Văn hóa Trung Quốc vốn có truyền thống lâu đời, các nghiên cứu văn hóa ở Trung Quốc vốn rất phong phú đã và đang làm nền tảng cho VHH hình thành và phát triển thuận lợi. Trào lưu nghiên cứu văn hóa và VHH đầu tiên ở Trung Quốc hình thành vào đầu thập niên 1930. Từ sau phong trào Ngũ Tứ, nhiều cuộc luận đàm về văn hóa đông – tây, khoa học và huyền học nổ ra ở Trung Quốc, trong đó vấn đề được thảo luận nhiều nhất là văn hóa. Một số nhà nghiên cứu không hài lòng với các đánh giá, nhìn nhận đương thời về văn hóa nên đã đơn phương đi tìm lối đi riêng cho mình. Lý Đại Chiêu 李大钊là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ VHH tại Trung Quốc. Năm 1924 trong cuốn “Sử học yếu luận. Hệ thống lịch sử học” bàn về lịch sử học, Lý Đại Chiêu cho lịch sử học có ba hệ thống lớn: lịch sử học phổ thông, lịch sử học đặc thù và triết học lịch sử, trong đó lịch sử học phổ thông phân ra hai phần lý luận và ký thuật. Phần lý luận bao gồm chính trị học, kinh tế học, pháp lý học, luân lý học, tôn giáo học, văn học, triết học, mỹ học, giáo dục học gọi chung là nhân văn học hay văn hóa học [Lý Vinh Thiện 1996: 46]. Tuy nhiên tác giả này không giải thích ý nghĩa nội hàm của thuật ngữ này. Năm 1926, Trương Thân Phủ 张申府 trong cuốn “Văn minh và văn hóa” cũng sử dụng thuật ngữ này nhưng cũng không giải thích. Mãi đến năm 1932, nhà nghiên cứu Hoàng Văn Sơn 黄文山công bố hai cuốn “Văn hóa học kiến thiết luận” và “Văn hóa học phương pháp luận” mới bước đầu đặt nền móng lý luận cho sự hình thành khoa học VHH độc lập về sau. Đến năm 1948 ông công bố cuốn “Sự kiến lập Văn hóa học” càng củng cố thêm nền tảng khoa học của hệ thống lý luận mà ông đề xuất. Cùng thời kì với Hoàng Văn Sơn còn có Diêm Hoán Văn 阎焕文 với cuốn “Văn hóa học” (1934), Chu Khiêm Chi 朱谦之với “Triết học văn hóa” (1935), Trần Tự Kinh 陈序经với “Khái quan văn hóa học” (1947), v.v.. Bên cạnh đó, Lương Tấu Minh 梁漱溟, Phùng Hữu Lan冯友兰, Hạ Lân贺麟, Trương Đông Tôn 张东荪v.v. đứng ở góc nhìn triết học văn hóa cũng đã công bố nhiều tác phẩm bình luận có giá trị. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa như Lương Khải Siêu 梁启超, Trần An Nhân 陈安仁, Liễu Di Trừng 柳诒澄, Trần Đăng Nguyên 陈登原, Thường Nãi Đức 常乃德v.v., nhà nhân loại học Lâm Huệ Tường 林慧祥, các nhà dân tộc học Giang Thiệu Nguyên 江绍原, Cố Hiệt Cương顾颉刚, Dung Triệu Tổ 容肇祖v.v.. cũng có đóng góp đáng kể trong việc hình thành VHH ở Trung Quốc trong giai đoạn đầu [Lý Vinh Thiện 1996: 46]. Tuy nhiên, theo đánh giá của giới học giả về sau, các tác giả trên đây đều thiếu sự chỉ đạo của lịch sử quan duy vật. Dù vậy, họ vẫn được mệnh danh là những người đi đầu trong việc sáng lập VHH ở Trung Quốc.
Giai đoạn 1949 – 1979, hoạt động nghiên cứu VHH nói riêng, khoa học xã hội nói chung tại Trung Quốc bị ngưng trệ bởi nhiều lý do khách quan khác nhau. Trong suốt 30 năm này, Trung Quốc chỉ xuất bản duy nhất cuốn “Yếu luận sử văn hóa Trung Quốc” có liên quan đến văn hóa và VHH. Bên ngoài đại lục, một số tác giả hoặc ở Hồng Kông, Đài Loan, hoặc từ đại lục ra đã tiếp tục nghiên cứu và công bố một số công trình tiêu biểu. Chẳng hạn Hoàng Văn Sơn năm 1968 sau 30 năm tìm tòi và nghiên cứu đã xuất bản cuốn “Hệ thống văn hóa học” rất được giới khoa học chú ý. Trong tác phẩm này, ông đã chú trọng xem xét các vấn đề trực tiếp của VHH như loại hình, kết cấu hệ thống VHH, so sánh hệ thống VHH đông, tây và sự biến thiên, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền văn hóa trên thế giới. Năm 1983, ông lại tiếp tục công bố cuốn “Văn hóa học và vị trí của nó trong hệ thống khoa học”, góp phần củng cố vị trí của VHH tại Trung Quốc. Trước đó, Tiền Mục 钱穆năm 1952 cũng công bố cuốn “Đại nghĩa văn hóa học” ở Đài Loan (tái bản năm 1979). Cùng năm này Đông Thời Anh 东时英cho ra cuốn “Văn minh luận hoành” cũng có ảnh hưởng nhất định.
Mãi đến thập niên 1980, Trung Quốc đại lục phát triển nền kinh tế hàng hóa. Trong xu thế đó, giới nghiên cứu VHH Trung Quốc mới trở lại nghiên cứu lý luận VHH. Tiêu biểu trong giai đoạn này có Đàm Quang Quảng 覃光广với cuốn “Từ điển Văn hóa học” (1988), Hàn Dân Thanh với cuốn “Văn hóa luận” (1989), Hứa Tô Dân 许苏民với cuốn “Triết học văn hóa” (1990), Quách Tế Dũng 郭齐勇với cuốn “Khái luận văn hóa học”, Hồ Tiêu với “Hiện tương văn hóa học” (1991), Nghiêm Xuân Bảo 严春友, Nghiêm Xuân Hữu 严春宝với “Văn hóa toàn tức luận” (1991), Lưu Thủ Hoa 刘守华với “Thông luận văn hóa học” (1992), Dương Kính Giang 杨镜江với “Dẫn luận Văn hóa học” (1992), Lý Vinh Thiện (李荣善) với “Dẫn luận văn hóa học” (1996), Chung Kính Văn (钟敬文) với “Văn hóa học dân tục: tóm tắt nội dung và quá trình phát triển” (1996), Tôn Khải Phi 孙凯飞với “Văn hóa học: hiện đại quốc phú luận” (1997), Lưu Mẫn Trung 刘敏中với “Văn hóa học học – văn hóa học và quan niệm văn hóa” (2000), Ngô Khắc Lễ 吴克礼với “Giáo trình văn hóa học” (2002), Phương Hán Văn (方汉文) với “Văn hóa học so sánh” (2003), Khoa Văn hóa học Đại học Sư phạm Hoa Trung với “Giáo trình văn hóa học” (2004), v.v.. Bên cạnh đó, các tác giả còn công bố nhiều báo cáo, bài viết có giá trị về văn hóa học, chẳng hạn Trương Thân Phủ (张申府) với các bài viết “Văn hóa học kiến thiết luận”, “Văn hóa học phương pháp luận”, “Văn hóa học pháp tắc luận”, “Vấn đề lý luận trong xây dựng văn hóa học và văn hóa Trung Quốc”, “Văn hóa Trung Quốc nhìn nhận dưới lập trường của văn hóa học” v.v.. đăng trên các học báo Đại học Trung Sơn, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Đại học Trung ương vào các năm 1926-1927 [Hoàng Văn Sơn 1949: 10], Dư Cận (余近) với “Tóm lược về quá trình kiến lập Văn hóa học và triển vọng phát triển” đăng trên “Xã hội học tấn” (?), Điền Đan (田丹) với “Lý luận Văn hóa học của GS. Trần Tự Kinh và mối quan hệ với các vấn đề xã hội” đăng trên “Sử học Nguyệt san” (kì 1/2005), v.v.. Các tác giả giai đoạn này đều vận dụng tư tưởng triết học văn hóa chủ nghĩa Mác, đồng thời tiếp thu các thành quả nghiên cứu của phương Tây nên rất có giá trị, được giới học thuật Trung Quốc đánh giá cao [Lưu Thủ Hoa 1992: 20; Hướng Tường 1997: 10-11]. Nhiều đơn vị nghiên cứu trong nhiều trường đại học, học viện đã đầu tư nhân lực, vật lực cho nghiên cứu lý luận VHH, nhờ đó hệ thống lý luận VHH ở Trung Quốc ngày càng hoàn thiện. Cho đến hôm nay, hàng loạt công trình nghiên cứu lý luận VHH ở nhiều cấp độ, nhiều góc độ đã được công bố, góp phần củng cố nền tảng lý luận để xây dựng VHH thành một khoa học độc lập.
b. Đặc điểm và thành tựu
Nghiên cứu VHH ở Trung Quốc mang tính hiện thực. Nó phục vụ cải cách toàn diện tại Trung Quốc. VHH Trung Quốc áp dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác, phù hợp với xu thế nghiên cứu khoa học tổng hợp tại quốc gia này. Sự hình thành của hệ thống VHH có lợi cho nhận thức VHH phổ biến trong xã hội, giúp người Trung Quốc nhân thức và đánh giá đầy đủ về văn hóa Trung Quốc. Hiện tại, nghiên cứu VHH ở Trung Quốc đang ở giai đoạn hình thành và củng cố giai đoạn đầu nên thành quả nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận VHH để khoa học này thể hiện đầy đủ vai trò và vị trí của nó trong hệ thống khoa học Trung Quốc.
Trong lĩnh vực nghiên cứu và đào tạo tại Trung Quốc, nhiều đơn vị nghiên cứu và đào tạo khoa học về văn hóa và văn hóa học đã ra đời, góp phần tích cực vào công cuộc nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào cuộc sống. Khoa Văn hóa học, Đại học Sư phạm Hoa Trung là đơn vị đào tạo và nghiên cứu VHH đầu tiên được thành lập ở Trung Quốc (Vũ Hán, Hồ Bắc). Tiếp theo sau đó là Khoa Văn hóa học quốc tế, Đại học Chiết Giang; Khoa Văn hóa học cộng đồng, Học viện Âm nhạc Vũ Hán (Hồ Bắc), Khoa In ấn, truyền thông và văn hóa học, Đại học Thanh Hoa; Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa học, Đại học Trung Sơn; Viện nghiên cứu Văn hóa học – Dân tục học; Học viện Khoa học Xã hội Liêu Ninh; Trung tâm nghiên cứu Văn hóa học dân gian, Đại học Sư phạm Bắc Kinh; v.v. Một số trường đại học, trung tâm nghiên cứu đang chuẩn bị hệ thống lý luận và cơ sở cho sự hình thành đơn vị nghiên cứu, đào tạo VHH trong tương lai. Một số trang web chuyên đăng tải nội dung xoay quanh các vấn đề lý luận văn hóa học, văn hóa và văn hóa Trung Quốc đã xuất hiện và được giới học giả quan tâm, chẳng hạn www.culstudies.com, www.cctv.com/folklore.html, v.v..
2. Lý luận văn hóa học ở Trung Quốc
a. Khái niệm văn hóa học
VHH trong tiếng Anh là culturology, tiếng Pháp và tiếng Đức là culturologie, còn được hiểu là khoa học văn hóa. Xét về định nghĩa, do khái niệm văn hóa có nhiều tầng nghĩa khác nhau mà giới khoa học vẫn chưa thống nhất nên khó có thể đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh nhất về VHH. Các nhà VHH Trung Quốc bắt đầu từ nhận định của nhà nghiên cứu người Mỹ L. White để đi tìm một định nghĩa cho riêng mình. White cho rằng “VHH là một khoa học không dùng quan điểm tâm lý học, cũng không dùng quan điểm của xã hội học, VHH dùng nhân tố văn hóa để giải thích các vấn đề có liên quan đến hành vi con người”. Tác giả Trung Quốc Ngô Trạch Lâm 吴泽霖trong cuốn “Từ điển Nhân loại học” cũng có lối giải thích tương tự, cho rằng VHH là một khoa học “coi văn hóa là hiện tượng có loại hình đặc biệt để tiến hành nghiên cứu. Khoa học này tìm cách dùng các nhân tố văn hóa đơn lẻ, không dùng các sinh vật hay các hiện tượng tâm lý để giải thích các hiện tượng văn hóa ” [Lý Vinh Thiện 1996: 48]. Hoàng Văn Sơn 黄文山 [1971] thì cho rằng VHH là một khoa học về văn hóa, một khoa học kinh nghiệm, một khoa học quy phạm. Trước tiên, VHH không phải là khoa học tự nhiên vì “hệ thống văn hóa mà nó nghiên cứu hình thành từ sự kết hợp giữa “đạo” 道 (tức hệ thống giá trị), “khí” 气 (hệ thống vật chất) và “động nhân con người” 人之动因 (hệ thống hành), do vậy VHH không thể tách rời giá trị và mụch đích của nhân loại, là một khoa học mục đích, một khoa học lý giải”. “Nhà VHH trong lĩnh vực văn hóa là một “nhà công tác cộng đồng”, “nhà tham dự cộng đồng”. Ông nhấn mạnh rằng không thể vì tính trừu tượng và phi xác định cũa đối tượng mà cho VHH là một khoa học ước lượng theo phương pháp thực nghiệm bài xích. VHH không phải là thần học hay huyền học mà là một khoa học kinh nghiệm, nó giống như khoa học tự nhiên cũng kiếm tìm và kiến lập nguyên tắc. Tuy nhiên, VHH không giống với khoa học tự nhiên vì VHH luôn chú ý đến “hệ số chủ nghĩa nhân bản”, và vì thế nó giống với các khoa học xã hội khác, có quy phạm đặc thù, trở thành một khoa học quy phạm [Hoàng Văn Sơn 1971: 174-177]. Diêm Hoán Văn thì nêu ra hai lý do cho sự hình thành của văn hóa học, rằng “Văn hóa học là một khoa học cụ thể, có hệ thống nghiên cứu sinh mạng con người”, và “văn hóa học là con đường tìm hiểu lịch sử văn hóa hợp lý nhất” [Hoàng Văn Sơn 1949: 12]. Tác giả Tiền Mục [1952] thì cho rằng “VHH là một khoa học nghiên cứu ý nghĩa và giá trị nội tại của cái tổng thể mang tính truyền thống, tính tổng hợp của đời sống con người”. Cụ thể VHH là một “khoa học nghiên cứu giá trị nhân sinh”. Tác giả Đàm Quang Quảng trong cuốn “Từ điển văn hóa học” [1988] thì cho rằng “VHH là một khoa học mới nổi nghiên cứu các hiện tượng văn hóa hay hệ thống văn hóa”. “VHH chủ yếu bàn đến các vấn đề nguồn gốc, diễn biến, sự truyền bá, kết cấu, chức năng, bản chất của các hiện tượng văn hóa, tính chất chung và riêng của văn hóa, quy luật đặc thù và quy luật phổ biến của văn hóa” [Đàm Quang Quảng 1988: 117]. Lý Vinh Thiện [1996: 48-51] còn thêm rằng “VHH không nghiên cứu nội dung cụ thể của các tiểu hệ thống mà là trên cơ sở của các khoa học chuyên môn phân tích tổng hợp các quan hệ lẫn nhau giữa các tiểu hệ thống trong toàn bộ hệ thống văn hóa, từ đó nắm được tính chất, đặc trưng, kết cấu, chức năng, sự truyền bá, loại hình, sự biến thiên của hệ thống văn hóa, thông qua đó rút ra quy luật chung”. Nhà nghiên cứu Lưu Thủ Hoa cũng đưa ra khái niệm tương tự với Lý Vinh Thiện [Lưu Thủ Hoa 1992: 24]. VHH là một khoa học tổng hợp xem xét toàn bộ hoạt động con người ở góc độ chỉnh thể. VHH nghiên cứu chỉnh thể hoạt động của con người, nó không thay thế được các khoa học cụ thể. Ngược lại các khoa học cụ thể cũng không thể thay thế được vai trò của VHH.
VHH thể hiện sự tuy duy của văn hóa đối với chính văn hóa, hay còn gọi là sự tự giác văn hóa. Trước đây văn hóa nhân loại phat triển vô ý thức, chưa có quy luật. Từ sau khi VHH ra đời, nhân loại bắt đầu suy nghĩ trở lại về hành vi văn hóa của mình. Do vậy sự xuất hiện của VHH còn làm tiêu chí cho sự phát triển của văn hóa nhân loại. VHH là vật phái sinh của văn hóa, nó làm cho văn hóa tự nhận thức chính mình, thông quy tư duy văn hóa sẽ tự thể hiện mình tốt hơn. VHH kêu gọi con người hãy sáng tạo văn hóa theo quy luật phát triển của văn hóa nếu không muốn tiến đến chỗ diệt vong. VHH không chỉ dừng lại ở nghiên cứu tổng hợp quá khứ mà còn là khoa học chỉ điểm văn hóa nhân loại trong tương lai cũng như điều tiết hành vi nhân loại. Nhiệm vụ này các khoa học khác không thay thế được [Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo 1991: 36].
VHH cũng như các khoa học xã hội khác, có đối tượng nghiên cứu đặc thù của mình, vì thế nó có thể trở thành một khoa học độc lập. Là một khoa học xã hội, VHH phải áp dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội trong thế giới quan khoa học và sự chỉ đạo của phương pháp luận mới có thể hình thành và phát triển bền vững. Chỉ khi nghiên cứu VHH mới có thể hiểu được bản chất văn hóa, quy luật của sự phát triển văn hóa cũng như các mối quan hệ lẫn nhau giữa văn hóa và xã hội, văn hóa và cá nhân, mới hiểu được vị trí, tác dụng, ý nghĩa của văn hóa trong đời sống xã hội, từ đó thúc đẩy phát triển văn hóa. Do vậy, khi bắt đầu nghiên cứu VHH, nhà nghiên cứu cần tìm hiểu đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa nghiên cứu VHH.
b. Đối tượng nghiên cứu của VHH
VHH là một khoa học mang tính tổng hợp, đối tượng chính là hiện tượng văn hóa, bản chất văn hóa, quy luật hình thành và phát triển của văn hóa. VHH coi việc khảo sát các hiện tượng văn hóa làm hướng đạo nhập môn, coi việc tìm hiểu bản chất văn hóa, quy luật hình thành và phát triển văn hóa làm nhiệm vụ trọng tâm. Trên tổng thể VHH nghiên cứu trí tuệ của con người và năng lực sáng tạo thực tiễn của con người trong hoạt động sống, bao gồm cả phương thức tư duy cùng với những biểu hiện và quy luật diễn biến của nó. VHH không giống với khoa học tự nhiên có đối tượng nghiên cứu là một chủng loài, một phương diện nào đó của tự nhiên cùng với quy luật phát triển của nó. Còn VHH có đối tượng là con người và văn hóa của họ.
VHH cũng không giống như các khoa học xã hội nhân văn cụ thể chỉ lấy các khía cạnh, khâu đoạn hay các phương diện cụ thể của hiện tượng xã hội làm đối tượng nghiên cứu. VHH không những không trực tiếp nghiên cứu các hiện tượng xã hội cụ thể mà cũng không cần khảo sát cụ thể bất kì một hiện tượng văn hóa, xã hội đơn phương nào. VHH tiến hành khảo sát và nghiên cứu tổng hợp các hiện tượng văn hóa xã hội nhằm tìm ra bản chất, quy luật vận hành và phát triển của chúng trên bình diện tổng thể. Xét về đối tượng nghiên cứu, VHH ở một chừng mực nhất định có quan hệ mật thiết với các khoa học xã hội cụ thể khác. Các kết quả nghiên cứu của các khoa học cụ thể khác sẽ cung cấp cho VHH nguồn tư liệu phân tích cụ thể, góp phần làm nền cho các khảo sát tổng hợp của VHH. Bản thân các khoa học cụ thể cũng là đối tương nghiên cứu của văn hóa.
Do VHH chủ yếu quan tâm đến tổng thể hệ thống văn hóa nên tác giả Lý Vinh Thiện [1996: 50] này chia kết cấu hệ thống lý luận của VHH thành “cộng thời thái” (共时态) và “lịch thời thái” (历时态). Ở phương diện “cộng thời thái”, VHH phải nghiên cứu các vấn đề bản chất, thuộc tính, kết cấu, chức năng, công dụng, loại hình v.v. của văn hóa. Bản chất văn hóa chính là nền tảng của toàn bộ hệ thống lý luận văn hóa. Phân tích bản chất văn hóa sẽ cung cấp khung nhận thức để từ đó lý giải chính xác về bản chất con người, lý giải các hiện tượng văn hóa muôn hình vạn trạng, các hình thái văn hóa và sự khác biệt về giai tầng, cấu trúc trong nội bộ hệ thống văn hóa. Nghiên cứu chức năng, công dụng của các tiểu hệ thống của văn hóa sẽ có lợi cho việc xác định ý nghĩa của chúng đối với sự sinh tồn và phát triển của con người. Ở phương diện “lịch thời thái”, nhà văn hóa phải nghiên cứu nguyên nhân và quy luật chung của nguồn gốc, quá trình tích lũy, sự truyền bá, sự biến thiên và phát triển của văn hóa. VHH phải bàn đến nhân tố tác dụng tương quan phát sinh từ văn hóa, văn minh, từ đó rút ra động lực nội tại của sự hình thành văn hóa, nêu bật tính ngẩu nhiên và tất nhiên của sự hình thành văn hóa.
c. Phạm vi nghiên cứu
Do mục đích nghiên cứu khác nhau nên Lý Vinh Thiện [1996: 51-53] chia phạm vi nghiên cứu VHH làm VHH lý luận và VHH ứng dụng. VHH lý luận, còn gọi là VHH vĩ mô, chú trọng đến nghiên cứu lý luận tổng thể hệ thống văn hóa, nòng cốt nghiên cứu là quan hệ con người – văn hóa, thể hiện chủ yếu ở quá trình “nhân hóa”, quan hệ giữa văn hóa - tự do, văn hóa và xã hội, văn hóa và đời sống con người, bản chất văn hóa và giá trị luận văn hóa nhằm rút ra được quy luật chung nhất của sự phát triển của văn hóa. VHH lý luận bao gồm lý luận cơ bản VHH, lịch sử tư tưởng VHH, lịch sử VHH v.v.. Hiện tại nghiên cứu VHH lý luận tại Trung Quốc còn rất non yếu. VHH ứng dụng còn gọi là VHH vi mô (vi quan) chú trọng nghiên cứu các hiện tượng văn hóa cụ thể, ứng dụng các nguyên lý cơ bản, phương pháp và kết luận của nghiên cứu vào thực tiễn hoạt động xã hội, từ đó tìm ra biện pháp giải quyết tương ứng. Lĩnh vực này bao gồm VHH nhận thức, VHH khoa học, VHH chính trị, VHH kinh tế, VHH quân sự, VHH tâm lý, VHH đô thị, VHH quản lý, VHH nghệ thuật, VHH giáo dục, VHH sinh thái, VHH nông thôn, VHH doanh nghiệp, VHH tôn giáo v.v..Trước xu thế phát triển của nghiên cứu VHH hiện tại ở Trung Quốc cùng với đà phát triển không ngừng của kinh tế, VHH ứng dụng ngày càng được chú ý nhiều hơn trong xã hội Trung Quốc.
Về hai lĩnh vực sử học văn hóa và VHH so sánh, các tác giả Trung Quốc không đạt được sự thống nhất. Trong khi một số tác giả cho hai lĩnh vực này thuộc VHH nhưng Lý Vinh Thiện [1996: 52] lại phủ nhận điều này. Theo ông, sử học văn hóa coi quá trình phát sinh, phát triển của văn hóa nhân loại làm đối tượng nghiên cứu, do vậy nó là một phân ngành khoa học của sự phát triển, giống như lịch sử văn học, lịch sử nghệ thuật, lịch sử khoa học kỹ thuật, lịch sử triết học v.v.. Còn VHH so sánh thuộc lĩnh vực nghiên cứu văn hóa chứ không thuộc VHH. Theo ông, cả ba đều là phân khoa học của nghiên cứu văn hóa. Trong hệ thống nghiên cứu văn hóa, VHH chiếm vị trí cao nhất, sử học văn hóa chiến vị trí thấp nhất, trung gian là VHH so sánh.
d. Phương pháp nghiên cứu
Sự hình thành và phát triển của một khoa học không chỉ cần có đối tượng nghiên cứu rõ ràng mà phải có cả phương pháp nghiên cứu chính xác. Đầu tiên phải kể đến phương pháp luận, sau đó đến các phương pháp cụ thể.
- Phương pháp luận VHH: các tác giả Trung Quốc đều thống nhất coi chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận VHH. Chủ nghĩa duy vật lịch sử giúp con người thể hiện những điều huyền diệu trong bản chất con người, bản chất văn hóa. Nó cung cấp phương pháp luận và nhận thức luận biện chứng cho quá trình tái cấu trúc hệ thống văn hóa. Theo yêu cầu của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu VHH phải có sự chuyển đổi rõ rệt. Thứ nhất, chuyển từ nghiên cứu thực tế kinh nghiệm cụ thể sang nghiên cứu trừu tượng. Thời gian đầu, các nhà VHH Trung Quốc thươờg sử dụng phương pháp xã hội học để xử lý các hiện tượng văn hóa, vô hình trung đã biến các hiện tượng văn hóa “sống” thành hiện tượng “chết” rồi đi tìm quy luật phổ biến của các hiện tượng “chết” này. Do vậy thành quả nghiên cứu được không trực tiếp thể hiện ý nghĩa thật sự của các hiện tượng văn hóa. Bản thể luận VHH yêu cầu nhà nghiên cứu phải bám sát vấn đề sinh tồn và tự do của con người, phải coi con người là một thực thể sống và không ngừng thay đổi, phát triển trong nghiên cứu. Thứ hai, đi từ phương pháp nghiên cứu tâm lý học đến phương pháp triết học nhân văn. Trước đây, các nhà VHH Trung Quốc thường chỉ chú ý đến các hiện tượng văn hóa trong đời sống hiện thực như văn hóa kinh tế, văn hóa chính trị v.v., thường coi văn hóa là một hiện tượng tâm lý, bỏ qua nhiệm vụ căn bản của VHH là thúc đẩy sự phát triển của con người. Theo bản thể luận, các hiện tượng văn hóa đều là hiện tượng con người, do vậy nghiên cứu VHH phải đi từ phương pháp nghiên cứu tâm lý học kinh nghiệm đến phương pháp triết học nhân văn, tức coi con người là hình tượng luôn không ngừng phấn đấu vượt qua chính mình, hướng tới sự hoàn thiện. Thứ ba, đi từ nghiên cứu ; ý luận trừu tượng đến nghiên cứu hiện thực cụ thể. Trước đây, giới nghiên cứu VHH Trung Quốc thường chỉ nghiên cứu một số bộ phận nhỏ của văn hóa như văn hóa Nho gia, văn hóa Phật giáo. Loại nghiên cứu này có ý nghĩa cố định nhưng không mang tính phổ biến và tính điển hình, tức không hoàn thành sứ mệnh của VHH. Do vậy, VHH phải trở về với hiện thực đương đại, khảo sát các hiện tượng văn hóa đương đại để phục vụ sự phát triển của xã hội đương đại.
- Các phương pháp điển hình nghiên cứu VHH:
Hiện tại nhiều tác giả nghiên cứu lý luận VHH đã đề xuất và áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu VHH khác nhau, trong đó có những phương pháp đã đạt được sự thống nhất chung, cũng có những phương pháp đi theo nhiều chiều hướng khác nhau tùy thuộc vào lĩnh vực quan tâm của các tác giả. Nhìn chung, đa phần các phương pháp này được các tác giả Trung Quốc tiếp thu từ VHH ở phương Tây. Trước hết là các phương pháp thống nhất.
+ Phương pháp triết học: là phương pháp quan trọng, đảm bảo tính khoa học của nghiên cứu VHH. Phương pháp triết học tại Trung Quốc được phân thành nhiều tiểu phương pháp khác nhau, bao gồm: phương pháp “lưỡng quy kết” (两归结), phương pháp thống nhất chủ thể và khách thể, phương pháp phân tích tổng hợp các mâu thuẫn xã hội, phương pháp thống nhất giữa logic và lịch sử.
+ Phương pháp chỉnh thể: phương pháp khảo sát toàn bộ phương vị của một hệ thống văn hóa bất kỳ. Nhà nghiên cứu đặt tất cả các hiện tượng văn hóa của nhân loại thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi thành tố văn hóa không thể tồn tại độc lập màđều có quan hệ hữu cơ với các thành tố khác trong cùng hệ thống. Các nghiên cứu độc lập không thể chỉ ra được đặc tính chỉnh thể và quan hệ nội tại của hệ thống văn hóa. Vì vậy, phương pháp này đang được sư dụng rộng rãi tại Trung Quốc [Lý Vinh Thiện 1996: 60]. Hai tác giả Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo [1991: 40] đặc biệt coi trọng phương pháp này, cho rằng nó đảm bảo ý nghĩa phổ biến nhất của đối tượng nghiên cứu.
+ Phương pháp quan sát - khảo sát thực địa: Đây là phương pháp cơ bản mà tất cả các khoa học đều áp dụng. Theo phương pháp này, nhà nghiên cứu VHH thông qua trực tiếp khảo sát đối tượng tìm kiếm loại tư liệu đầu tay đáng tín cậy nhất cho nghiên cứu của mình. Các loại tư liệu có được qua tay những người nghiên cứu trước do nhiều lý do khác nhau không thể làm hài lòng các nhà nghiên cứu ưu tú, chẳng hạn các vấn đề đặc điểm tâm lý dân tộc thường được những người đi trước nhân thức theo cảm tính nên sự tin cậy của loại tư liệu này không cao bằng tư liệu thu được qua trực tiếp khảo sát. Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau ở phương Tây đã áp dụng thành công và hoàn thiện dần phương pháp này, đồng thời gặt hái được nhiều thành quả to lớn cho khoa học. Giới nghiên cứu Trung Quốc ngay từ khi hình thành VHH cũng đã rất chú trọng phương pháp này. Khi áp dụng, họ chú ý đến hai khía cạnh quan trọng đảm bảo sự thành công của phương pháp, đó là tính khách quan và tính toàn diện trong nghiên cứu.
+ Phương pháp tư duy logic: còn gọi là phương pháp phân tích, là phương pháp nghiên cứu cơ bản của VHH. Ở một mức độ nhất định, phương pháp này cung cấp giá trị lý luận cho nghiên cứu VHH. Phương pháp này chú trọng hai khâu quan trọng, đó là phân tích và tổng hợp. Phân tích là đem các hiện tượng văn hóa phức tập phân giải thành các nhóm thành tố, từ đó khảo sát riêng từng nhóm để tìm ra đặc điểm, tính chất của từng thành tố một. Quá trình tổng hợp là quá trình liên kết các đặc điểm, tính chất đã tìm ra để khảo sát tổng thể rồi rút ra cái cốt lõi của vấn đề. Trong phương pháp này giới nghiên cứu VHH Trung Quốc chủ trương vận dụng triết học chủ nghĩa Mác làm nền tảng suy luận.
+ Phương pháp nghiên cứu lịch sử: là phương pháp cơ bản trong nghiên cứu VHH, phương pháp truy tìm quan hệ lịch sử theo chiều dọc của các hiện tượng văn hóa. Phương pháp này đòi hỏi nhà nghiên cứu nắm bắt được lai lịch, diễn biến của các hiện tượng văn hóa, qua tham chiếu các tư liệu văn hiến và văn vật để nhân thức ra hình thái tồn tại của văn hóa trong lịch sử cũng như ảnh hưởng của nó đối với văn hóa hiện đại, đồng thời tìm ra quy luật chung cho sự phát triển của văn hóa trong tương lai. Các nhà nghiên cứu VHH đặc biệt chú trọng phương pháp này vì muốn đảm bảo các nghiên cứu của mình mang tính thực tiễn.
+ Phương pháp so sánh: là một phương pháp thường thấy trong nghiên cứu VHH cũng như các khoa học khác tại Trung Quốc. Phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu mang các tư liệu văn hóa, hiện tượng văn hóa tiến hành so sánh, khái quát, phân loại ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau để phát hiện và lý giải các mối liên hệ và quan hệ lẫn nhau giữa các hiện tượng văn hóa hay giữa các nhân tố nội tại của các hiện tượng văn hóa, từ đó nắm được bản chất đặc thù và bản chất phổ biến của các loại hiện tượng văn hóa, quy luật đặc thù và quy luật phổ biến của sự phát triển văn hóa. Do mục đích so sánh khác nhau, phương pháp này được chia ra thành phương pháp so sánh lịch sử (nghiên cứu so sánh theo chiều dọc), phương pháp so sánh loại hình (nghiên cứu so sánh theo chiều ngang) và phương pháp so sánh kết hợp cả chiều dọc và chiều ngang. Do thao tác tiến hành khác nhau, phương pháp so sánhcòn được chia ra thành nhiều phương pháp nhỏ như so sánh khống chế, so sánh văn hóa giao tham v.v.. Lý Vinh Thiện [1996: 58-59] thì chia phương pháp này ra dưới dạng hai hình thức: phương pháp so sánh loại (loại tỉ pháp) và phương pháp so sánh thông thường. Phương pháp so sánh loại căn cứ vào một đặc điểm chung (tương tự) về bản chất của hai hiện tượng văn hóa để đoán định răằg hai hiện tượng đó có nhiều điểm chung (tương tự) khác. Phương pháp so sánh thông thường thì coi trong nghiên cứu so sánh cả tính tương đồng và dị biệt giữa chúng. Các tác giả đặc biệt chú trọng đến tính khách quan của tiêu chuẩn so sánh trong nghiên cứu.
+ Phương pháp văn hiến: là một phương pháp cơ bản trong nghiên cứu VHH. Phương pháp này thông qua khảo sát các nguồn tư liệu ghi chép như sách, báo, tài liệu viết tay v.v.. để tham chiếu với các tư liệu cóđược qua khảo sát thực địa, từ đó phân tích chính xác và toàn diện đối tượng được nghiên cứu. Phương pháp này đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức rộng về lĩnh vực nghiên cứu, nắm được phương pháp luận và các trình tự khoa học trong nghiên cứu.
Ngoài ra còn có một số phương pháp nghiên cứu khác được đề xuất trong nghiên cứu VHH như sau:
+ Phương pháp phân tích quan niệm: phương pháp nghiên cứu quan niệm giá trị con người thông qua khảo sát phương thức sống và sản xuất của con người. Phương pháp này nghiên cứu từ hình thức đến nội dung, từ bề nổi đến chiều sâu của vấn đề. Văn hóa của bất kỳ dân tộc nào cũng bao hàm cả phương thức tư duy, quan niệm giá trị, ý thức thẫm mỹ, ý thức chính trị, quan niệm đạo dức, quan niệm thời gian – không gian v.v.. Thông qua phương pháp này, nhà nghiên cứu sẽ nhận thức được quan niệm về tính dân tộc, tư tưởng triết học, văn hóa, nghệ thuật v.v. của dân tộc đó. Tuy nhiên, phương pháp này đi từ cảm tính sang lý tính nên đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có trình độ và bản lĩnh vững vàng trong nghiên cứu. Hiện tại phương pháp này chưa được áp dụng tại Trung Quốc.
+ Phương pháp nghiên cứu trường hợp (nghiên cứu cá án – 个案研究): giới nghiên cứu lý luận VHH Trung Quốc đánh giá rằng các nghiên cứu xuyên văn hóa trong VHH sẽ thiếu cơ sở tin cậy nếu không có tiền đề của nghiên cứu trường hợp. Nghiên cứu trường hợp đi sâu vào các chi tiết, khía cạnh cụ thể của một trường hợp (cá án) nhất định để rút ra được quy luật chung của cả “chủng loại”. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến ở Trung Quốc.
+ Phương pháp khoa học hiện đại: phương pháp áp dụng các thành quả nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khác kể cả khoa học tự nhiên vào nghiên cứu VHH đưới góc độ tổng thể. Các nhà lý luận cho rằng thành quả của khoa học hiện đại đã chứng minh tính biện chứng của các khoa học trong toàn bộ hệ thống rất cần thiết trong nghiên cứu VHH, chẳng hạn VHH có thể áp dụng các lý luận hệ thống luận, khống chế luận, thông tin luận, hiệp đồng luận, đột biến luận, phương pháp toàn học v.v.. trong nghiên cứu của mình [Lý Vinh Thiện 1996: 61].
Tùy trường hợp cụ thể còn có các phương pháp bổ trợ khác như phương pháp phát sinh học, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp phân tích biểu tượng, phương pháp mô thức văn hóa, phương pháp phân tích chủ nghĩa tương đối văn hóa, phương pháp nghiên cứu lập thể, phương pháp sinh thái học, phương pháp nghiên cứu truyền bá theo chiều ngang lẫn chiều dọc v.v. Các phương pháp này đều có đóng góp tích cực cho nghiên cứu VHH ở những mức độ và tính chất khác nhau [Chu Hồng Vũ.. 1987: 58]. Các phương pháp này có thể sử dụng kết hợp đồng thời tùy trường hợp và tuỳ quan điểm của nhà nghiên cứu.
- Trình tự và kỹ thuật nghiên cứu VHH: Tác giả Hoàng Văn Sơn đề xuất trình tự và kỹ thuật nghiên cứu VHH được giới nghiên cứu đánh giá cao. Cụ thể gồm có 5 bước sau:
(1) vạch ra phạm vi văn hóa hay giới hạn niên đại làm phạm vi nghiên cứu;
(2) nắm vững chân tướng của phạm vi văn hóa hay giới hạn niên đại đã đóng khung;
(3) chú ý các quan hệ bên ngoài của nó, phát hiện các quan hệ tương hỗ, tìm kiếm đặc điểm, tính chất văn hóa và ảnh hưởng qua lại giữa các yếu tố văn hóa;
(4) nghiên cứu kỹ các yếu tố biến động văn hóa; và
(5) áp dụng các khái niệm và nguyên tắc văn hóa làm nguyên tắc nghiên cứu [dẫn trong Lý Vinh Thiện 1996: 62-63; Chu Hồng Vũ.. 1987: 58].
e. Tính chất và vị trí của văn hóa học
Về tính chất, VHH hội tụ ba đặc điểm sau:
Thứ nhất, VHH là một khoa học xã hội mang tính tổng hợp, nó nghiên cứu các hiện tượng văn hóa cùng với các quy luật của văn hóa ở tất cả các bình diện của hệ thống.
Thứ hai, VHH là một khoa học vừa mang tính lý luận trừu tượng vừa mang tính cụ thể kinh nghiệm.Hiện tượng văn hóa tồn tại khi làm hiện tượng kinh nghiệm trong đời sống xã hội, bất luận là hiện tượng vật chất, hiện tượng hành vi hay hiện tượng tinh thần. Hiện tượng văn hóa là cụ thể, là sống, được con người cảm thụ bằng các giác quan. Do vậy, VHH nghiên cứu các hiện tượng văn hóa cũng mang tính chất kinh nghiệm ở một chừng mực nhất định. Tuy vậy, VHH vẫn có tính lý luận cao trong nghiên cứu nên nó không hoàn toàn là một khoa học kinh nghiệm cụ thể như các khoa học cụ thể khác như dân tộc học, kinh tế học v.v..
Thứ ba, VHH là một khoa học xã hội chuyên nghiên cứu và rút ra bản chất con người, trí tuệ và năng lực sang tạo thực tiễn của họ. Văn hóa chính là đối tượng hóa của trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo thế giới khác quan. Con người và văn hóa quy định lẫn nhau. VHH nghiên cứu bản chất và quy luật phát triển của văn hóa về cơ bản cũng chính là nghiên cứu và rút ra kết luận về bản chất con người cùng với sức mạnh của họ ở góc độ khoa học. Thông qua VHH, chúng ta sẽ nhận thứ sâu thêm phương thức mà con người sử dụng trí tuệ của mình để sang tạo thế giới, từ đó rút ra quy luật và định hướng phát triển [Dương Kính Giang 1992: 1-5], [Lưu Thủ Hoa 1992: 25].
Về vị trí, hiện tại các học giả Trung Quốc vẫn đang tranh luận về vị trí của khoa học này trong toàn bộ hệ thống khoa học. Nhìn chung, có ba xu hướng chính:
- Xu hướng coi VHH nằm ở điểm đỉnh của “kim tự tháp” khoa học, coi VHH là khoa học cao nhất trong hệ thống khoa học kể cả tự nhiên lẫn xã hội. Đại diện cho xu hướng này có Tiêu Dương, Hồ Chí Minh [1989], Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo [1991: 35-40]. Các tác giả thuộc khuynh hướng này cho rằng đối tượng nghiên cứu của các khoa học khác về thực chất đều thuộc hệ thống văn hóa, trong khi VHH nghiên cứu chính hệ thống văn hóa này. Các khoa học khác chỉ nghiên cứu các yếu tố, phương diện, quá trình, khâu đoạn, chức năng cá biệt của hệ thống văn hóa. Các tác giả Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo [1991: 35] cho rằng các khoa học cụ thể chỉ quan tâm đến công tác nghiên cứu ở lĩnh vực của mình mà không nhận thức được ý nghĩa của mình trong hệ thống văn hóa cùng với mối liện hệ văn hóa giữa chúng với các khoa học khác. Nhiệm vụ đó thuộc về VHH. Chẳng hạn triết học cũng chỉ nghiên cứu triết, nhân loại học chỉ nghiên cứu con người và chủng loài v.v... Hai tác giả này còn ví von rằng các khoa học cụ thể trong hệ thống khoa học như “những chiến sĩ trên mặt trận khai phá văn hóa nhân loại trong khi VHH giữ vị trí thống soái”, “nhiệm vụ của nó là phân tích ý nghĩa văn hóa của mội trận địa mà các chiến sĩ khai phá được”. Ngoài ra, theo hai tác giả này, VHH còn có một khoa học bao trùm lên chính nó, đó là VHH học (hay nguyên văn hóa học). Mỗi khoa học trong nó còn có nguyên khoa học, thường gọi là khoa học học. VHH cũng thế. Bên cạnh đó, tất cả các hoạt động đều là hiện tượng văn hóa, đều là đối tượng của VHH. Do vậy VHH cũng coi bản thân các hoạt động khoa học làm đối tượng nên nó có thể trở thành một nguyên khoa học cao nhất. Ngay cả triết học cũng không có vị trí này của triết học.
- Xu hướng thứ hai coi VHH là khoa học tổng hợp cơ bản nằm ở vị trí cao nhất trong hệ thống khoa học xã hội nhân văn. Các tác giả tiêu biểu gồm có Chu Hồng Vũ 周洪宇[1987: 47-58], Lý Vinh Thiện [1996: 45-55], v.v. Lập luận cơ bản của quan điểm này khá giống với quan điểm trên, chỉ khác nhau ở phạm vi mà thôi. Tác giả Lý Vinh Thiện còn lập luận rằng vị trí tối cao này của VHH trong hệ thống khoa học xã hội nhân văn có được một phần là do xu thế chuyển hướng nghiên cứu từ tự nhiên sang xã hội, từ cụ thể đến tổng hợp của khoa học trên toàn thế giới. Thêm vào đó, xu hướng coi trọng tư duy con người, chú trọng sắc thái giá trị, xác định vị trí của toàn nhân loại, của từng dân tộc, từng cá thể trong hệ thống giá trị đã tạo nền cho VHH chiếm vị trí cao nhất trong “kim tự tháp” khoa học xã hội nhân văn [Lý Vinh Thiện 1996: 45-56].
- Xu hướng thứ ba coi VHH là một khoa học tổng hợp thuộc hệ thống khoa học xã hội, có vị trí thấp hơn triết học nhưng cao hơn các khoa học cụ thể khác cùng hệ thống. Có thể thấy giới nghiên cứu lý luận VHH tại Trung Quốc phần nhiều thiên về quan điểm thứ ba này. Tiêu biểu cho xu hướng này là Dương Kính Giang [1992: 4|, Chu Hồng Vũ 周洪宇, Trình Khởi Hạo程启灏, Du Hoài Ninh 俞怀宁, Hùng Kiến Hoa 熊建华 [1987: 53-54]. Theo tác giả này, tuy VHH có đối tượng nghiên cứu mang tính tổng hợp nhưng nó không quá khái quát như triết học, nó thấp hơn triết học. VHH không thể cung cấp thế giới quan và phương pháp luận mà ngược lại nó tiếp nhận từ triết học. Cụ thể hơn ở trường hợp Trung Quốc, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác mới cung cấp cho VHH thế giới quan và phương pháp luận. VHH hình thành và phát triển dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác. Ngược lại VHH có thể coi triết học là đối tượng nghiên cứu, là đối tượng khảo sát của mình. Vị trí cụ thể của VHH trong hệ thống khoa học được các tác giả Chu Hồng Vũ, Trình Khởi Hạo.. miêu tả qua sơ đồ sau (hình 1).
Tuy vậy, các tác giả cũng nhấn mạnh rằng mặc dù có vị trí cao trong hệ thống khoa học xã hội nhân văn, VHH vẫn phải coi trong mối quan hệ giữa mình và các khoa học lân cận, nhất là tham khảo phương pháp nghiên cứu cũng như tiếp nhận thành quả nghiên cứu của các khoa học khác để làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của mình.
f. Văn hóa học và các khoa học lân cận
VHH là một khoa học tổng hợp nghiên cứu các loại hiên tượng văn hóa hay hệ thống văn hóa, trong khi các khoa học xã hội và nhân văn khác cũng coi văn hóa là một bộ phận trong đối tượng nghiên cứu của mình. Do vậy, việc khu biệt VHH và các khoa học khác không chỉ giúp nhận thức chính xác và toàn diện vị trí của VHH trong toàn bộ hệ thống khoa học, mà qua so sánh chúng ta còn thấy rõ sự giao thoa, ảnh hưởng và bổ trợ lẫn nhau giữa VHH và các khoa học khác trong quá trình phát triển. Dưới đây là nội dung khu biệt VHH và một số khoa học tiêu biểu của các tác giả Lý Vinh Thiện [1996: 71-80], Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo [1991: 35-40], Đàm Quang Quảng [1988: 117-119], Lưu Thủ Hoa [1992: 21-23] v.v..
- VHH và triết học
Đối tượng căn bản trong nghiên cứu triết học là quan hệ giữa con người và thế giới, là sự khái quát và tổng kết giữa ý thức tự nhiên và ý thức xã hội. Triết học còn là phương pháp luận và xuất phát điểm khoa học, vừa làm lý luận trong thực hiện vừa chỉ đạo cho lý luận trong nghiên cứu. Triết học là một khoa học tổng thể nghiên cứu con người và thế giới khác quan. Triết học Chủ nghĩa Mác là cơ sở lý luận của VHH ở Trung Quốc, là kim chỉ nam trong nghiên cứu và là phương pháp thực tiễn cụ thể của VHH. Triết học cung cấp cho các khoa học khác sự chỉ đạo về thới giới quan và phương pháp luận.
Xuất phát điểm, nội dung và mục đích của nghiên cứu triết học có nhiều điểm tương đồng với phạm vi nghiên cứu của VHH. Chẳng hạn, cả hai khoa học đều coi sự tồn tại của con người là sứ mệnh cao nhất, đều quan tâm đến quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa con người và xã hội, đến sự tiến bộ của ý thức tự nhiên và ý thức xã hội, đều đi từ vĩ mô đến vi mô. Dù vậy, triết học, đặc biệt là triết học văn hóa vẫn khác với VHH. Tuy triết họccũng nghiên cứu hiện tượng văn hóa nhưng nó nghiên cứu tất cả các hiện tượng của giới tự nhiên, xã hội con người lẫn tư duy, từ đó rút ra quy luật phổ biến chung nhưng triết học (triết học văn hóa) thiên về khuynh hướng suy luận (tư biện), logic, hình nhi thượng, còn VHH thì thiên về mặt lý luận, thuộc loại “lý luận trung hình”. Tuy VHH có đầy đủ các mô thức lý luận song lại chú ý hơn ở sự kết hợp giữa tư liệu thực tế và suy luận lý luận, không quá trừu tượng và khái quát như triết học (triết học văn hóa). Tóm lại, triết học nghiên cứu bản thể thế giới, còn VHH nghiên cứu bản thể văn hóa. Mục tiêu trực tiếp của VHH là con người và văn hóa, khác với mục tiêu của triết học.
- VHH và xã hội học
Xét ở nghĩa rộng, xã hội học nghiên cứu tổng thể các hiện tượng xã hội và các vấn đề xã hội, bao gồm quan hệ xã hội, đời sống xã hội, chế độ xã hội, cải cách xã hội, vận hành xã hội v.v., kể cả các vấn đề xã hội như hôn nhân, gia đình, công tác thanh niên, việc làm, đô thị, tội phạm v.v.. Bên cạnh đó, xã hội học còn nghiên cứu nhiều khía cạnh xã hội mà các khoa học khác chưa nghiên cứu đến. Ở một chừng mực nhất định, VHH có quan hệ gần gũi với xã hội học.
Dù vậy, các hiện tượng văn hóa nằm trong đối tượng nghiên cứu của xã hội học chỉ đơn thuần là lĩnh vực văn hóa thể hiện qua các sản phẩm văn hóa, đồng thời xã hội học coi trọng khảo sát hiện thực, coi trọng các vấn đề kết cấu xã hội, chế độ xã hội, biến thiên xã hội, quan hệ xã hội, chức năng xã hội v.v., từ đó nắm được tổng thể các sự kiện xã hội, bộ mặt xã hội, rút ra các quy luật chung của xã hội và đề ra các biện pháp giải quyết. Khác với xã hội học, VHH chú trọng đến quan hệ giữa con người tham gia vào các hành vi, sự kiện xã hội đó và văn hóa, từ đó nắm được vị trí của con người trong toàn bộ hệ thống giá trị, rút ra cơ chế của hệ thống văn hóa và quy luật phát triển. Về mặt phương pháp nghiên cứu, xã hội học thường lựa chọn phương pháp kinh nghiệm, thiếu phương pháp triết học nhân văn của VHH. Nói về quan hệ giữa VHH và xã hội học, nhà nghiên cứu VHH Lưu Thủ Hoa [1992: 21-23] cho VHH tách ra từ xã hội học và nhân loại học văn hóa đã hơn nửa thế kỷ”, “xã hội học và nhân loại học văn hóa không thể đảm nhiệm được vai trò của nghiên cứu VHH”, vì vậy “VHH là một khoa học độc lập”.
Qua phân tích trên cho thấy VHH và xã hội học là hai khoa học độc lập, có góc nhìn, mục đích khác nhau, nhìn nhận một hiện tượng ở những khía cạnh khác nhau nên cả hai không thể thay thế cho nhau. VHH và xã hội học có thể bổ trợ cho nhau trong phát triển. Sự giao thoa của hai khoa học này làm tiền đề xuất hiện của xã hội học văn hóa. Tuy VHH và xã hội học văn hóa đều có đối tượng nghiên cứu là con người, xã hội, văn hóa song xã hội học văn hóa dung lý luận xã hội học trong nghiên cứu trong khi VHH có hệ thống lý luận và phương pháp riêng của mình.
- VHH và nhân loại học
Xét về từ nguyên, nhân loại học là khoa học nghiên cứu con người và chủng loài con người. Trên thực tế, nhân loại học là một khoa học thực nghiệm lịch sử và lý luận. Nhân loại học nghiên cứu lịch sử phát triển của bản than con người cũng như văn hóa mà con người sang tạo ra ở cả tằm vĩ mô lẫn vi mô. Nhân loại học kết hợp nghiên cứu con người ở cả hai phương diện sinh vật học và văn hóa xã hội, từ đó tìm ra đặc điểm rõ nét nhất, toàn diện nhất về con người. Chính ở điểm này, nhiều nhà khoa học phương Tây đã nhầm lẫn coi VHH cũng là nhân loại học. Trong nhân loại học, bộ phận gần nhất với VHH là nhân loại học văn hóa.
Thế nhưng, nhân loại học vẫn không trùng khớp với VHH. Sự khác biệt này thể hiện ở hai phương diện. Một là, nhân loại học và VHH khác nhau ở khía cạnh của đối tương và phạm vi không gian, thời gian trong nghiên cứu. Nhân loại học thiên về chú ý các phương thức sinh hoạt, phương thức tư duy, mô thức hành vi v.v.. của con người thời tiền sử hay các dân tộc thời nay đang ở giai đoạn chưa khai hóa, trong khi đó VHH lại chú trọng đến mặt suy luận các vấn đề sinh tồn và tự do của con người ở góc độ văn hóa hiện thực. Ngay cả nhân loại học văn hóa cũng có mục đích nghiên cứu không trùng hợp với VHH. Hai là, nhân loại học và VHH có phương pháp nghiên cứu khác nhau. Phương pháp nghiên cứu của nhân loại học được xây dựng trên cơ sở của tâm lý học kinh nghiêm, trong khi phương pháp nghiên cứu của VHH được xây dựng trên cơ sở bản thể luận. Dĩ nhiên, xã hội loài người có nhiều biến động, chẳng hạn chiêế tranh và hoà bình, sự dịch chuyên đa chiều của loài người, sự mất cân bằng sinh thái v.v.. đã khiến nhân loại học mở rộng phạm vi nghiên cứu đến các hiện tượng văn hóa, các loại hình đời sống hiện đại cũng như sự biến thiên văn hóa trong xã hội. Các thành quả này hoàn toàn có lợi cho VHH trong quá trình phát triển sự nghiệp khoa học của mình.
- VHH và lịch sử học
Lịch sử học là khoa học tương đối cổ xưa trong toàn bộ hệ thống khoa học. Sự hình thành và phát triển của VHH chắc chắn có quan hệ mật thiết với lịch sử học. Cả hai khoa học có nhiều điểm tương đồng, đều thừa nhận đối tượng nghiên cứu của mình có tính quy luật, và đều xem xét rút ra nội dung cốt lõi nhất của các quy luật. Cả hai khoa học đều lấy con người làm trung tâm, đều nhấn mạnh cơ sở vật chất của các hiện tượng văn hóa và lịch sử đều là sự phản ánh của kinh tế, chính trị, xã hội và mối quan hệ giữa chúng. Cả hai khoa học đều đặt trọng tâm nghiên cứu ở sự biến thiên văn hóa, sự chuyển dịch văn hóa do hai đối tượng thuộc hai xã hội khác nhau tiếp xúc nhau tạo nên.
Bản thân lịch sử cũng là một hiện tượng văn hóa. Con người ở các thời đại khác nhau được kết nối nhau không chỉ bằng thời gian mà còn bằng văn hóa. Ý nghĩa đặc thù của lịch sử nhân loại là do thời gian và văn hóa mang lại. Văn hóa bản thân mình cũng là một hiện tượng lịch sử. Sự đúc kết của văn hóa nhân loại là sản phẩm mà con người tích lũy được qua lịch sử và thực tiễn xã hội. Muốn hiểu được hiện tượng văn hóa phải tiên hành nghiên cứu lịch đại. Về phương điển này, lịch sử học có vai trò bổ trợ. Thế nhưng, lịch sử học và VHH vẫn khác nhau. Lịch sử học chủ yếu nghiên cứu hoạt động lịch sử, sự biến thiên xã hội và quy luật phát triển của nhân loại, có căn cứ là các loại tư liệu lịch sử được ghi chép bằng văn tự, các nguồn tài liệu sưu tập trong dân gian hay khảo cổ. Trong khi đó, VHH chủ yếu nghiên cứu quy luật của văn hóa cùng với tác dụng của nó trong lịch sử, tuy không có ghi chép văn tự nhưng có thể tham chiếu các hiện tượng văn hóa xã hội của các dân tộc đang còn ở giai đoạn nguyên thuỷ thời hiện tại để suy đoán quá trình hình thành, sáng tạo và vận dụng văn hóa của con người thời cổ đại. Điều quan trong là lịch sử đặt trọng tâm nghiên cứu quá khứ, không quan tâm nhiều đến nghiên cứu hiện tại và tương lai, còn VHH không chỉ nghiên cứu sự phát sinh, phát triển và tác dụng xã hội của văn hóa trong lịch sử mà còn chú trọng nghiên cứu cả ảnh hưởng của sự phát sinh, phát triển của văn hóa ở hiện tại và tương lai. Lịch sử học nếu có cũng chỉ tổng kết một số kinh nghiệm lịch sử cung cấp cho con người hiện tại mà thôi, không giống như VHH miêu tả trực tiếp phương thức sống và phương thức hành vi mà các hiện tượng văn hóa can dự vào đời sống con người hiện đại.
Về mặt phương pháp nghiên cứu, điểm khác nhau nằm ở chỗ sự lựa chọn hình thức. Lịch sử học thông qua sự thật cụ thể đi tìm nội dung các phương điện văn hóa, cũng như diễn biến, phát triển của văn hóa, trong khi VHH xem xét mối quan hệ lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại của hệ thống văn hóa trên tổng thể, từ đó nắm được quy luật chung của sự phát triển văn hóa. Tuy vậy, phương pháp tư duy logic và trừu tượng khoa học của lịch sử học rất cần thiết trong nghiên cứu VHH.
- VHH và dân tộc học
Dân tộc học là một khoa học xã hội chuyên nghiên cứu quy luật phát triển chung của các dân tộc xưa và nay. Do dân tộc học có phạm vi và mục đích nghiên cứu rộng, một số nhà khoa học phương Tây đã đồng nhất dân tộc học với VHH. Song, sự đồng nhất này hoàn toàn không chính xác. Nhìn trong lịch sử khoa học, dân tộc học thường nghiên cứu các dân tộc tương đối lạc hậu, còn gọi là “dân tộc tự nhiên”. Trong ranh giới của một quốc gia, đối tượng nghiên cứu của dân tộc học chủ yếu là các dân tộc thiểu số. Dân tộc học thường coi trọng nghiên cứu một dân tộc cụ thể (bao gồm cả thị tộc, bộ lạc, bộ tộc) cùng với các vấn đề nguồn gốc, quá trình thiên di, quá trình phát triển, địa lý phân bố, hoạt động sản xuất, phong tục tập quán, sự giao lưu tiếp biến văn hóa của dân tộc đối tượng. Đồng thời, dân tộc học còn nghiên cứu động thái văn hóa của dân tộc đối tượng. Phương pháp nghiên cứu căn bản là phương pháp thực địa, vì vậy có người còn gọi nhà nghiên cứu dân tộc học là nhà khảo cổ chuyên tìm kiếm các tư liệu khảo cổ sống. VHH khác với dân tộc học, nó chú trọng cung cấp nguyên tắc lý luận mang tính tổng hợp phổ biến trên cơ sở của dân tộc học. Do vậy, VHH càng mang tính phân tích nhiều hơn. Phạm vi nghiên cứu của VHH rộng hơn nhiều so với dân tộc học. Tuy vậy, trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống lý luận VHH cần phải tham khảo các tư liệu và thành quả nghiên cứu của dân tộc học. Ở điểm này, các nghiên cứu sâu về văn hóa của dân tộc học không những không trùng lắp với VHH mà lại có tác dụng quan trong trong việc thúc đẩy VHH phát triển.
- VHH và ngôn ngữ học
Ngôn ngữ không chỉ là công cụ giao tiếp hay một hệ thống tín hiệu đơn thuần mà về bản chất còn là hệ thống ý nghĩa, hệ thống giá trị và là thế giới quan của một dân tộc. Ngôn ngữ giúp con người xây dựng mô thức văn hóa, truyền bá văn hóa theo không gian và thời gian. Muốn hiểu toàn diện văn hóa của một dân tộc phải hiệu ngôn ngữ của họ. Mặt khác, văn hóa làm cho ngôn ngữ của các dân tộc có những lối giải thích và tác dụng khác nhau, do vậy muốn hiểu được ngôn ngữ phải hiểu được văn hóa. Ngôn ngữ và văn hóa không thể tách rời nhau. Trong khoa học cũng vậy, VHH và ngôn ngữ học có quan hệ mật thiết với nhau.
Ngôn ngữ học là một hệ thống khoa học đa chủng loại, đa tầng lớp trong hệ thống khoa học nhân văn. Đối tượng nghiên cứu chính của ngôn ngữ học là ngôn ngữ. Ngôn ngữ học vừa nghiên cứu một loại ngôn ngữ cụ thể và các mối quan hệ than thộc của nó vừa nghiên cứu nguồn gốc, bản chất và quy luật của nó cũng như các vấn đề cụ thể như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và các quy luật của chúng. Xét về nhiều mặt đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu, VHH và ngôn ngữ học là hai khoa học độc lập có sự giao thoa lẫn nhau trong một vài khía cạnh cụ thể. Nghiên cứu ngôn ngữ học là động lực của nhiều khoa học xã hội nhân văn, trong đó có VHH. Do vậy, các thành quả nghiên cứu của ngôn ngữ học đều được VHH tiếp nhận và sử dụng trong nghiên cứu.
- VHH và tôn giáo học
Qua thống kê cho thấy hơn 60% dân số thế giới theo tôn giáo [Lý Vinh Thiện 1996: 78], trên thực tế tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng, đời sống, đạo dức của con người, do vậy nó có ảnh hưởng đến văn hóa. Nghiên cứu VHH không thể không tham khảo nghiên cứu tôn giáo học. Cùng với VHH, các khoa học triết học, xã hội học, nhân loại học v.v. cũng đều vượt qua phạm trù và giới hạn của mình để nghiên cứu tôn giáo ở những góc độ, khía cạnh, giai tầng khác nhau để làm phong phú thêm khoa học của mình.
- Với tư cách là một khoa học tổng hợp, VHH còn có quan hệ ở nhiều cấp độ khác nhau với văn học, nghệ thuật, luân lý học, thần thoại học, dân tục học, tâm lý học, kinh tế học, giáo dục học, chính trị học, pháp luật học v.v.. VHH sẽ tìm thấy nhiều nguồn tư liệu quan trọng trong các khoa học này.
(Nguồn: Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo [1991: 45]).
g. Hệ thống khoa học nghiên cứu văn hóa học
Các tác giả Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo [1991: 35-40] cho hệ thống khoa học nghiên cứu VHH là một hệ thống tổng hợp hình thành từ nhiều phân chi khoa học khác nhau, cụ thể gồm có:
- Nguyên VHH: khoa học nghiên cứu bản thân VHH với mục đích xem xét các vấn đề liên quan đến sự hình thành và phát triển của khoa học VHH, chẳng hạn tính chất, kết cấu VHH, phân loại VHH, đối tượng nghiên cứu của VHH v.v., còn gọi là Văn hóa học học. Nghiên cứu Nguyên VHH rất quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt quyết định tính độc lập của VHH trong toàn hệ thống khoa học. Ngoài ra, Nguyên VHH còn nghiên cứu các vấn đề quan trọng khác như ý nghĩa văn hóa của việc nghiên cứu VHH, ý nghĩa và tác động của nó đối với sự phát triển văn minh nhân loại v.v..
- VHH chung: là khoa học nghiên cứu lý luận chung của văn hóa trên tổng thể. Sự hình thành của VHH chung có lợi cho việc tìm hiểu chỉnh thể văn hóa ở tầm vĩ mô cũng như nhận thức toàn diện và chính xác ý nghĩa của văn hóa trong đời sống xã hội.
- Phương pháp học nghiên cứu văn hóa: là một phân khoa học của Nguyên VHH. Phương pháp học nghiên cứu văn hóa chủ yếu nghiên cứu các khía cạnh như con đường xây dựng VHH, cách thức xây dựng tính khoa học cho VHH. Bởi lẽ, chỉ cần tìm ra con đường hợp lý sẽ đạt được mục đích. Bên cạnh đó, phương pháp học nghiên cứu văn hóa còn kiến lập một “phương pháp VHH” khác biệt với các phương pháp khoa học hiện hành khác. VHH phải tự xây dựng cho mình một phương pháp đặc thù để đảm bảo sự tồn tại vững chắc của mình trong hệ thống khoa học.
- VHH cụ thể: tương ứng với VHH chung, nó xem xét, tìm hiểu quy luật văn hóa ở các phương diện, khía cạnh cụ thể của văn hóa, nghiên cứu các quy luật văn hóa đặc thù ở các lĩnh vực đặc thù, đồng thời tính đến quan hệ giữa các quy luật đặc thù và quy luật phổ biến. Sự hình thành của VHH cụ thể sẽ giúp nâng cao tính khoa học của VHH, đồng thời làđộng lực cho sự phát triển của VHH.
VHH cụ thể tuy nghiên cứu quy luật văn hóa ở các góc độ bộ phận nhưng vẫn có thể vận dựng phương pháp chỉnh thể của toàn hệ thống. VHH chung và VHH cụ thể nghiên cứu cùng một chỉnh thể nhưng ở hai cấp độ khác nhau. Nếu nghiên cứu đầy đủ VHH chung mà thiếu VHH cụ thể thì tổng thể quan văn hóa trống rỗng. Ngược lại, nếu VHH cụ thể không liên hệ đến chỉnh thể văn hóa, không áp dụng phương pháp chỉnh thể thì chắc chắn sẽ không đạt được mục đích nghiên cứu cuối cùng. Do vậy, VHH chung và VHH cụ thể tồn tại song song, cùng bổ trợ cho nhau trong khoa học.
Hệ thống khoa học VHH được khái quát như sau:
Hệ thống khoa học VHH
* Ghi chú: “toàn tức” chỉ “toàn bộ hệ thống thông tin” [Nghiêm Xuân Bảo.. 1991]
3. Kết luận
Dù các tác giả Trung Quốc xem xát, nghiên cứu, bình luận lý luận VHH ở nhiều góc độ, cấp độ, phạm vi khác nhau song có chung nhận định VHH là một khoa học độc lập, mang tính tổng hợp, có vị trí đặc thù trong hệ thống khoa học xã hội. VHH vì là khoa học tổng hợp, có đối tượng nghiên cứu là toàn bộ hiện tượng văn hóa, bản chất văn hóa, quy luật hình thành và phát triển của văn hóa theo cả hai chiều không gian và thời gian nên VHH tại Trung Quốc nhìn chung được xếp vào vị trí ngay sau triết học trong hệ thống khoa học xã hội. Tuy các nhà nghiên cứu VHH tại Trung Quốc giai đoạn đầu vay mượn lý luận VHH của giới nghiên cứu phương Tây nhưng họ đã dần củng cố hệ thống lý luận mang tính đặc trưng của thực tiễn khoa học tại Trung Quốc. Vận dụng tư tưởng chủ nghĩa Mác làm nền tảng, VHH Trung Quốc phát triển theo hướng thể hiện tính hiện thực nhằm phục vụ công cuộc đổi mới đờng sống văn hóa xã hội. Về phương pháp nghiên cứu, các tác giả có chung nhân định VHH phải áp dụng thế giới quan lịch sử và phương pháp luận triết học, vận dụng phương pháp nghiên cứu chỉnh thể tổng hợp để đạt mục đích cuối cùng. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhấn mạnh rằng VHH cũng cần xây dựng cho minh một phương pháp nghiên cứu đặc thù, đảm bảo cho tính độc lập bền vựng của khoa học này trong toàn bộ hệ thống khoa học. Các thành quả nghiên cứu VHH bước đầu tại Trung Quốc đã đặt nền móng cơ bản cho sự phát triển của khoa học này trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Chu Hồng Vũ (1987), “Về mấy vấn đề nghiên cứu văn hóa học”, Học báo Đại học Sư phạm Hoa Trung, kì 6, trang 47-58.
2. Chu Khiêm Chi (1935), Triết học văn hóa, Thương vụ ấn thư quán.
3. Dương Kính Giang (1992), Dẫn luận Văn hóa học, NXB Đại học Sư phạm Bắc Kinh.
4. Dương Tiêu, Hồ Chí Minh (1989), Dẫn luận Văn hóa học, NXB Giáo dục Hà Bắc.
5. Điền Đan (2005), “Lý luận văn hóa học của G.S Trần Tự Kinh và mối quan hệ với các vấn đề xã hội”, Sử học nguyệt san, kì 1, trang 83-88.
6. Hoàng Văn Sơn (1971), Hệ thống văn hóa học, Trung Hoa Thư cục, Đài Loan.
7. Hoàng Văn Sơn (1949), Văn hóa học và vị trí của nó trong hệ thống khoa học, Viện Nghiên cứu Kinh tế Xã hội Tây Nam, Đại học Lĩnh Nam, Trung Hoa thư cục (Đài Loan) tái bản năm 1982.
8. Hướng Tường (1997), Văn hóa học triết học, NXB Phổ cập khoa học Thượng Hải
9. Lưu Mẫn Trung (2000), Văn hóa học học – Văn hóa học và quan niệm văn hóa, NXB Nhân dân Hắc Long Giang.
10. Lưu Thủ Hoa CB (1992), Thông luận văn hóa học, NXB Giáo dục Cao đẳng.
11. Lý Vinh Thiện (1996), Dẫn luận văn hóa học, NXB Đại học Tây Bắc.
12. Nghiêm Xuân Hữu, Nghiêm Xuân Bảo (1991), Văn hóa toàn tức luận, NXB Nhân dân Sơn Đông.
13. Quách Tề Dũng (1990) Khái luận văn hóa học, NXB Nhân dân Hồ Bắc.
14. Tôn Khải Phi (1997) Văn hóa học: Quốc phú luận hiện đại, NXB Quản lý Kinh tế Bắc Kinh.
15. Tiền Mục (1952), Văn hóa học đại nghĩa, Trung Hoa Thư cục, Đài Loan.