1. Huyền thoại
1.1. Khái niệm
Theo Bách khoa từ điển Wikipedia (Wikipedia Encyclopedia) , huyền thoại (myth) bắt nguồn từ “mythos” trong tiếng Hy Lạp (nghĩa là “câu chuyện”, “ tác phẩm tự sự”), “liên quan đến những câu chuyện mà một nền văn hoá nhất định tin là thực, những câu chuyện này sử dụng cái siêu nhiên để cắt nghĩa những sự kiện tự nhiên, để giải thích bản chất của vũ trụ và con người”.
Trong nghĩa hẹp, huyền thoại được dùng để xác định một thể loại văn học dân gian. Ở đây, huyền thoại (myth) có khi được sử dụng hoán đổi với truyền thuyết (legend) hay truyện cổ dân gian (folktale). P.Brunel gọi đó là “một tình trạng mơ hồ về thuật ngữ vĩnh viễn không thể triệt tiêu hoàn toàn như ta muốn”. Donna Rosenberg, trong cuốn Truyện cổ dân gian, huyền thoại và truyền thuyết: một phối cảnh thế giới (Folktales, Myths and Legends: A World Perspective) đã đưa ra sự phân biệt như sau:
“Huyền thoại (myth) là câu chuyện thiêng từ quá khứ. Nó có thể giải thích nguồn gốc của vũ trụ và cuộc sống hoặc diễn đạt những giá trị đạo đức cuả nền văn hoá của nó trong những thuật ngữ nhân thế. Huyền thoại liên quan với những năng lực điều hành thế giới con người và quan hệ giữa những năng lực ấy với con người”.
“Truyện cổ dân gian (folktale) là câu chuyện mà trong cốt truyện của nó là hư cấu, tưởng tượng thuần tuý. Tuy nhiên, mặc dù những thành tố hư cấu tưởng tượng, một truyện cổ dân gian thực sự là cách thức diễn đạt biểu tượng những nghĩa khác nhau mối quan hệ giữa con người và thế giới. Truyện cổ dân gian liên quan đến nhân vật là con người, cả dân chúng lẫn hoàng gia, và những con vật nói năng, hành động giống như con người”. Có thể thấy, với folktale, D.Rosenberg muốn nói đến cổ tích.
“Truyền thuyết (legend) là câu chuyện từ quá khứ, về một đề tài được tin như là lịch sử. Truyền thuyết liên quan đến nhân vật thường là nhà vua, người anh hùng, chiến tranh…gắn với một không gian, thời gian nhất định trong lịch sử”.
Trong nghĩa rộng hơn, người ta nói đến huyền thoại như những tác phẩm được sáng tạo với tư duy huyền thoại, kiểu tư duy tiền logic và thần bí, mang tính ẩn dụ, biểu trưng, tái hiện những quan niệm khái quát, trừu tượng trong hình thức cụ thể cảm tính.
Trong cách nói thông thường cũng là cách hiểu rộng nhất, huyền thoại là “một điều tưởng tượng nào đó”, đối lập với một bộ phận thứ hai là thực tại (Pichois và Rousseau).
Vậy, có những thành phần khả thủ nào để định nghĩa huyền thoại? Trong Từ điển huyền thoại (NXB. Rocher, 1988), Pierre Brunel đã tổng kết ba thành phần mà ông gọi là ba chức năng có ý nghĩa xác định huyền thoại, đó là:
(1) Huyền thoại – truyện kể: Huyền thoại kể một câu chuyện, huyền thoại là truyện kể. Tomachevski xem huyền thoại như “hệ thống của những motif”, L.Strauss xem huyền thoại như “hệ thống của những chủ đề”, Gilbert Durand coi huyền thoại là “một hệ thống năng động của những biểu tượng, những cổ mẫu, những kiểu thức được tạo thành câu chuyện dưới áp lực của một sơ đồ”. Huyền thoại là câu chuyện sống động đối với những người sáng tạo, lắng nghe nó và thôi không còn là huyền thoại trong nghĩa nghiêm ngặt khi chỉ còn là một bộ phận của nghiên cứu, nhưng tái trở thành huyền thoại khi sự quy chiếu được khơi gợi lại, nó mang đến một câu chuyện mới để nuôi dưỡng trí tưởng tượng. Napoléon trở thành huyền thoại khi một câu chuyện “phái sinh” nhân đôi câu chuyện “thực” bằng một truyện kể có cấu trúc. Truyện kể phái sinh này được nuôi dưỡng bằng những tương đồng có thể có giữa “số phận” Napoléon và chân dung Christ, những giao thoa với huyền thoại Prométhée, sự ký sinh với những mẫu đề về yêu tinh… Huyền thoại là câu chuyện mà sức mạnh nằm ở chỗ nó được nhìn nhận, được tin tưởng một cách sâu sắc như-là-thực (as real, as reality). Khi nó chỉ còn là câu chuyện (mere story) thì nó không còn là huyền thoại thực sự nữa.
(2) Huyền thoại – giải thích: Huyền thoại là truyện kể giải thích cội nguồn, giải thích hiện thực tồn tại thế nào, thế giới phát triển ra sao, con người quan hệ với thế giới bằng những kiểu thức nào…
(3) Huyền thoại – biểu hiện: Huyền thoại gợi mở sự thiêng liêng. Những huyền thoại cổ kết hợp chặt chẽ với tập thể, được tập thể chấp nhận như một nền tảng tôn giáo, như một ngôn ngữ tượng trưng. Cũng như vậy, những huyền thoại hiện đại (Jean d’Arc, Napoléon, Ché Guévara…) đem lại một giá trị đạo đức cho cộng đồng và thể hiện sự tự ý thức của cộng đồng ấy. Huyền thoại là câu chuyện được tập thể tán thành và mang ý nghĩa tập thể. Tính phái sinh và chức năng đạo đức của câu chuyện huyền thoại là quan trọng để thiết lập quan hệ giữa huyền thoại và tưởng tượng, giữa huyền thoại và hệ tư tưởng.
Trong Thi pháp huyền thoại (NXB. Khoa học, M. 1976), E.M.Meletinski tóm tắt bản chất của huyền thoại trong bốn điểm:
(1) Trong các xã hội nguyên thuỷ, huyền thoại có quan hệ chặt chẽ với nghi lễ, ma thuật và thực hiện chức năng duy trì trật tự (cả tự nhiên lẫn xã hội ), kiểm tra và giám sát xã hội.
(2) Huyền thoại là sản phẩm của lối tư duy huyền thoại, hình thức tư duy cổ xưa nhất của loài người, với những đặc tính riêng về mặt logic và tâm lý.
(3) Huyền thoại là một thứ ngôn ngữ tượng trưng mà con người dùng để mô hình hoá, phân loại và giải thích tư nhiên, xã hội và bản thân mình.
(4) Với tư cách là phương thức tư duy thống lĩnh toàn xã hội thì tư duy huyền thoại là hiện tượng đặc trưng cho các nền văn hoá cổ sơ, song, với tư cách là một “trình độ” nhất định của tâm thức con người thì huyền thoại vẫn còn tồn tại trong những nền văn hoá khác nhau ở những thời kỳ lịch sử muộn hơn.
1.2. Phân loại
Trên cơ sở những cách hiểu với phổ rộng hẹp khác nhau, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra những phân loại khác nhau về huyền thoại.
Huyền thoại như sản phẩm của những nền văn hoá cổ xưa được chia thành hai nhóm lớn - HUYỀN THOẠI CỔ ĐIỂN và HUYỀN THOẠI CỔ SƠ:
- Huyền thoại cổ điển gồm các hệ huyền thoại của các nền văn minh cổ đại, như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Hoa…Phần lớn những huyền thoại này không còn giữ được nguyên vẹn những đặc trưng nguyên thuỷ do đã biến đổi qua sự tập hợp, ghi chép, trau chuốt, sửa đổi của nhiều thế hệ những nghệ nhân, tu sĩ, trí thức cung đình…
- Huyền thoại cổ sơ gồm những huyền thoại của các xã hội,, cộng đồng “nguyên thuỷ” ở châu Á, châu Phi, châu Úc, châu Đại Dương… Chúng được các nhà dân tộc học ghi chép từ nửa sau thế kỷ XIX. Về cơ bản, những huyền thoại này vẫn thể hiện “trạng thái nguyên thuỷ” vì chúng vẫn đang “sống” và thực hiện những chức năng của mình trong cuộc sống cộng đồng.
Căn cứ vào nguồn gốc dân gian hay bác học, Denis de Rougemont (Tình yêu và Phương Tây, 1939), C. Lévi-Strauss (Nghiên cứu cấu trúc huyền thoại, 1955), Micea Eliade (Những phương diện của huyền thoại, 1963; Cái thiêng liêng và cái phàm tục, 1965)… nhấn mạnh sự phân biệt huyền thoại thành HUYỀN THOẠI NGUYÊN THUỶ và HUYỀN THOẠI VĂN CHƯƠNG:
- Huyền thoại nguyên thuỷ (còn gọi là “huyền thoại dân tộc-tôn giáo”) mang tính sáng lập, khuyết danh, tập thể, truyền khẩu, tiền-văn bản.
- Huyền thoại văn chương (hay “huyền thoại tái tạo”) gồm những huyền thoại nguyên thuỷ đi vào văn chương, được văn chương hoá. Theo Philippe Sellier, khi huyền thoại nguyên thuỷ đi vào văn chương, nó đánh mất tính chất sáng lập, tính khuyết danh. P.Brunel cho rằng văn chương, nghệ thuật (trong đó, ngày nay nổi lên vị trí quan trọng của điện ảnh) có vai trò như “ một phòng lưu trữ huyền thoại”. Nhờ được “bao bọc” bởi văn chương, nghệ thuật mà huyền thoại nguyên thuỷ tồn tại. Huyền thoại văn chương cũng thêm vào huyền thoại nguyên thuỷ những ý nghĩa mới. Pierre Albouy khẳng định rằng không một huyền thoại văn chương nào mà không làm một sự “tái sinh”, làm cho huyền thoại nguyên thuỷ sống lại trong một thời đại mới , mở ra khả năng “diễn tả tốt hơn những vấn đề nhất định”.
- Huyền thoại văn chương còn bao gồm những huyền thoại phát sinh từ văn chương, thí dụ Tristan và Yseult, Faust, Don Juan…
Trong quan hệ với tôn giáo, người ta có thể nói tới HUYỀN THOẠI TÔN GIÁO (hay HUYỀN THOẠI THÁNH KINH) gồm những câu chuyện diễn đạt những quan điểm và tín ngưỡng của tôn giáo đã sản sinh ra chúng, thí dụ như các hệ huyền thoại / thần phả Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo… Tuy nhiên, có những người phản đối sử dụng từ “huyền thoại” để đề cập cái mà họ tin tưởng tuyệt đối là thực trong tôn giáo của họ.
Ph. Sellier đề cập những HUYỀN THOẠI CHÍNH TRỊ-ANH HÙNG liên quan đến những nhân vật lịch sử như Alexandre, César, Louis XIV, Napoléon…
André d’Abezies đề cập những HUYỀN THOẠI HÌNH TƯỢNG- QUYỀN LỰC như sự thể hiện những hoàn cảnh nhân gian tiêu biểu, thí dụ những huyền thoại về Tiến bộ, Giống nòi, Máy móc… thật sự bộc lộ “sức mê hoặc tập thể có thể sánh với sự hấp dẫn của những huyền thoại nguyên sơ”.
Bách khoa từ điển Wikipedia, dựa trên tiêu chí chức năng và đề tài, phân biệt các loại huyền thoại cơ bản bao gồm:
- HUYỀN THOẠI NGHI LỄ giải thích sự thực hiện những nghi lễ và thực hành tôn giáo nhất định gắn với những ngôi đền, những trung tâm thờ phụng.
- HUYỀN THOẠI CỘI NGUỒN lý giải sự khởi đầu của một phong tục, một cái tên, một đối tượng…
- HUYỀN THOẠI SÙNG BÁI giải thích sự thờ phụng công đức một vị thần nhất định.
- HUYỀN THOẠI ĐẶC QUYỀN gắn với một dân tộc, một thành phố, một nhân vật được chọn.
- HUYỀN THOẠI MẠT THẾ kể về những thảm hoạ kết thúc trật tự thế giới hiện tồn.
Bách khoa từ điển Wikipedia tỏ ra khá phân vân khi dùng HUYỀN THOẠI HIỆN ĐẠI để đề cập những series phim, truyện như Chiến tranh giữa các vì sao, Tarzan…mà quả thực “chứa những phương diện huyền thoại mạnh mẽ, đôi khi phát triển thành một hệ thống triết lý phức tạp” và nhất là được tăng cường hiệu lực nhờ sức mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng.
1.3. Huyền thoại hoá và giải huyền thoại
Huyền thoại hoá (Mystification) là quá trình tạo lập huyền thoại. Theo Daniel-Henri Pageaux, “Huyền thoại là tất cả những gì mà một nền văn hoá có thể và mong muốn biến thành huyền thoại”. “Nếu một nhân vật lịch sử trở thành huyền thoại (chẳng hạn Napoléon xuất hiện như một Achille mới, một Prométhée khác hay con yêu tinh vùng Corse) thì điều quan trọng là khả năng cấu thành của nó trong ý thức cộng đồng”.
Rolland Barthes thì cho rằng “Huyền thoại hoá là một vận hành có nhiệm vụ biến những hiện tượng ngẫu nhiên mang tính lịch sử trong một nền văn hoá thành những câu chuyện, những điều thiêng liêng, thần thánh, hoặc những chân lý hiển nhiên, không còn gì thắc mắc hay đáng ngờ.” Huyền thoại hoá tạo nên “doxa”. Barthes dùng lại thuật ngữ “doxa” của Platon, với nghĩa “giọng nói của tự nhiên”, để chỉ tất cả những quan điểm chính thống về sự vật, về cuộc đời… Người ta bị thuyết phục tin rằng tất cả những gì đang xảy ra chung quanh: các định chế xã hội, các nguyên tắc đạo lý, các quy ước văn học…đều hoàn toàn tự nhiên, không có gì phải bàn cãi về “tính chất tự nhiên” của chúng. Tính thiêng liêng, thần bí giả tạo bao quanh những sự vật, hiện tượng đó được hình thành do sự cố tình xoá bỏ, lãng quên tính ngẫu nhiên lịch sử của chúng.
Ngược lại với quá trình huyền thoại hoá là giải huyền thoại (Demystification).
Trong huyền thoại có phần không thực, vì vậy, Platon cho rằng huyền thoại làm cho con người lạc lối, lầm đường. Và giải huyền thoại là xoá bỏ, hoá giải điều sai lầm để tìm ra sự thật đích thực. Theo R.Barthes, giải huyền thoại là một kỹ thuật, một phương pháp tạo ra sự thức tỉnh, một thủ pháp vệ sinh tinh thần để tẩy rửa những huyền thoại chính trị, văn hoá, xã hội đã được chế tạo ra. Giải huyền thoại là nỗ lực chống lại sức mạnh khống chế của “doxa”.
2. Huyền thoại học
Mythology, vốn xuất phát từ từ mythologia / mythologein trong tiếng Hy Lạp (kết hợp mythos với nghĩa “câu chuyện”, “tự sự” và logos với nghĩa “luận điểm”, “trật tự”) có nghĩa “hệ huyền thoại” (hệ thống / kho tàng huyền thoại) đồng thời có nghĩa “huyền thoại học” (chuyên ngành khoa học nghiên cứu huyền thoại).
Từ lâu, văn học đã quan tâm nghiên cứu huyền thoại, trước hết là các hệ huyền thoại cổ điển vĩ đại của Hy Lạp – La Mã, Ấn Độ, Trung Hoa. Từ nửa sau thế kỷ XIX, trên cơ sở tư liệu phong phú những huyền thoại của các xã hội “nguyên thuỷ” do các nhà dân tộc học ghi chép, nghiên cứu huyền thoại, với sự tham gia của các nhà nhân học, xã hội học, tôn giáo học, triết học, tâm lý học, ngôn ngữ học, ngày càng phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu tri thức cũng như phương pháp phong phú và đa dạng.
Có thể tóm tắt một số lý thuyết và trường phái nghiên cứu huyền thoại cơ bản sau đây:
(1) Lý thuyết tiến hoá luận, với người mở đầu là Edward Barnett Tylor (người Anh), cho rằng huyền thoại là cách giải thích ngây thơ, là nỗ lực của người nguyên thuỷ để giải đáp những vấn đề mà họ chưa hiểu nổi. Huyền thoại thực chất là phương tiện nhận thức lý tính, logic, tiền khoa học của họ.
(2) Trường phái nghi lễ và trường phái chức năng, với những đại diện tiêu biểu như James George Frazer (người Anh), Malinowski (người Anh gốc Ba Lan)…, khẳng định rằng trong các nền văn hoá nguyên thuỷ và cổ đại, huyền thoại và nghi lễ hợp thành một thể thống nhất (về thế giới quan, về chức năng, về cấu trúc). Huyền thoại thực hiện một chức năng thực hành là duy trì truyền thống, duy trì sự liên tục của nền văn hoá bộ lạc, qua những nghi lễ hướng tới cái thực tại siêu nhiên của những sự kiện tiền sử.
(3) Trường phái xã hội học Pháp, với đại diện tiêu biểu là Lucien Lévy Bruhl, đề cập luật thông quan (loi de participation) như nguyên lý của tư duy tiền logic và thần bí tạo thành cơ sở cho sự sáng tạo huyền thoại của họ.
(4) Lý thuyết biểu trưng, E.Cassirer (nhà triết học, Đức) coi sự sáng tạo huyền thoại, với tư cách dạng cổ xưa nhất của hoạt động tư duy của con người, như một hoạt động mang tính biểu trưng. Cassirer miêu tả một số đặc điểm cơ bản về dạng thức cũng như về cấu trúc của tư duy huyền thoại, và về tính ẩn dụ biểu trưng của huyền thoại.
(5) Lý thuyết phân tâm học, với đại diện tiêu biểu là Carl Jung (người Áo), quan niệm các motif huyền thoại gắn với những biểu tượng nguyên sơ (mẫu gốc, cổ mẫu, siêu mẫu – archetype) được chứa đựng trong vô thức tập thể. Huyền thoại vì vậy không chỉ là những phỏng dụ về các sự kiện, các đối tượng vật thể mà đằng sau nó, trên một mức độ nào đó, là lớp sâu thẳm của tâm lý tập thể, là sự trải nghiệm tập thể cái khởi nguyên của vũ tru, con người…,“là đời sống tinh thần của các bộ lạc nguyên thuỷ”.
(6) Lý thuyết tôn giáo học của Mircea Eliade (người Mỹ gốc Rumani) nhấn mạnh vào nội dung siêu hình, nội dung triết lý độc đáo trong huyền thoại của con người thời cổ sơ. Trong huyền thoại, thực tại và giá trị tồn tại của con người đều được qui định bởi quan hệ của con người với thời gian huyền thoại thiêng liêng, với những hành động nguyên mẫu của các vị tổ thiêng liêng. Con người cổ sơ không thấy lịch sử như một phương thức đặc trưng cho sự tồn tại của mình, chỉ có tính chu kỳ, tính lặp lại mới đem lại ý nghĩa thực sự cho các biến cố .
(7) Lý thuyết cấu trúc, với đại diện tiêu biểu là Claude Lévi-Strauss, nhìn nhận huyền thoại trước hết thuộc lĩnh vực những thao tác logic vô thức. Theo ông, huyền thoại phải được đọc theo chiều ngang tương ứng với sự triển khai cốt truyện có tính cú pháp đồng thời phải được hiểu theo chiều dọc có tính hệ hình để tìm ra những mô hình cấu trúc qua đó hình ảnh về thực tại được miêu tả.
3. Nghiên cứu huyền thoại trong văn hoá học
Mọi nền văn hoá đều hình thành, duy trì, phát triển qua thời gian những huyền thoại bao gồm những câu chuyện linh thiêng về lịch sử, tôn giáo, những người anh hùng của chúng. Năng lực vĩ đại của những câu chuyện này đối với một nền văn hoá là lý do khiến chúng tồn tại lâu dài, đôi khi hàng ngàn năm, thâm nhập, chi phối nhiều phương diện văn hoá.Do đó, huyền thoại, với tư cách một thành tố của văn hoá, trở nên có ý nghĩa trong nghiên cứu văn hoá học.
Tuy cùng nghiên cứu huyền thoại nhưng giữa huyền thoại học và văn hoá học có sự phân biệt về đối tượng.
Nếu huyền thoại học chủ yếu tập trung nghiên cứu các huyền thoại nguyên thuỷ và huyền thoại văn chương, huyền thoại cổ đại và huyền thoại cổ sơ, huyền thoại tôn giáo thì văn hoá học không chỉ giới hạn ở đó mà cần thiết phải mở rộng để tìm hiểu cả những huyền thoại chính trị-anh hùng, huyền thoại hình tượng-quyền lực, thậm chí cả những “huyền thoại hiện đại”…
Nếu huyền thoại học chủ yếu quan tâm đến cấu trúc, nội dung, chức năng… của các huyền thoại như những sản phẩm đã được tạo ra, đã và đang được chấp nhận thì văn hoá học, bên cạnh đó, còn phải chú ý tới cả quá trình huyền thoại hoá hoặc giải huyền thoại, chủ thể và đối tượng của quá trình huyền thoại hoá hoặc giải huyền thoại đó, phải chú ý tới tính mềm dẻo và năng động của huyền thoại trong không gian cũng như thời gian.
Thứ hai, về mục đích nghiên cứu. Huyền thoại học nhằm mục đích hiểu biết về huyền thoại (nguồn gốc, nội dung, ý nghĩa, chức năng…).Văn hoá học nghiên cứu huyền thoại như phương tiện để hiểu biết văn hoá của cộng đồng, dân tộc.
Thứ ba, về phương pháp nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu văn học, sử học, tôn giáo học, triết học, tâm lý học, ngôn ngữ học, xã hội học… vận dụng phương pháp chuyên ngành trong nghiên cứu huyền thoại. Nhà văn hoá học sử dụng phương pháp nghiên cứu văn hoá học (nghiên cứu hệ thống, “đồng hợp” kiến thức và phương pháp của các khoa học chuyên ngành).
4. Tình hình nghiên cứu huyền thoại các dân tộc Việt Nam. Vấn đề nghiên cứu và giảng dạy huyền thoại trong ngành Văn hoá học ở Việt Nam.
4.1. Tình hình nghiên cứu huyền thoại các dân tộc Việt Nam
Theo hướng so sánh chủ đề, type truyện, có thể kể đến các công trình Đặng Nghiêm Vạn (“Về truyện Quả bầu mẹ ở Việt Nam”, “Huyền thoại về nạn hồng thuỷ và nguồn gốc các tộc người”), Nguyễn Tấn Đắc (“Từ truyện Quả bầu Lào đến huyền thoại lụt”). Theo hướng so sánh lịch sử là các nghiên cứu của Cao Huy Đỉnh (“Người anh hùng làng Dóng”), Trần Quốc Vượng (“Căn bản triết lý người anh hùng Phù Đổng và hội Dóng”). Theo hướng huyền thoại so sánh, Phan Ngọc và Phan Đăng Nhật trong “Thử xây dựng lại hệ thống huyền thoại Việt – Mường” so sánh huyền thoại của các tộc người có trình độ phát triển xã hội khác nhau nhằm phục nguyên các dạng cổ sơ của huyền thoại.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam thường theo một định hướng quen thuộc nhằm mục đích phát hiện ra các giá trị lịch sử-xã hội trong huyền thoại các dân tộc Việt Nam. Điều này phù hợp với xu hướng lịch sử hoá của di sản huyền thoại dân tộc, cho thấy bản sắc văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, huyền thoại các dân tộc Việt Nam cũng còn khắc hoạ nhiều triết lý mang ý nghĩa phổ quát. Cần mở rộng nghiên cứu những vấn đề có tính phổ quát (các phạm trù hỗn mang và trật tự, nguyên mẫu và sự lặp lại, sự quay vòng tuần hoàn, sinh và tử, tự nhiên và văn hoá…) trong huyền thoại các dân tộc Việt Nam.
4.2. Vấn đề nghiên cứu và giảng dạy huyền thoại trong ngành Văn hoá học ở Việt Nam
Để nâng cao chất lượng nghiên cứu và giảng dạy huyền thoại trong ngành Văn hoá học ở Việt Nam, phải tiếp thu thành tựu nước ngoài (tăng cường những bài viết tổng thuật thông tin khoa học, dịch thuật những công trình lý luận và nghiên cứu) đồng thời có kế hoạch, chương trình tổ chức sưu tầm và nghiên cứu huyền thoại các dân tộc Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Xuân Diên 2005: Để góp phần nghiên cứu huyền thoại và thi pháp huyền thoại trong sáng tác văn học. (Báo cáo khoa học).
2. Daniel-Henri Pageaux (Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch): Huyền thoại.
3. Dương Ngọc Dũng 2005: Huyền thoại và giải huyền thoại trong tư tưởng Roland Barthes. (Báo cáo khoa học)