ông cho rằng sự phổ biến truyền thông đại chúng sẽ làm giảm bớt những căng thẳng quốc tế và tạo ra "sự thâu tóm toàn bộ đại gia đình loài người vào một bộ lạc người duy nhất". Ông coi chiến tranh Việt Nam là sự minh họa cho ý kiến của ông, vì trong cuộc chiến tranh đánh thẳng đầu tiên ấy, dư luận Mỹ sẽ đóng vai trò then chốt.
Nhiều nhà tư tưởng hàng đầu của Mỹ lấy lại ý tưởng cho rằng các phương tiện truyền thông và các công nghiệp truyền thông là những nhân tố hiện đại hóa và giải phóng. Vào những năm 70 bản lề, cố vấn tương lai của Jimmy Carter là Zbignew Brzezinski cho rằng nước Mỹ đang bước vào kỷ nguyên văn minh kỹ thuật điện tử, trong đó tính phức hợp văn hóa và xã hội tăng lên mạnh mẽ và sẽ nhìn thấy hiện lên những quy mô thế giới đặc thù. Ông nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ là "xã hội thế giới" (société monde) đầu tiên, vì nó là nguồn gốc của phần lớn các luồng truyền thông và nó có một văn hóa và một hệ tư tưởng toàn cầu hóa. Thật vậy, chính hệ tư tưởng tự do và thương mại đến từ nước Mỹ đã cho phép nền kinh tế, từ những năm 80 TK XX, gây nên một sự thống nhất hóa thế giới về các chuẩn mực, các tài sản và sự lưu thông của chúng. Thương mại và công nghiệp thay đổi về quy mô. Tiêu dùng tăng lên, các sản phẩm không ngừng mở rộng và đa dạng hóa.
Điều xảy ra trong những năm 80 và 90 trên phạm vi ba thị trường lớn của hành tinh (Hoa Kỳ, châu Âu, châu Á - Thái Bình Dương) giống với điều xảy ra trong những không gian dân tộc ở các TK XIX và XX. Ở châu Âu, người ta chứng kiến một sự quy chuẩn hóa tương đối về tiêu dùng, một sự hội tụ của những ứng xử vì các lối sống trở nên giống nhau, nhưng không phải là một sự đồng nhất hóa văn hóa hay sự từ bỏ những tín ngưỡng riêng của mỗi xã hội (3). Từ đầu những năm 80, Armand Mattelart nhấn mạnh, người ta chứng kiến một phong trào phi đại chúng hóa lan khắp, coi những công ty lớn phát triển những sản phẩm riêng của mình như những ổ tiêu dùng xuyên quốc gia, "nghĩa là những tập hợp cá nhân rộng lớn cũng có những điều kiện sống, những hệ giá trị, những sở thích, những chuẩn giống nhau, vượt khỏi những biên giới quốc gia"(4).
Có liên hệ trực tiếp với toàn cầu hóa kinh tế, đặc biệt với cuộc cách mạng truyền thông, suy nghĩ về đồng nhất hóa văn hóa được đẩy nhanh một cách nổi bật trong những năm 90. Trong chiến tranh vùng Vịnh, đài CNN là biểu hiện rực rỡ của việc lan truyền gần như khắp hành tinh những hình ảnh và thông tin liên tục. Mười năm sau, CNN trở thành bộ phận của một tổ hợp vô cùng rộng lớn, được xây dựng bằng những sự sáp nhập liên tục: Time - Warner - AOL...
Chiến thắng của những nhóm lớn
Lịch sử của Time - Warner - AOL minh họa cho sự phát triển của những nhóm truyền thông thế giới lớn trong thập kỷ vừa qua, kết quả của những tiến bộ kỹ thuật chưa từng có (truyền hình cáp, điện thoại, tin học, vệ tinh...) cũng như của sự phi quy tắc hóa mở đầu bằng chính sách của Reagan và được theo đuổi ở tất cả các nước bằng việc từ bỏ những độc quyền nhà nước về thông tin và các công nghiệp văn hóa. Ngày nay, tổ hợp này có tới 350 triệu USD tư bản hóa chứng khoán, hơn 32 tỷ USD doanh thu và 82000 người làm công. Những nhóm truyền thông đa phương tiện nhỏ hơn cũng đã được thành lập. Hoạt động của chúng được triển khai trong toàn bộ các ngành sản xuất và truyền bá văn hóa (âm nhạc, truyền hình, điện ảnh và, tất nhiên, internet). Nhóm truyền thông của Ruppert Murdosch hiện diện trong truyền hình, nhất là với Sky TV ở Anh và Fox TV ở Hoa Kỳ, cũng như trong điện ảnh với 20th Century Fox, trong xuất bản với Harper & Collin, và trong báo chí (khoảng hai mươi tiêu đề ở Australie; Times, Sun của Anh,...).
Các nhóm truyền thông chủ yếu là của Mỹ, tuy có một vài nhóm của châu Âu cũng phát triển (Bertelsmann, Vivendi...). Điện ảnh Hollywood và những sản phẩm âm nhạc Mỹ được truyền bá khắp hành tinh, đặc biệt vì chúng có thể được khấu hao lần đầu tiên ở Mỹ và ở Canada (300 triệu người tiêu dùng).
Bộ phim Titanic, chẳng hạn, là thành công lịch sử lớn nhất của công nghiệp điện ảnh Mỹ ở nước ngoài (1,8 tỷ USD tiền lãi). Giống như những bộ phim Hollywood khác, nó là một thành công ở Hoa Kỳ trước khi tỏa rộng ra thế giới. Bất chấp sự thống trị công nghiệp và sáng tạo ấy, trên thế giới vẫn có những cứ sản xuất văn hóa khác và đôi khi chúng chọi ngang hàng với những sản phẩm Mỹ. Người ta đã biết tới những truyện chiếu dần trên truyền hình Brésil Globo, nhưng đó cũng là trường hợp của Ai Cập hay của châu Á với một nền sản xuất nghe nhìn khổng lồ của Ấn Độ, nền sản xuất lớn nhất hành tinh về khối lượng (5).
Trường hợp Ấn Độ còn minh họa những giới hạn ảnh hưởng của các công nghiệp văn hóa phương Tây (6). Người Ấn Độ tiêu dùng sản xuất điện ảnh và âm nhạc bản địa nhiều hơn những sản phẩm Mỹ: năm 1999, trong số 2200 bộ phim được phát ra, có 2000 của Ấn Độ và 200 bộ phim nhập khẩu. Còn về truyền hình, vào đầu những năm 90, sự cáo chung về độc quyền công cộng đã làm cho người ta sợ xảy ra một sự xâm chiếm của những chương trình anglo saxon. Nếu các hệ thống nước ngoài hiện vẫn còn, thì chúng chỉ chiếm một phần rất nhỏ khán giả (vài chục triệu người) và, hơn nữa, phải Ấn Độ hóa chương trình của chúng. Là một bức tranh ghép về văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, Ấn Độ nuốt chửng và tiêu hóa toàn bộ những ảnh hưởng bên ngoài.
Phần lớn những nhà quan sát ghi nhận rằng hiện tượng làm lại bối cảnh (recontextualisation) của những sản phẩm văn hóa Mỹ hay phương Tây ấy đang được thực hiện trong tất cả các xã hội ngoài phương Tây. Rất nổi bật ở châu Á, hiện tượng này mỗi nước một khác theo lịch sử và những nền tảng văn hóa địa phương. Nam Triều Tiên, một nước đặc biệt khép kín đối với những ảnh hưởng bên ngoài cho đến tận những năm 90 TK XX, sau đó đã diễn ra một sự bành trướng rất mạnh mẽ của những sản phẩm Mỹ (phim, fast food,...). Nhà địa lý Mỹ gốc Triều Tiên Yong Kim đã nghiên cứu quá trình này và chỉ ra rằng, chẳng hạn, sự sản xuất điện ảnh dân tộc (khoảng 100 phim mỗi năm) đã thống trị rộng rãi (7). Nhưng xu hướng này đột ngột đảo ngược lúc thực hiện việc bỏ điều tiết thị trường. Mười năm sau, sự thống trị của Mỹ đã hoàn tất: Triều Tiên nhập 233 phim Mỹ, 38 phim Hongkong, 77 từ các nước khác và sản xuất... 49 phim.
Thất bại của sản xuất điện ảnh Hongkong trước những bộ phim Hollywood, rất rõ ở Nam Triều Tiên từ giữa những năm 90 TK XX, cũng được ghi nhận trong toàn bộ Đông Á cùng thời kỳ này. Ở Nam Triều Tiên, nơi mà việc truyền bá các chương trình Nhật Bản bị cấm cho đến gần đây, thanh niên thích tiêu dùng những bộ phim Hollywood giống như ở phần lớn các nước công nghiệp hóa, nhưng không phải là những bộ phim chiếu ở châu Âu hay ở Hoa Kỳ! Đó chủ yếu là những bộ phim trong đó hiện lên những nhân vật cơ bắp cuồn cuộn (Sylvester Stalone, Bruce Willis, Anold Schwarzenegger...) rất được công chúng Triều Tiên ưa thích. Ngược lại, các phim hài không được người Triều Tiên ưa chuộng. Thanh niên thích thú Mộc Lan, nữ võ sĩ Trung Quốc của Walt Disney, nhưng thường thờ ơ trước thất bại của những con chó Đanmaxi của Anh cùng một công ty!
Ví dụ Triều Tiên thật có ý nghĩa. Sự chi phối của Mỹ xảy ra nhanh chóng khi thực hiện một sự tháo gỡ các thị trường dân tộc hạn chế (tuy rằng những ví dụ về Ấn Độ và Ai Cập đã nhấn mạnh rằng những đặc thù văn minh có thể tác động và làm thay đổi sơ đồ này). Trong tất cả các trường hợp, người ta chứng kiến một quá trình chiếm lĩnh, giải trí của những hình thức văn hóa nhập khẩu. Các nhà địa lý học và nhân học đồng ý với nhau khi nói tới sự lai tạo những hình thức văn hóa toàn thế giới.
Điện thoại và hình ảnh
Nhưng cái mới rất lớn của những năm 90 chắc chắn là sự truyền thông thành mạng, liên kết điện thoại, tin học và hình ảnh. Điều này trước hết là do giảm chi phí về lưu thông thông tin, do thay đổi các kỹ thuật (các dây cáp xuyên đại dương, vệ tinh, kéo theo một sự bùng nổ các luồng truyền thông: dây cáp xuyên Đại Tây Dương đầu tiên dành cho điện thoại được đặt năm 1956, còn dây cáp xuyên Thái Bình Dương thì được đặt năm sau, mỗi dây cáp cho phép thực hiện đồng thời hàng trăm cuộc giao tiếp. Năm 1996, 1.264.000 cuộc giao tiếp xuyên Đại Tây Dương đi qua các dây cáp, và 710.000 qua vệ tinh. Người ta tính có tới 864.000 cuộc giao tiếp xuyên Thái Bình Dương bằng dây cáp và 234.000 cuộc bằng vệ tinh (8).
Phần chủ yếu của sự giao dịch khổng lồ ấy được thực hiện giữa các nước giàu: 75% giao dịch bằng điện thoại trên thế giới được châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản chia nhau. Nếu lấy độ dài của những cuộc gọi điện thoại tính theo đầu người và theo năm làm đơn vị đo, một chỉ số hội nhập thế giới về mặt này theo các chuyên gia, người ta thấy đơn vị ấy là 36,6 phút năm 1995 đối với các nước OCDE, 7,8 phút tính trung bình cho toàn thế giới và chưa đầy một phút cho châu Phi dưới Sahara. Điều diễn ra đối với điện thoại cũng giống hệt đối với internet: có 544 triệu người sử dụng internet năm 2002 (trong đó 180 triệu ở Hoa Kỳ và Canada, 155 triệu ở châu Âu, 144 triệu ở châu Á và 65 triệu ở những nơi còn lại). Một trong những vấn đề gây ra bởi cuộc cách mạng về các mạng ấy, đặc biệt về sự bành trướng của internet, là sự thống nhất văn hóa, nhất là khi người ta tính rằng gần 40% thiếu niên ở các nước công nghiệp hóa là những người tiêu dùng internet, hay số lượng những người sử dụng internet đã tăng gấp ba trong ba năm. Đối với Joel de Rónay, người tự coi mình theo M.McLuhan, hiện nay người ta đang chứng kiến một sự đột biến thật sự: kiểu tiêu dùng cổ điển về thông tin, từ một bộ phát cho rất nhiều bộ thu, đang biến đổi giống như các quan hệ quyền lực đang biến đổi. Sự chống cự của các chế độ chuyên chế và các nước độc tài đối với việc sử dụng internet được coi như bằng chứng về hiệu ứng dân chủ của internet.
Dominique Wolton thì lại không gán cho internet một ảnh hưởng văn hóa và chính trị như vậy (9). Ông cho rằng thành công của nó tương ứng với lối sống và văn hóa đặc thù của các giới thượng lưu đô thị phương Tây. Nói chung, các nhà xã hội học giảm bớt ảnh hưởng văn hóa của internet và cho rằng (nhưng thiếu những nghiên cứu) năng lực giao tiếp đang tăng lên trên thực tế đã củng cố những liên hệ xã hội có trước đây. Điện thoại di động và internet dường như cho phép sự mở rộng các mạng xã hội hoặc nghề nghiệp của một cá nhân nhưng không phải là làm cho những mạng này tràn ngập.
Nồi chảo văn hóa
Trong những năm 90, ngày càng thấy rõ các nhà phân tích văn hóa và truyền thông đã giữ cân bằng ảnh hưởng xã hội học và văn hóa của cách mạng công nghệ đang diễn ra. Ý tưởng về một sự truyền bá tiếng Anh và các giá trị Mỹ ra khắp hành tinh bằng những hệ thống truyền hình đã bị thực tế thu hẹp đi nhiều: chính hệ thống CNN đã phải làm cho các chương trình của nó khác nhau theo từng vùng. Người ta nhớ rằng tiếng Anh đã vận hành như một linga franca của giới thượng lưu thương mại và khoa học, nhưng chưa bao giờ nằm trong giai đoạn phổ biến như ngôn ngữ giao tiếp rộng rãi giữa những cá nhân cả. Những phương ngữ đang bành trướng phần lớn là tiếng Hoa quan thoại, tiếng Hindu, tiếng Tây Ban Nha... do dân số ở các nước ấy.
Nếu nói theo nhà nhân học Jean Pierre Warnier, "thì những công nghệ mới có khả năng gây ra những ngôn ngữ phổ quát, toàn cầu hóa và không hề quan tâm tới sự hội nhập ồ ạt những dữ kiện tại chỗ"(10). Theo ông, người ta đang tái phạm sai lầm của những nhà lý thuyết về sự tiêu dùng đại chúng và sự hội tụ của các văn minh trong những năm 60, những người giống như Jean Baudrillard đã từng tố cáo sự tha hóa, sự đồng nhất hóa và xu hướng hời hợt trong tiêu dùng. "Khi các nhà tộc người học bắt đầu điều tra những tập quán tiêu dùng đương đại, họ đã phát hiện ra một quang cảnh rất khác với những tác giả hậu hiện đại trình bày", ông nói thêm.
Giống như ông, phần lớn các tác giả nhấn mạnh khả năng rất quan trọng về đổi mới và gá lắp của các cá nhân và các nhóm. Ở các nước phương Tây cũng như trên toàn thế giới, người ta thấy có những sáng tạo văn hóa thường xuyên. Có rất nhiều ví dụ như thế. Những sáng tạo này được thực hiện nhờ sự chọn lọc của các cá nhân về một sự lựa chọn xếp đặt các sản phẩm, các giá trị và các tập quán cho phép vừa đa dạng hóa vừa đồng nhất hóa của một nhóm hay một văn hóa. Chẳng hạn, hoàn cảnh của những người phụ nữ Californie, mà nhà báo Erla Zwingle của tờ National Geographic mô tả, đã xăm mình bằng lá móng từ hàng trăm năm nay, giống như những phụ nữ châu Phi, Ấn Độ hay Trung Đông đã làm khi kết hôn (11). Nhà báo nữ này hóm hỉnh nhận xét rằng bà đã nhìn thấy nghệ sĩ Pháp Pascal Giacomini vẽ giúp một người phụ nữ trẻ Tây Ban Nha những hình vẽ bằng những chất chóng phai của công nghiệp hóa chất Mỹ, trong một ngôi nhà rộng ở Hollywood, trong khi nghe nhạc Brésil...
Ví dụ này nhắc chúng ta rằng không nên lầm lẫn việc có những sản phẩm và thông tin trên hành tinh với việc sử dụng chúng. Càng không nên lầm lẫn việc sử dụng chúng từng lúc với sự tồn tại của một văn hóa chung. Thật ra, đặc biệt ở các nước phương Tây, người ta đang chứng kiến một sự bùng nổ về tiêu dùng, về tập quán và những tham khảo văn hóa đưa tới những sự sáng tạo lại, trong đó những phạm trù xã hội, những thể chế trung gian địa phương, những hình thức thể chế nhà nước, những giá trị và tín ngưỡng kết hợp và tác động hoàn toàn lẫn nhau. Điều này bao giờ và ở đâu cũng thế, đó là điều thường xảy ra trong lịch sử loài người, như nhà thơ Edouard Glissant sung sướng nhấn mạnh trong bài bàn về Toàn thế giới (Tout monde) của ông: "Một quá trình không ngừng làm chất liệu thế giới trộn lẫn nhau, nối liền và làm thay đổi văn hóa của các tính người hiện nay. Đó là mối liên hệ cho phép chúng ta tưởng tượng, là sự pha tạp cho phép chúng ta sống".
_______________
1. B.Barber, Culture macworld contre democratie, Le Monde diplomatique, Penser le XXI siecle, No 52, 7-8-2000.
2. A.Mattelart, La Communication monde, Histoire des idées et des stratégies, La Decouverte, 1999.
3. Vers la convergence des sociétés?, Sciencé Humaines, hors - série, No 14.
4. A.Mattelart, 80 idées forces pour entrer dans le XXI siecle, La Découverte, 2000.
5. C.Jaffrelot (dir), L' Inde contemporaine, Fayard, 1996.
6. J.Piel, Inde: Vihnou versus Mac Do, Croissance, No 149, 2000.
7. Y.Kim, Journai of the Korean Geographical Society, 6-2000.
8. D.Held và các tác giả khác, Global Transformation, Stanford University Press, 1999.
9. D.Wolton, Internet et apres? Une theorie critique des nouveaux medias, Flammarion, 1999.
10. J.P.Warnier, La Mondialisation de la culture, La Decouverte, 1999.
11. E.Zưingle, Nationl Geographic, vol, 196, No 2, 8, 1999.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 326, tháng 8-2011