Mặc dù văn hoá học là một ngành nghiên cứu đậm chất hàn lâm, nó vẫn chứa đựng những khả năng dẫn đến việc vượt ra khỏi phạm vi của lý luận thuần tuý để đi vào những thực tiễn nào đó mà chúng tôi gọi là “xuyên văn hoá”. Dùng thuật ngữ của Bakhtin, có thể nói, văn hoá học tiếp cận văn hoá với tư cách là “thể thống nhất hữu cơ” (organic unity), nghĩa là văn hoá có khả năng “vượt qua chính nó, vượt qua những đường biên của nó” (“Transcending itself, that is, exceeding its own boundaries”)(1). Văn hoá học nhìn thấu được vấn đề dẫn đến khoảng cách tự trị riêng của văn hoá, về sự đổ vỡ của tính đồng nhất tự thân của văn hoá. Văn hoá học “đẩy văn hoá ra xa” (estrange) và “lạ hoá” (defamilarizes) văn hoá. Trong ý nghĩa tương tự, nhà lý luận nổi tiếng người Nga Viktor Skhlovski định nghĩa “lạ hoá” (“estrangement”) như là thủ pháp chính của nghệ thuật. Theo Skhlovski, những thói quen và nhận thức hàng ngày của chúng ta có khuynh hướng rút vào khu vực của vô thức-tự động (the unconsciously automatic), như thể chúng là tự nhiên, quen thuộc, và tiền định. “Thói quen tự động hoá ngốn hết các vật phẩm, quần áo, tiện nghi, vợ, và nổi sợ chiến tranh… Và nghệ thuật tồn tại có thể giúp tái phát hiện ý nghĩa cuộc sống; nó giúp con người có thể cảm nhận được sự vật, để đá (stone) trở thành đá (stony)… Thủ pháp nghệ thuật là thủ pháp biệt hoá các đối tượng, và là thủ pháp tạo ra những hình thức khó hơn, làm cho sự cảm thụ trở nên khó hơn và dài hơn vì quá trình cảm thụ nghệ thuật tự nó là cứu cánh thẩm mỹ (aesthetic end) và phải được kéo dài. Nghệ thuật là cách trải nghiệm tính nghệ thuật của một đối tượng… (Art is a way of experiencing the artfulness of an object…)(2).
Bằng cách tương tự, văn hoá học là con đường trải nghiệm tính văn hoá (culturality) của văn hoá. Nếu nghệ thuật, với tư cách là một bộ phận của văn hoá, phá vỡ tính vô thức-tự động trong cảm nhận của chúng ta về đối tượng (deautomatizes our perception of objects), thì văn hoá học phá vỡ cảm nhận vô thức-tự động của chúng ta về nghệ thuật và về bản thân văn hoá, phơi ra những cấu trúc nhân tạo và những bất ngờ, và vì vậy cho phép chúng ta vượt qua tính vô thức-tự động của đối tượng. Văn hoá học kéo chúng ta ra xa và làm “lạ hoá” chúng ta với văn hoá – nơi chúng ta sinh trưởng và được giáo dục - và vì vậy nó chuẩn bị cho chúng ta sáng tạo văn hoá một cách tự do. Trong khả năng thấu vượt này, văn hoá học trở thành sự phê bình không chỉ đối với những ngành chuyên biệt trong một nền văn hoá cá biệt, mà còn đối với cả nền văn hoá với tư cách là một toàn thể. Ở phương diện này, văn hoá học phát triển thành lý thuyết và thực tiễn xuyên văn hoá. Xuyên văn hoá là cách thức xuyên-vượt qua nền văn hoá “có sẵn” của chúng ta và cung cấp những sức mạnh biến đổi văn hoá đối với bản thân văn hoá. Xuyên văn hoá là lớp thứ hai của “tính văn hoá”, có khả năng tự năng sản và tự thấu vượt. Nếu văn hoá học là sự tự ý thức của văn hoá, thì xuyên văn hoá là sự chuyển dạng tự thân của văn hoá. Tổng thể lý luận và thực tiễn này giải phóng văn hoá khỏi những cơ chế cứng nhắc, thô bạo.
Xu hướng xuyên vượt này khởi phát từ tự thân văn hoá, nó giải phóng con người khỏi những phụ thuộc tự nhiên thông qua hệ thống của những điều chỉnh và những thay thế có tính biểu trưng. Những phạm trù văn hoá như “thị hiếu” (taste), “tình yêu” (love), “lời nói” (word) thiết lập nên vương quốc tự do của con người từ những áp lực của cái đói và thú tính bản năng, từ sự hiện hữu tự nhiên của một khách thể, v.v. Đồng thời đó, hoạt động văn hoá sáng tạo nên hệ thống những phụ thuộc riêng có tính đặc thù đối với một nền văn hoá hiện tồn, đối với những yếu tố xác định tộc người, chủng tộc, xã hội, hoặc giới tính. Trong sự đảo nghịch những hàm lượng bẩm sinh, vốn có vào một chiều kích văn hoá, con người vẫn tái sản sinh những điều kiện tự nhiên và những bản sắc của họ trên cấp độ biểu trưng. Đó là lý do tại sao nhiều hoạt động văn hoá, gồm văn học, điện ảnh, lý luận, và viết lách nói chung, vẫn còn những dấu ấn của tự nhiên, như trắng và đen, nam và nữ. Phải chăng ngay cả những dấu ấn tộc người như Nga, Đức, Pháp… vẫn nối văn hoá với những điều kiện tự nhiên, vùng địa lý, khí hậu, cảnh quan v.v.? Mỗi nền văn hoá đều có những phong cách, những biểu hiện kỳ lạ, những nổi ám ảnh, những giả định tư tưởng hệ riêng, và những hạn chế, những mô hình truyền bá, những bộ lọc thông tin riêng, v.v.
Bằng việc vượt qua những giới hạn “tự nhiên”, hay những “lớp văn hoá đầu tiên” (“first order” cultures), chiều kích xuyên văn hoá mở ra cấp độ tiếp theo cho sự tự do của con người từ những phụ thuộc biểu trưng, sự mê đắm ý thức hệ, lòng cuồng tín yêu nước vốn là những thứ thuộc về chúng ta với tư cách là những là thành viên của một cộng đồng văn hoá nào đó. Dùng những thuật ngữ của Bakhtin, có thể nói, văn hoá là khả năng “vượt qua chính nó, vượt qua những đường biên của nó(3), và vì vậy, văn hoá chứa đựng những khả năng xuyên văn hoá. Xuyên văn hoá có thể được xác định như một hệ thống mở của những lựa chọn tượng trưng đối với những nền văn hoá hiện tồn và những hệ thống ký hiệu được thiết lập của chúng.
Điều đó không có nghĩa là những bản sắc văn hoá của chúng ta bị bỏ rơi vì lợi ích của sự tự do thấu vượt văn hoá. Chúng ta không thể và không nên từ bỏ những bản sắc tượng trưng cơ bản của chúng ta – những bản sắc có quan hệ chặt chẽ với một số bình diện của ứng xử. Sự quá độ của con người từ tự nhiên đến văn hoá không làm cho họ mất đi cơ thể tự nhiên của họ; ngược lại, cơ thể con người đòi hỏi sức mạnh thể chất mới và sức biểu cảm mới thông qua sự trau dồi những năng lực thể chất và áp dụng có hiệu quả những hoạt động biểu trưng, như nói năng, khiêu vũ, vẽ, viết, đào luyện trong nghệ thuật, thương mại, và thể thao. Tương tự như vậy, hoạt động xuyên văn hoá không làm chúng ta rời bỏ những phần cơ thể biểu trưng của chúng ta - những bản sắc cốt lõi, như những người Nga, những người Mỹ, những người nam và những người nữ, những nhà sinh vật học, những tiểu thuyết gia, những kỳ thủ và những cầu thủ. Thực tiễn xuyên văn hoá không phải là sự giảm bớt hoặc đối đầu với những bản chất văn hoá của chúng ta, mà đúng hơn, đó là cách chúng ta mở rộng những giới hạn bản sắc tộc người, nghề nghiệp, ngôn ngữ của chúng ta và những bản sắc khác để đến những cấp độ mới của sự “xác định” và không xác định. Xuyên văn hoá thiết lập những bản sắc mới trong những tập mờ (fuzziness), trong giao thoa (interference) và nó thách thức trừu tượng siêu hình học cũng như đặc điểm quốc gia, chủng tộc, nghề nghiệp và những dạng thể khác của văn hoá - những thứ được làm cho cô đặc lại hơn là bị phân tán bởi quan điểm chính trị đa văn hoá về bản sắc.
Mặc dù là sự mở rộng về lý luận của văn hoá học, mô hình xuyên văn hoá không phải chỉ là một lĩnh vực của tri thức mà còn là một phương thức (mode) của tồn tại, là nơi định vị những điểm giao của các nền văn hoá. Chiều kích xuyên văn hoá này phát triển vượt ra khỏi những tiềm năng của mạng lưới văn hoá toàn cầu, được xem như là giai đoạn lịch sử tiếp theo trong sự giải phóng nhân loại khỏi những cơ chế có tính quyết định luận của cả tự nhiên lẫn những môi trường văn hoá. Thành tố và phẩm chất có tính bản chất của văn hoá là năng lực giải phóng con người khỏi những mệnh lệnh của tự nhiên, những giới hạn và những nhu cầu thiết yếu của nó; chính khả năng xuyên văn hoá giải phóng con người khỏi những ràng buộc của văn hoá tự thân. Văn hoá, bằng cách giải phóng chúng ta khỏi những giới hạn tự nhiên, sẽ áp đặt những giới hạn mới, những kiểu tượng trưng mới, và xuyên văn hoá là bước tiếp theo trong hành trình con người tìm kiếm tự do. Trong trường hợp này, đó là sự giải phóng khỏi “nhà tù của ngôn ngữ” (prison house of language) cũng như khỏi những những bản sắc văn hoá tự tôn, tự áp đặt và nhân tạo. Trong thế đối nghịch với những người châu Âu tiếp bước Rousseau và những người Mỹ đề xướng phản văn hoá (counterculture), những gì xuyên văn hoá chủ trương không phải là vượt thoát văn hoá để trở về tự nhiên, về tình trạng nguyên thuỷ, tiền văn hoá, mà đúng hơn, đó là tiến trình vượt qua văn hoá, đi vào trình trạng hậu văn hoá (postcultural condition) được định hình một cách kỹ thuật bởi những quan hệ giao tiếp đương đại có tính toàn cầu.
Mặc dù xuyên văn hoá phụ thuộc vào nỗ lực của từng cá nhân để vượt qua tính đồng nhất trong các nền văn hoá đặc thù, nó, ở một cấp độ khác, là quá trình tự tương tác giữa các nền văn hoá, trong đó những cá thể nhận ra rõ hơn mình “ở ngoài” một nền văn hoá cá biệt nào đó, “ở ngoài” những giới hạn quốc gia, chủng tộc, giới, tư tưởng hệ và những giới hạn khác. Tôi muốn so sánh tình trạng này với tư tưởng của Bakhtin về vnenakhodimost, từ này nghĩa là sự tồn tại được định vị vượt qua bất kỳ phương thức đặc thù của hiện hữu, hoặc, trong trường hợp này, là nhận ra vị trí của mình trên biên độ của những nền văn hoá hiện tồn. Phạm vi vượt qua tất cả các nền văn hoá này được định vị bên trong xuyên văn hoá.
Một trong những chủ đề tranh luận của nghiên cứu văn hoá đương đại là chúng ta bị giới hạn trong những điều kiện và những quy ước của các nền văn hoá của chúng ta; chúng ta không thể vượt qua những ngẫu nhiên trong hệ thống tín hiệu của chúng ta. Nhưng ngay cả khi chúng ta không thể tự giải thoát khỏi cơ chế “tượng trưng” của chúng ta, chúng ta vẫn có thể liên kết nó vào chiều kích xuyên văn hoá đầy tiềm năng. Tương tự, như chúng ta biết, sự sáng tạo ra công cụ, ký hiệu, và giá trị đã không giải phóng con người khỏi những điều kiện và bản năng tự nhiên ngoại trừ việc thêm chiều kích văn hoá đặc thù, “xuyên văn hoá”, đối với sự tồn tại của họ. Từ đó có thể thấy những giới hạn của “những nền văn hoá bản địa” trở nên quá chật hẹp đối với con người. Chúng ta đang phát triển những chiều kích mới mà chúng ta gọi là chiều kích xuyên văn hoá.
CHÚ THÍCH:
(1) Mikhail Bakhtin, Speech Genres and Other Late Essays, ed. Caryl Emerson and Michael Holquist (Austin: University of Texas Press, 1986): 135.
(2) Viktor Skhlovsky, Art as Technique, in Contemporary Literary Criticism. Modernism Through Poststructuralism. Edited and with Introductions by Robert Con Davis (New York and London: Longman, 1986): 55.
(3) Mikhail Bakhtin, Ibid: 135
Nguồn: người dịch