I. Tiếp thu văn hóa ngoại lai một cách sáng tạo, biến thành một thành tố của văn hóa dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước
Vào thời cổ trung đại, Ấn Độ và Trung Hoa có nền văn hóa lớn nhất ở khu vực châu Á và sự lan tỏa của nó sang các nước nhỏ xung quanh là tất nhiên. Trước khi Phật giáo Trung Hoa ảnh hưởng mạnh sang Việt Nam thì Phật giáo Ấn Độ đã xuất hiện từ rất sớm. Từ thế kỷ thứ II, vùng bắc bộ Việt Nam đã hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu (nay là địa phận chùa Dâu Bắc Ninh). Vào buổi sơ khai ấy, Phật giáo Ấn Độ được văn hóa Việt Nam tiếp nhận và đã kết hợp với tín ngưỡng dân gian Việt cổ, đặc biệt là tín ngưỡng thờ mẫu và tín ngưỡng cầu mưa của một xã hội nông nghiệp. Sau đó, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và Hàn Quốc theo một kênh khác là Trung Quốc. Lần này, sự tiếp xúc mạnh, dần dần hòa vào dòng chảy của văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc. Phật giáo trở thành tôn giáo chính yếu của mấy triều đại phong kiến. Từ vua đến quan cho tới dân chúng đều tôn sùng đạo Phật. Các sư sãi được kính trọng, được tham dự triều chính. Ở Việt Nam, tiêu biểu là Phật giáo thời Lý, thời Trần. Trong nước có nhiều vị sư tăng nổi tiếng như Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa, Huyền Quang. Ở Hàn Quốc, Phật giáo du nhập đầu tiên là mùa hè năm 392, năm thứ 2 triều vua Sosurim thời Koguryo. Bấy giờ, vua nước Chin (Tấn) phái một nhà sư tên là Sando đến xứ Hàn, mang theo sách kinh Phật và tượng Phật. Hai năm sau, một nhà sư khác có tên là Ado của nước Chin (Tấn) cũng tới đây truyền đạo. Triều đình Koguryo cho xây hai ngôi chùa nhân có hai nhà sư đến, đặt tên là Songmunsa và Ibullansa. Có thể khẳng định đây là hai ngôi chùa đầu tiên, là trung tâm Phật giáo thuở sơ khai ở Hàn Quốc. Tiếp theo là Phật giáo từ Trung Quốc truyền vào Paekche và Shilla. Phật giáo vào Shilla được coi là muộn nhất nhưng lại phát triển nhanh, nhiều nhà sư có học vấn cao, võ thuật giỏi và tích cực hoạt động xã hội. Nhiều vị sư tăng nổi tiếng của Shilla rất được tôn kính như WonChuc (Viên Trắc, 613 – 696) Won Hyo (Nguyên Hiểu, 617 – 686) Hyejo (Tuệ Siêu, 704 – 787). Phật giáo dạy con người rất nhiều điều, trong đó nổi bật là sống từ bi bác ái, làm điều thiện không làm điểu ác, ở hiền gặp lành, cứu nhân độ thế. Như vậy, Phật giáo nhấn mạnh đến tu dưỡng nhân cách con người. Đây là tư tưởng lớn nhất mà văn hóa và con người Việt Nam, Hàn Quốc tiếp nhận từ Phật giáo. Tư tưởng lớn đó hòa chung với tinh thần yêu nước đặc biệt vốn có trong huyết quản con người Việt, Hàn đã tạo ra một tư tưởng Phật giáo yêu nước, góp phần không nhỏ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Điều này xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử của hai nước. Ở Việt Nam, Phật giáo thời Lý – Trần là minh chứng rõ nét cho sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Ở Hàn Quốc, Phật giáo Shilla đã đóng góp công lớn trong sự nghiệp thống nhất. Các Phật tử Shilla đã lập ra Hội Hoa - rang. Tinh thần yêu nước nổi bật ở Hội Hoa-rang. Đó là một tập thể các sư sãi có lòng trung thành tuyệt đối với Shilla. Họ luyện tập võ nghệ, ra đi chiến đấu vì sự thống nhất non sông, coi trọng nghĩa lý hơn cả sinh mạng. Đến khi hòa bình, họ lại lựa chọn niềm vui nơi cửa Thiền. Vào năm Nhâm Thìn (1592), tinh thần Hoa-rang lại thôi thúc nhiều sư sãi và tín đồ Phật giáo đứng lên cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm ... Vào thời cận hiện đại, điều này càng đậm nét hơn. Ở Hàn Quốc, tiêu biểu là Phong trào Độc lập Mùng 1 tháng 3 năm 1919. Ở Việt Nam, phong trào chống Pháp, chống Mỹ có sự đóng góp tích cực của Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo miền Nam trong những năm chống Mỹ.
Bây giờ xin nói tới Nho giáo. Nho giáo vốn sản sinh ra ở Trung Quốc. Đến thời nhà Hán thì Nho giáo lan tỏa ra các nước láng giềng. Chữ Hán và Nho giáo theo chân đội quân viễn chinh người Hán vào Việt Nam từ năm 111 TCN và vào Hàn Quốc từ năm 108 TCN. Ở Việt Nam, trải theo thời gian 1000 năm Bắc thuộc, sự truyền bá chữ Hán và Nho học không chỉ mang tính giao lưu mà còn là sự áp đặt. Ở Hàn Quốc trong khoảng thời gian hơn 100 năm bị nhà Hán cai trị thì cũng có tình hình tương tự. Nhà Hán ra lệnh dùng chữ Hán trong công văn giấy tờ của cơ quan hành chính do nhà Hán lập ra và bắt quan lại, nhân viên người bản địa phải học chữ Hán. Việt Nam và Hàn Quốc là những quốc gia văn hiến, bởi thế, thuở ban đầu tiếp nhận chữ Hán và Nho học không được mặn mà, thậm chí chống lại, đánh đồng sự xâm lược, nô dịch văn hóa với giao lưu văn hóa. Song, nhận thức đó dần thay đổi và hai dân tộc Việt, Hàn đã biết tiếp thu chữ Hán và Nho học một cách sáng tạo, biến nó trở thành công cụ tăng sức mạnh cho dân tộc. Từ cơ sở nhận thức đó, chữ Hán và Nho học ở Việt Nam, Hàn Quốc dần khẳng định vị trí của mình với việc dựng Văn Miếu năm 1070, lập Quốc Tử Giám năm 1076 vào triều Lý (Việt Nam) và vào năm 958 triều đại Koryo (Hàn Quốc). Đến thế kỷ XV, Nho giáo Việt Nam và Hàn Quốc phát triển thịnh vượng, song hành cùng Nho giáo Trung Quốc.
Văn hóa Nho giáo để lại dấu ấn đậm trong lịch sử văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc. Nho giáo có tính chất tôn giáo (như thờ cúng tổ tiên; tế lễ ở Văn Miếu, Tông Miếu và Đàn Nam giao...) nhưng mặt chính của nó là quản lý xã hội, được coi là một học thuyết chính trị – xã hội. Nó qui định rất nghiêm ngặt các hành vi văn hóa – xã hội như quan, hôn, tang, tế, các tập tục, lễ hội, các nghi thức xã hội... Bởi thế, trong suốt thời gian dài hàng thế kỷ (tuy có lúc thăng lúc trầm), văn hóa Nho giáo Việt Nam và Hàn Quốc đã tạo ra một diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc. Đó là một tiếp biến văn hóa tích cực. Diện mạo mới đó là nêu cao chữ “Nhân Nghĩa” và “Lễ”, mà “Nhân Nghĩa” ở đây “cốt để yên dân” (Việc Nhân Nghĩa cốt ở yên dân – Nguyễn Trãi). Văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc biết tiếp biến văn hóa ngoại lai, tăng sức mạnh cho dân tộc để giữ vững chủ quyền đất nước chứ không xâm lược ai. Điều này khác hẳn với một số dị tộc tiếp thu văn hóa Trung Hoa rồi cai trị Trung Quốc, rốt cuộc lại bị văn hóa Trung Hoa đồng hóa.
II. Tiếp biến văn hóa nhưng Việt Nam và Hàn Quốc trước sau vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
Đề cập tới vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, chúng tôi rất tán đồng với ý kiến của nhà nghiên cứu văn hóa, Giáo sư Phan Ngọc cho rằng phải giữ được phần ổn định trong văn hóa, giữ được trọng tâm, thăng bằng trước những sự biến đổi muôn màu muôn vẻ trong quá trình tiếp biến văn hóa. Giáo sư Phan Ngọc nêu một ví dụ rất thú vị là: “Một người làm xiếc trên dây, anh ta có thể làm mọi động tác kỳ quặc đến đâu cũng được, nhưng với một điều kiện là trọng tâm của anh ta phải rơi đúng vào sợi dây. Nếu trọng tâm của anh ta rời khỏi sợi dây, lập tức anh ta sẽ ngã xuống”. [Phan Ngọc: Bản sắc văn hóa Việt Nam; Nxb Văn học, tr.114]
Trong quá trình giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa khác, từ văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa thời cổ trung đại đến văn hóa Pháp, Nhật, Mỹ và thế giới thời cận hiện đại, hai nền văn hóa là Việt Nam và Hàn Quốc vẫn luôn giữ được trọng tâm, giữ vững được bản sắc văn hóa dân tộc.
Nếu so sánh đôi chút, chỉ cần xem xét trong lịch sử văn hóa phương Đông này thôi, không ít nền văn hóa trong quá trình tiếp biến với văn hóa Trung Hoa đã mất hẳn diện mạo, mất hẳn văn hóa của mình, tức là nền văn hóa đó đã bị Hoa hóa về văn hóa và biến mất, điển hình là Mãn Thanh. Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam và Hàn Quốc trải qua mấy nghìn năm chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Trung Hoa nên được coi là “Tiểu Trung Hoa”. Đánh giá như vậy cũng có nghĩa là nói tới sức ảnh hưởng mạnh của văn hóa Trung Hoa sang hai vùng văn hóa này nhưng chưa có một ý kiến nào khẳng định văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc bị Hoa hóa. Ở khía cạnh khác, điều đó chứng tỏ Việt Nam và Hàn Quốc trong quá trình tiếp biến văn hóa Trung Hoa có nhiều điểm giống nhau. Đồng thời, cũng khẳng định bản lĩnh văn hóa vững vàng, “giữ được trọng tâm” của văn hóa Việt Nam, Hàn Quốc.
Giữ vững trọng tâm, tiếp biến văn hóa là để bổ sung những yếu tố mới, tiến bộ và hiện đại vào nền văn hóa truyền thống, làm phong phú hơn, hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử mới có thể coi là đặc điểm chung của văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc. Điều này thể hiện rất rõ nét ở thời cận hiện đại. Khoảng 80 năm thực dân Pháp cai trị Việt Nam, 36 năm Nhật Bản thống trị Hàn Quốc là khoảng thời gian không dài so với lịch sử, nhưng có thể nói, đây là giai đoạn tiếp biến văn hóa diễn ra rất mạnh, rất nhanh và mang tính đột biến. Tiếp xúc văn hóa Việt – Pháp và Hàn – Nhật có thể coi như một loại chất xúc tác rất mạnh tạo ra một sự phát triển mới. Những con đường lớn, các tuyến đường sắt được mở; các nhà máy, xí nghiệp được xây dựng (đặc biệt là nhà máy xí nghiệp phục vụ cho công nghiệp khai khoáng và chế biến); các khu đô thị nhỏ mọc lên, đèn điện và nước máy khử trùng xuất hiện; các cửa hàng buôn bán mọc lên rất nhiều ở các đô thị; các trường đại học, cao đẳng theo chế độ học tập, thi cử kiểu phương Tây đã được xây dựng ở các thành phố lớn, ngoại ngữ xâm nhập rất mạnh. Thêm vào đó, các chính sách quy hoạch đất đai, xây dựng đồn điền (điển hình là hàng nghìn đồn điền cao su ở Việt Nam), khảo sát ruộng đất, xây dựng chế độ hành chính mới, chính sách thuế, chế độ cảnh sát, xây dựng hệ thống thủy lợi có máy bơm nước.... đã mở đầu cho sự chuyển hóa mang tính cận hiện đại. Nhìn từ góc độ của một dân tộc bị xâm lược thì đây chẳng qua là bọn thực dân, đế quốc tạo ra một cơ sở kinh tế và văn hóa nhằm tăng cường sự tiện lợi cho việc thống trị và khai thác thuộc địa. Nhìn từ góc độ tiếp biến văn hóa thì chính nó đã khiến cho diện mạo văn hóa của Việt Nam và Hàn Quốc có sự biến đổi.
Bước sang thời hiện đại, sau năm 1954, lịch sử đã chứng kiến sự xâm nhập mạnh và ồ ạt của hàng hóa, đồ dùng sinh hoạt Mỹ, vật phẩm văn hóa và súng đạn, bạo lực kiểu Mỹ vào miền Nam Việt Nam và Hàn Quốc. Sự bảo trợ của Mỹ đã khiến cho nhiều người sùng bái Mỹ, văn hóa Mỹ. Một lần nữa, bản lĩnh văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc lại được thử thách. Trải qua mấy chục năm thôi, những cái gì không phù hợp với bản sắc văn hóa của hai nước Việt, Hàn đã bị loại bỏ. Văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc chỉ tiếp nhận có chọn lọc những nét văn hóa ưu việt mà không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.
III. Tiếp nhận những nét mới của văn hóa ngoại lai để tạo nên một sự đa dạng, hài hòa hơn trong một bản sắc văn hóa riêng
Suốt mấy nghìn năm, văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc đã tiếp nhận văn hóa ngoại lai đến từ Ấn Độ và Trung Hoa tưởng chừng như diện mạo văn hóa đã khá ổn định và có nhiều nét giống nhau. Song, vào thời kỳ cận hiện đại, như vừa nêu trên, văn hóa phương Tây tràn vào đã mang lại nhiều nét mới cho văn hoá Việt Nam và Hàn Quốc. Điển hình ở Việt Nam là sự đổi mới về ngôn ngữ, chữ viết, văn chương thi ca, nhạc họa, “chuyển từ một mô hình còn mang nhiều ảnh hưởng của Nho giáo và hình thức Trung Hoa sang một mô hình mới, hiện đại và Việt Nam” [Phan Ngọc; Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, tr.447]. Điển hình ở Hàn Quốc là sự hiện diện và phát triển nhanh chóng của hai tôn giáo Thiên Chúa và Tin Lành.
Ngoài những điển hình vừa nêu ra, các mặt của đời sống văn hóa về trang phục, ẩm thực, kiến trúc và đặc biệt là tư tưởng cũng có những chuyển biến sâu sắc.
Việc tạo ra một chữ viết mới theo hệ la tinh ở Việt Nam tựa như một đột phá khẩu, mở lối cho văn hóa phương Tây ào vào Việt Nam, trước tiên là tôn giáo phương Tây (Thiên Chúa và Tin Lành). Chữ viết mới đã trở thành công cụ giao tiếp tối ưu để văn hóa Việt Nam nhanh chóng tiếp thu những thành tựu của phương Tây ngoài ý muốn của người Pháp, cũng nhờ được la tinh hoá tiếng Việt mà nhiều lĩnh vực sáng tạo văn hoá từ giáo dục, y tế, khoa học, kiến trúc, nghệ thuật…đều có cơ hội phát triển, tạo nên sự đa dạng hài hoà trong văn hoá Việt Nam.
Ở Hàn Quốc, hai tôn giáo Thiên Chúa và Tin Lành được du nhập và phát triển nhanh chóng khó có thể tưởng tượng. Sự phát triển của hai tôn giáo này nếu chỉ dùng từ “bùng nổ” cũng khó hình dung mà anh phải trải nghiệm thực tế tới tham quan Hàn Quốc vào một dịp giáng sinh nào đó. [Xem thêm Tôn giáo Hàn Quốc và Việt Nam: Nghiên cứu so sánh, Hà Nội 2007, Ngô Xuân Bình – Phạm Hồng Thái chủ biên]
Ở đây, chúng tôi chỉ nói tới một điều là một nét văn hóa mới đã hình thành ở Hàn Quốc vào dịp cuối năm đã làm phong phú thêm cho sinh hoạt văn hóa lễ hội ở Hàn Quốc. Ở Hàn Quốc hiện có rất nhiều lễ hội truyền thống, chủ yếu tập trung vào mùa xuân và mùa thu, nổi bật là lễ Thượng nguyên rằm tháng giêng và Lễ Thu tịch rằm tháng tám. Tuy vậy, vào mùa hè còn có một lễ hội rất lớn – lễ Phật đản của Phật giáo. Do Phật giáo hiện nay là tôn giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nên dịp lễ này thường được tổ chức với qui mô lớn. Đây cũng là dịp để Phật giáo xứ Hàn hoằng dương Phật pháp nên Lễ hội Phật đản không chỉ dừng lại ở khuôn viên chùa chiền trong núi sâu mà lan tỏa xuống khắp các đô thị. Đúng ngày Phật đản, ở Seoul cũng như các thành phố lớn, một cuộc diễu hành với sự tham gia đông đảo của tăng ni Phật tử được tổ chức rất hoành tráng. Ngày này là ngày lễ lớn mang tính quốc gia nên toàn thể công chức được nghỉ, tạo điều kiện cho mọi người có thể tham gia lễ hội. Ngày nay, Hàn Quốc có thêm một lễ hội lớn vào mùa đông – lễ Giáng sinh. Do Thiên Chúa giáo và Tin lành ở Hàn Quốc hòa chung với dòng chảy của lịch sử giữ nước và dựng nước thời cận hiện đại nên được đặc biệt hoan nghênh ở xứ Hàn. Lễ Giáng sinh là ngày hội lớn nhất của tín đồ hai tôn giáo này. Các nhà thờ được trang hoàng lộng lẫy và không khí tươi vui của ngày lễ không chỉ ở riêng trong nhà thờ và cộng đồng giáo dân mà lan rộng ra toàn xã hội. Biểu hiện cho sự lan rộng niềm vui không chỉ khuôn lại trong lĩnh vực tinh thần mà lan sang cả lĩnh vực phát triển kinh tế. Mùa Giáng sinh còn được gọi là mùa mua sắm, từ những trang thiết bị phục vụ cho lễ Nooen đến sản phẩm vật chất và văn hóa gia đình trong dịp lễ được bày bán khắp nơi với nhiều hình thức quảng cáo sôi động, hấp dẫn, tạo cho xã hội Hàn Quốc năng động hơn hẳn, tươi mới hơn lên. Từ đó, có thể thấy rằng, lễ Giáng sinh đã vượt ra khỏi phạm vi tôn giáo thuần túy và có đóng góp vào việc làm mới hơn, phong phú thêm những sinh hoạt văn hóa ở Hàn Quốc.
Ngoài những điểm lớn vừa nêu, những nét mới trong thời trang, ẩm thực, kiến trúc vẫn hiện hữu và tiếp tục phát huy ở cả Hàn Quốc và Việt Nam (ở Hàn Quốc đậm đặc hơn Việt Nam). Ở Việt Nam, rõ nét nhất là chiếc áo dài xuất hiện, một sự đổi mới của chiếc áo truyền thống Việt Nam; uống cà phê, bia hơi trở thành một nét mới trong văn hóa ẩm thực Việt Nam...
Tiếp nhận văn hóa ngoại lai, tạo lập bản sắc văn hóa mới rồi lan tỏa cũng là một điểm rất đáng lưu ý trong sự phát triển văn hóa ở Việt Nam và Hàn Quốc hiện nay. Điều này, tới thời điểm hiện tại, văn hóa Hàn Quốc thể hiện tốt hơn nhiều so với văn hóa Việt Nam. Làn sóng văn hóa Hàn Quốc (Hàn lưu) đang tỏa ra cả khu vực Đông Á, trong đó, Việt Nam là một điểm sáng.
IV. Sự khoan dung của văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc
Việt Nam là nơi có địa – chính trị đặc biệt, ở giữa ngã ba đường Đông Nam châu Á, nơi giao lưu giữa nhiều nền văn hóa ở Đông Á. Hàn Quốc cũng tương tự, cũng có địa – chính trị đặc biệt, là trung tâm Đông Bắc Á, cũng là nơi hội tụ nhiều nền văn hóa. Thêm vào đó, Việt Nam và Hàn Quốc đều có bờ biển dài. Yếu tố biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu văn hóa Đông Tây. Dẫu chưa nói đến yếu tố nô dịch, đồng hóa văn hóa thì ở Việt Nam và Hàn Quốc đã có hiện tượng giao lưu, hội tụ giữa các nền văn hóa, khiến cho nền văn hóa của hai nước đã tiếp nhận những tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc trong khu vực và thế giới.
Trong quá trình tiếp biến văn hóa khu vực và thế giới, một đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa nhân văn trong văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc là tính khoan dung hay bao dung. Nói đến khoan dung, người ta thường nghĩ tới triết lý mang đậm chất Phật giáo. Nhưng, khác với triết lý bao dung, nhân từ của Phật giáo, văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc chỉ khoan dung với những người lương thiện, lầm lỡ, biết nhận ra sai lầm và hối cải chứ không nhân từ với kẻ tham lam, lũng đoạn làm bậy hoặc xâm lược.
Xét từ lịch sử đấu tranh của hai dân tộc, không ít lần hai dân tộc đương đầu với chiến tranh xâm lược, nhưng, khi chiến tranh kết thúc, cả hai dân tộc đều thể hiện rõ lòng nhân đạo, thể hiện ý chí hòa bình hữu nghị, mong sao:
Sửa hòa hiếu giữa hai nước,
Tắt muôn đời chiến tranh.
Chỉ cần vẹn đất,
Cốt sao an lành.
(Nguyễn Trãi; Chí Linh sơn phú)
Xét từ khía cạnh hòa hợp tôn giáo, hiện tượng tam giáo (Nho, Phật, Đạo) đồng nguyên trong lịch sử là một minh chứng. Dẫu có lúc tôn giáo này độc tôn, tôn giáo kia bị hạ thấp giá trị, song, sự hiện diện của ba tôn giáo này suốt trong thời kỳ lịch sử dài đã thể hiện rõ sự khoan dung của văn hóa hai nước.
Văn hóa khoan dung, văn hóa “trọng tình” đã thấm sâu vào máu thịt người Việt và người Hàn từ lâu đời. Đây là nền tảng văn hóa vững chắc của người Việt và người Hàn mà giới nghiên cứu văn hóa cho là “cái bất biến” để ứng phó với “cái vạn biến”. Chỉ có thể lý giải như vậy mới có thể hiểu được tại sao hai dân tộc ở vị trí địa – chính trị như trên đã nêu, trải qua hàng nghìn năm hội nhập và tiếp biến với các nền văn hóa khác trên thế giới mạnh hơn rất nhiều mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, hơn nữa, còn thu nhận thêm nhiều tinh hoa của các nền văn hóa khác. Cũng chỉ có lý giải như vậy mới có thể hiểu được tại sao hiện nay, Nam – Bắc Hàn ở hai chiến tuyến mà Hàn Quốc nhiều năm qua viện trợ rất nhiều cho Bắc Hàn. Và cũng chính từ sự tương đồng này mà lịch sử phát triển ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc phải được ghi vào sách kỷ lục. Chỉ hơn 17 năm thiết lập quan hệ ngoại giao mà đã phát triển tới cấp cao nhất. Mối quan hệ tốt đẹp này không chỉ ở lĩnh vực chính trị mà còn trong dân gian cũng trở thành quan hệ “thông gia”.
Lời kết
1. Việt Nam và Hàn Quốc là nơi giao lưu, hội tụ, tiếp biến văn hóa khu vực khá điển hình trong lịch sử, trong đó, tiếp biến văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa là mạnh nhất, đậm nét nhất.
2. Với ưu thế về địa – chính trị, vào thời cận hiện đại, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của Việt Nam và Hàn Quốc với văn hóa phương Tây ưu trội hơn phương Đông.
3. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa khu vực và thế giới, văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc đã tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn hóa nhân loại để bổ sung và làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc.
4. Giao lưu, tiếp biến văn hóa khu vực và thế giới để phát triển văn hóa trong nước và hội nhập với văn hóa nhân loại nhưng văn hóa Việt Nam và Hàn Quốc trước sau vẫn giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc.
5. Tính nhân nghĩa và sự khoan dung của văn hóa hai nước rất sâu sắc. Trong quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra mạnh mẽ và toàn diện trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay, đó vẫn là cơ sở vững chắc để hình thành văn hóa hài hòa, đặc trưng của văn hóa mới ở Việt Nam và Hàn Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000) Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá - Thông tin.
2. Phan Đại Doãn (Chủ biên) (1999), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia.
3. Đại Việt sử ký toàn thư (1993), Nxb KHXH Hà Nội.
4. Đại cương lịch sử Việt Nam (2004), Nxb Giáo dục.
5. Dương Quảng Hàm (2005), Văn học Việt Nam, Nxb Trẻ Tp Hồ Chí Minh.
6. Hàn Quốc, lịch sử và văn hoá (1995), Nxb Chính trị Quốc gia.
7. Hàn Quốc, Lịch sử và văn hoá (1996), Nxb văn hoá, Hà Nội.
8. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (1997), Người Việt Nam ở Triều Tiên và mối giao lưu văn hoá Việt - Triều trong lịch sử, Hà Nội.
9. Nguyễn Thừa Hỷ (1999), Lịch sử văn hoá Việt Nam, truyền thống giản yếu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Huyên (2005), Văn minh Việt Nam, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
11. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế quan hệ hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, Hà Nội 2007.
12. Komisook - Jung Min - jung Byung Sul (2006), Văn học sử Hàn Quốc, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Lý Xuân Chung và Jeon Hye Kyung dịch.
13. Trần Trọng Kim (2002), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hoá Thông tin.
14. Nguyễn Hiến Lê: Khổng tử (2001), Nxb Văn hoá - Thông tin.
15. Nguyễn Hiến Lê: Mạnh tử (1996), Nxb Văn hoá.
16. Lịch sử Việt Nam, tập I, (1971), Nxb KHXH.
17. Lịch sử Hàn Quốc (2005), Nxb Đại học Quốc gia Seoul.
18. Những vấn đề văn hoá, xã hội và ngôn ngữ Hàn Quốc, Nhiều tác giả (2002), Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
19. Đặng Đức Siêu (2006), Sổ tay văn hoá Việt Nam, Nxb Lao động.
20. Lê Quang Thiêm (2005), Khái niệm văn hoá văn minh và văn hoá truyền thống Hàn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Tài Thư: (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội.
22. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
23. Trần Ngọc Thêm (1999), Cở sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục.
24. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1996), Về tín ngưỡng Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006), Nho Giáo ở Việt Nam, NxbKHXH.
26. Phan Ngọc; Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học.
27. Tôn giáo Hàn Quốc và Việt Nam: Nghiên cứu so sánh, Hà Nội 2007, Ngô Xuân Bình – Phạm Hồng Thái chủ biên.
Nguồn: inas.gov.vn