Mở đầu
Kể từ khi Tuyên ngôn Nhân quyền toàn cầu được thông qua năm 1948, các nhà nhân quyền hướng sự tập trung của họ vào những vấn đề liên quan đến quyền chính trị và quyền công dân. Cho đến nay, sự quan tâm ấy vẫn không hề suy giảm, đặc biệt những vấn đề liên quan trực tiếp đến cuộc sống của mỗi cá nhân, những quyền cơ bản như Quyền có một Mức sống thỏa đáng, Quyền có Lương thực thỏa đáng ngày càng được quan tâm sâu sắc hơn. Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên hợp quốc có đoạn viết: “Tất cả mọi người đều có quyền có một mức sống thỏa đáng cho bản thân và gia đình, bao gồm lương thực, quần áo, nhà ở, chăm sóc sức khỏe và một số dịch vụ xã hội cần thiết khác, và quyền được bảo đảm trong một số trường hợp như thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, góa bụa, tuổi già hoặc thiếu sinh kế ngoài tầm kiểm soát của bản thân” (Điều 25).
Quyền này cũng được cụ thể hóa trong Điều 11 của Công ước quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa: “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của con người được có một mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình mình. Mức sống thích đáng bao gồm việc thỏa mãn các nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở và không ngừng được cải thiện điều kiện sống”.
Nói đến các nhu cầu cơ bản của con người, trước tiên phải kể đến nhu cầu về lương thực. Cho đến nay, các cá nhân và nhiều tổ chức trên thế giới vẫn đang nỗ lực để chấm dứt nạn đói và suy dinh dưỡng trên toàn cầu với khẩu hiệu “Lương thực là hàng đầu”. Khẩu hiệu này cho thấy vấn đề lương thực phải được ưu tiên cao nhất. Chính vì vậy mà mục tiêu đầu tiên trong số tám mục tiêu Thiên niên kỷ được đặt ra là: Triệt để loại trừ tình trạng bần cùng (nghèo cùng cực) và thiếu ăn.
Hiện tại đã có khá nhiều nghiên cứu về các nhóm quyền cơ bản của con người, tuy nhiên các nghiên cứu này thường tiếp cận vấn đề dưới góc độ Luật học, chưa có nhiều nghiên cứu độc lập gắn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa với phát triển con người, đặc biệt là nghiên cứu về Quyền có Lương thực thỏa đáng. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không có nhiều tham vọng xem xét tất cả các chiều cạnh của Quyền có Lương thực thỏa đáng mà chỉ xem đây là một bước khởi đầu tìm hiểu về khái niệm Quyền có Lương thực thỏa đáng, quyền này được thể hiện trong pháp luật, chính sách của Việt Nam như thế nào và trong thực tế việc đảm bảo Quyền có Lương thực thỏa đáng cho người dân đã được thực hiện đến đâu.
1. Quyền có Lương thực thỏa đáng là một nhân quyền
1.1. Khái niệm Quyền có Lương thực thỏa đáng
1.1.1. Trong văn bản luật Nhân quyền quốc tế
Về phương diện lịch sử, các quốc gia cũng như toàn thế giới luôn chú trọng vấn đề đảm bảo an ninh lương thực cho các công dân của mình. Họ ý thức rằng việc xóa đói giảm nghèo, việc giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng được xem là phúc lợi đối với xã hội nói chung. Rất nhiều các giải pháp được đưa ra, từ các chương trình lương thực địa phương cho đến các hoạt động quốc tế có quy mô lớn của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Chương trình Lương thực thế giới và các tổ chức phi chính phủ khác. Cùng với thời gian, nhận thức của con người ngày càng tăng lên và Quyền có Lương thực thỏa đáng được coi là nhân quyền.
Trong luật Nhân quyền quốc tế hiện đại, Quyền có Lương thực thỏa đáng nằm trong Quyền có một mức sống thỏa đáng. Tuyên ngôn Nhân quyền toàn cầu năm 1948 đã khẳng định tại Điều 25 (1): “Tất cả mọi người có quyền có một mức sống thỏa đáng cho bản thân và gia đình, bao gồm lương thực…”.
Khoản 2, Điều 1 Công ước quốc tế về Quyền Chính trị và Dân sự năm 1976 quy định, trong bất kỳ trường hợp nào một người cũng sẽ không bị tước đoạt sinh kế của họ. Thêm nữa, Điều 6 cũng quy định rằng mọi người đều có một quyền đương nhiên đối với cuộc sống. Rõ ràng điều này hàm ý đến Quyền có Lương thực thỏa đáng và những thứ thiết yếu khác để duy trì cuộc sống.
Quyền có Lương thực thỏa đáng được khẳng định rõ trong hai Công ước quốc tế có tính chất bắt buộc. Trong Công ước quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Điều 11 khẳng định rằng “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của con người được có một mức sống thỏa đáng cho bản thân và gia đình mình. Mức sống thỏa đáng bao gồm việc thỏa mãn các nhu cầu về ăn, mặc, nhà ở và không ngừng được cải thiện điều kiện sống” và “quyền cơ bản của con người là không bị đói…”. Trong Công ước về Quyền Trẻ em có hai điều khoản đề cập đến vấn đề dinh dưỡng. Điều 24 viết “Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của trẻ em được hưởng một tiêu chuẩn về sức khỏe có thể đạt được cao nhất…(1)” và sẽ dùng những biện pháp thích hợp “để chống lại bệnh tật và suy dinh dưỡng… thông qua việc cung cấp thực phẩm dinh dưỡng phù hợp, nước sạch, và chăm sóc sức khỏe (2c)”. Điều 24 cũng viết rằng các quốc gia thành viên Công ước sẽ thực hiện các biện pháp thích hợp để “đảm bảo rằng các bậc cha mẹ và trẻ em được thông tin, được tiếp cận với giáo dục và được trợ giúp trong việc sử dụng những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng, sức khỏe trẻ em và lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ…”. Khoản 3, Điều 27 quy định các quốc gia thành viên Công ước trong những trường hợp cần thiết sẽ phải cung cấp những trợ giúp về mặt vật chất và những chương trình hỗ trợ, đặc biệt trong những vấn đề liên quan đến dinh dưỡng, quần áo và nhà ở.
Thậm chí nếu như Quyền có Lương thực thỏa đáng không được phát biểu một cách trực tiếp thì nó cũng được hàm ý trong nhiều điều khoản pháp luật như trong Quyền được sống và Quyền được chăm sóc sức khỏe, Công ước về Quyền trẻ em và nhiều văn bản pháp lý khác nhau ở cấp độ quốc tế. Năm 1974, Hội nghị Lương thực Thế giới đã đưa ra Tuyên bố toàn cầu về Xóa bỏ tình trạng Đói và Suy dinh dưỡng. Tuyên bố xác nhận rằng “Tất cả mọi người, phụ nữ và trẻ em có quyền không bị đói và suy dinh dưỡng để phát triển đầy đủ và liên tục về thể chất và trí tuệ”. Tuyên bố này đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua trong Nghị quyết 3348 ngày 17/12/1974. Tại Hội nghị quốc tế về Dinh dưỡng do Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc và Tổ chức Y tế Thế giới tổ chức tại Rome vào tháng 12/1992, tư tưởng về Quyền có Lương thực thỏa đáng đã luôn được nhấn mạnh. Trong bài diễn văn khai mạc hội nghị, Giáo hoàng John Paul II đã phát biểu: “Chúng ta cần tái khẳng định rằng quyền dinh dưỡng của mỗi cá nhân là quyền cơ bản và không thể thay đổi. Tuyên ngôn quốc tế về Quyền con người cũng đã xác nhận Quyền có Lương thực thỏa đáng. Việc chúng ta cần làm là đảm bảo quyền này phải được áp dụng và tất cả mọi người phải được tiếp cận với lương thực, có một chế độ ăn uống lành mạnh và có kiến thức về dinh dưỡng”. Trong lễ ký kết Tuyên bố quốc tế về Dinh dưỡng của hội nghị, các quốc gia đồng ý rằng “được tiếp cận với lương thực có giá trị dinh dưỡng và an toàn là quyền của mỗi cá nhân”.
Tháng 7/1996, để khởi đầu cho Hội nghị thượng đỉnh về Lương thực thế giới, một hội nghị về “Quyền con người cơ bản đối với Lương thực” do Tổng thống Venezuela khởi xướng đã được tổ chức tại Caracas. Tuyên bố Caracas kêu gọi xây dựng một bộ quy tắc hướng dẫn để làm rõ nội dung của Quyền có Lương thực thỏa đáng và hướng dẫn thực hiện quyền này. Tháng 11/1996, Hội nghị thượng đỉnh Lương thực thế giới kết thúc với Tuyên bố Rome về An ninh Lương thực thế giới và Kế hoạch hành động của Hội nghị Lương thực thế giới. Điều khoản đầu tiên tuyên bố: “Chúng ta, những người đứng đầu nhà nước và chính phủ hoặc những người đại diện, tập trung tại Hội nghị Lương thực Thế giới theo lời mời của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc, để tái xác nhận quyền của tất cả mọi người phải được tiếp cận với thực phẩm dinh dưỡng và an toàn, phù hợp với quyền có lương thực thỏa đáng và quyền cơ bản của mỗi người là không bị đói”. Tất cả những nỗ lực này được thúc đẩy hơn nữa tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc vào năm 2000. Tám Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ đã được tất cả 189 quốc gia tại hội nghị ủng hộ được bắt đầu với Mục tiêu thứ nhất: Loại trừ hoàn toàn tình trạng Nghèo và Đói.
Với những văn bản luật cũng như những Tuyên bố nêu trên, không có gì nghi ngờ rằng Quyền có Lương thực thỏa đáng chính là một quyền cơ bản của con người.
1.1.2. Các yếu tố của Quyền có Lương thực thỏa đáng
Năm 1999, Ủy ban giám sát Công ước quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR) đã giải thích nội hàm của Quyền có Lương thực thỏa đáng trong Bình luận chung số 12 như sau: “Quyền có Lương thực thỏa đáng không nên diễn giải theo nghĩa hẹp là quyền có một lượng tối thiểu về năng lượng, về chất đạm và các chất dinh dưỡng đặc thù khác mà bao gồm các khía cạnh: i) sự sẵn có lương thực về số lượng và chất lượng đủ thỏa mãn nhu cầu ăn của các cá nhân, không có chất độc có hại và được chấp nhận trong bối cảnh tập tục văn hóa; ii) tiếp cận lương thực thông qua những biện pháp bền vững và không ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con người khác”.
Cũng theo văn kiện trên, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp nhằm từng bước thực hiện đầy đủ Quyền có Lương thực thỏa đáng nhưng phải đạt được mục đích này một cách nhanh nhất có thể. Những trường hợp một quốc gia bị coi là vi phạm Công ước bao gồm: i) Không bảo đảm cho người dân có được lương thực ở một mức độ cơ bản tối thiểu đủ để không bị đói; ii) Phân biệt đối xử trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm; iii) Hủy hoặc đình chỉ thực hiện những quy định pháp luật cần thiết để đảm bảo tiếp tục hưởng quyền có lương thực; iv) Không cho phép các cá nhân hoặc nhóm nhất định tiếp cận với lương thực; v) Ngăn cản việc tiếp cận với lương thực viện trợ nhân đạo được cung cấp trong bối cảnh xung đột vũ trang hoặc các trường hợp khẩn cấp khác; vi) Ban hành các luật hoặc chính sách rõ ràng trái với những nghĩa vụ pháp lý hiện hành liên quan đến quyền có lương thực; vii) Không chấn chỉnh hoạt động của các cá nhân hoặc nhóm vi phạm quyền có lương thực của người khác; viii) Không đảm bảo nghĩa vụ pháp lý quốc tế về quyền có lương thực khi tham gia các hiệp định với các quốc gia khác hoặc các tổ chức quốc tế”[1].
Báo cáo thực trạng Quyền kinh tế - xã hội của một số quốc gia cũng đã làm rõ các yếu tố của Quyền có Lương thực thỏa đáng. Ví dụ, Báo cáo Quyền Kinh tế - Xã hội của Afghanistan năm 2009 đưa ra khái niệm Quyền có Lương thực thỏa đáng được hiểu là tất cả mọi người phải tiếp cận được với lương thực mà họ cần, nhà nước cần tận dụng các nguồn lực của mình để giảm tỉ lệ đói nghèo, tỉ lệ suy dinh dưỡng và đảm bảo an ninh lương thực cho người dân. Quyền có Lương thực thỏa đáng bao gồm bốn thành tố: tính sẵn có, khả năng tiếp cận, sự phù hợp và tính bền vững. Tính sẵn có nghĩa là lương thực được cung cấp hoặc là trực tiếp từ sản xuất hoặc là qua hệ thống phân phối, chế biến và thị trường. Quyền này đòi hỏi lương thực phải được tiếp cận cả trên phương diện kinh tế và điều kiện tự nhiên (ví dụ: về mặt địa lý), có nghĩa rằng mọi công dân đều có thể tiếp cận một cách dễ dàng với lương thực mà họ cần. Mặt khác, lương thực phải có chất lượng, an toàn, chấp nhận được về mặt văn hóa đối với tất cả mọi người, phù hợp với tình trạng cá nhân, tuổi tác, điều kiện sống, nghề nghiệp và giới. Lương thực phải mang tính bền vững, nó không chỉ sẵn có đối với thế hệ hiện tại mà đối với cả thế hệ tương lai.
Tương tự, trong Báo cáo Quyền Kinh tế - Xã hội của Nam Phi do Trung tâm Nghiên cứu Nhân quyền (Đại học Pretoria, Nam Phi) thực hiện năm 2005 cũng dành một phần viết về Quyền có Lương thực thỏa đáng của nước này. Trong Báo cáo có ghi nội hàm của Quyền có Lương thực thỏa đáng bao gồm ba thành tố: tính sẵn có, khả năng dễ dàng tiếp cận, sự phù hợp. Tính sẵn có là việc nhà nước cung cấp đủ lương thực, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của tất cả người dân trong nước. Khả năng tiếp cận liên quan đến an ninh lương thực của hộ gia đình, có nghĩa là mọi người đều có thể yêu cầu những thực phẩm sẵn có, tận dụng được những cơ hội sẵn có để sản xuất ra lương thực, thực phẩm phục vụ bản thân. Sự phù hợp nghĩa là số lượng, chất lượng thực phẩm phải an toàn, không độc hại, phù hợp với tập tục văn hóa của người dân.
1.1.3. Các chỉ số đo lường Quyền có Lương thực thỏa đáng
Từ năm 2006, Liên hợp quốc đã chính thức xây dựng và đưa vào sử dụng chỉ số về quyền con người nhằm thúc đẩy và giám sát việc thực hiện quyền con người trên thế giới. Trong Báo cáo của Liên hợp quốc về chỉ số giám sát tuân thủ các điều ước quốc tế về quyền con người, các chỉ số về quyền con người được hiểu là: “những thông tin cụ thể về tính chất của một sự kiện, một hoạt động hoặc một kết quả có liên quan tới các quy phạm và chuẩn mực nhân quyền; nó giải quyết và phản ánh về mối quan tâm và các nguyên tắc nhân quyền; được sử dụng để đánh giá và giám sát việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền”[2]. Các chỉ số nhân quyền dùng để đo việc hưởng thụ nhân quyền bởi chủ thể mang quyền (cá nhân và cộng đồng) và việc thực hiện các cam kết nhân quyền bởi các chủ thể mang nghĩa vụ (nhà nước). Chỉ số nhân quyền gắn với các quy phạm pháp lý về quyền của cá nhân, công dân và nghĩa vụ của nhà nước. Nội dung các quy phạm pháp lý về quyền được giải thích và phát triển thông qua các bình luận chung/khuyến nghị chung của các ủy ban công ước và các học giả. Công thức nổi tiếng được áp dụng hiện nay là 4A - Schedule, được áp dụng chủ yếu đối với các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Đó là Availability (tính sẵn có), Accessibility (khả năng tiếp cận được), Accetability (có thể chấp nhận được), và Adaptability (quality) (khả năng điều chỉnh).
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền công nhận có ba loại chỉ số về nhân quyền đã được thừa nhận để đo mức độ hưởng thụ và thực hiện nhân quyền:
- Các chỉ số có tính cấu trúc: Các chỉ số này phản ánh tình hình thực tế một quốc gia đã phê chuẩn các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người, và sự chuyển hóa các chuẩn mực, quy tắc nhân quyền quốc tế vào chính sách, pháp luật quốc gia đến đâu; cũng như sự tồn tại các cơ chế/thể chế quốc gia có liên quan tới việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền (gồm cả cơ chế tư pháp và không có tính tư pháp) để tạo điều kiện cho việc hiện thực hóa nhân quyền. Chỉ số cấu trúc để đo lường việc tuân thủ về mặt lý thuyết đối với các điều ước quốc tế về nhân quyền.
- Các chỉ số về quá trình: Các chỉ số này chỉ ra các văn kiện, chính sách có liên quan của nhà nước và các nỗ lực mà nhà nước đã áp dụng để thực hiện nhân quyền. Chỉ số này để đo việc thực hiện nhân quyền trên thực tế của nhà nước.
- Các chỉ số kết quả: Chỉ số này nhằm để đo kết quả những nỗ lực của nhà nước, nói cách khác là tính hiệu quả và không hiệu quả trong các chính sách. Các chỉ số này đo việc hưởng thụ trên thực tế các quyền con người. Chỉ số kết quả không chỉ là thước đo trực tiếp của việc hưởng thụ nhân quyền, mà còn phản ánh tầm quan trọng của chỉ số trong việc đánh giá việc hưởng thụ quyền. Ví dụ, tuổi thọ trung bình hoặc các chỉ số về tỉ lệ tử vong tạo cơ sở xây dựng chính sách liên quan tới phát triển dân số, giáo dục hoặc nhận thức của công chúng về dân số, cũng như bảo đảm cho khả năng sẵn có và khả năng tiếp cận được của cá nhân đối với dinh dưỡng tối thiểu.
2. Việt Nam và vấn đề Quyền có Lương thực thỏa đáng
2.1. Quyền có Lương thực thỏa đáng trong pháp luật Việt Nam
2.1.1. Trong Hiến pháp và văn bản pháp luật
Nhà nước Việt Nam coi con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế, xã hội và luôn nhất quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người. Hiến pháp năm 1992, văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, đảm bảo mọi công dân có quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bình đẳng trước pháp luật; quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú trên đất nước Việt Nam; quyền khiếu nại và tố cáo; quyền lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe,... không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo. Trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa các quyền này phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế về nhân quyền. Năm 1992, quyền con người đã được quy định cụ thể tại Điều 50 trong Hiến pháp Việt Nam: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Đây chính là cơ sở pháp lý đảm bảo điều kiện thực hiện quyền con người ở nước ta. Tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định quyền con người trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội nói chung mà không quy định cụ thể về Quyền có Lương thực thỏa đáng của công dân Việt Nam.
Quyền có Lương thực thỏa đáng không chỉ là quyền có một lượng tối thiểu về năng lượng, về chất đạm và các chất dinh dưỡng đặc thù khác mà nó còn phải đảm bảo an toàn, không có chất độc hại. Tuy không được phát biểu một cách chính thức nhưng nội hàm của quyền này được lồng ghép trong các luật liên quan. Chẳng hạn như Luật An toàn thực phẩm năm 2010 có quy định về quyền của người tiêu dùng thực phẩm tại Điều 9 của luật này:
a) Được cung cấp thông tin trung thực về an toàn thực phẩm, hướng dẫn sử dụng, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, lựa chọn, sử dụng thực phẩm phù hợp; được cung cấp thông tin về nguy cơ gây mất an toàn, cách phòng ngừa khi nhận được thông tin cảnh báo đối với thực phẩm;
b) Yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật;
c) Yêu cầu tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
d) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật;
đ) Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật do sử dụng thực phẩm không an toàn gây ra.
Như vậy, trong Hiến pháp và các văn bản luật của Việt Nam không có quy định cụ thể về Quyền có Lương thực thỏa đáng mà chỉ có một số quy định liên quan, có đề cập đến nội dung của quyền này.
2.1.2. Những chính sách của Việt Nam liên quan đến Quyền có Lương thực thỏa đáng
Trong công cuộc Đổi mới, những điều chỉnh vĩ mô và các chương trình kinh tế - xã hội được chú trọng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Những kết quả này đã tạo tiền đề cần thiết cho việc thực hiện các quyền của người dân trên mọi lĩnh vực trong đó có Quyền có Lương thực thỏa đáng. Quyền này được cụ thể hóa trong nhiều chính sách, chương trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Mục tiêu quốc gia về Xóa đói giảm nghèo, bảo đảm cho người dân có quyền có một mức sống thích đáng giai đoạn 1998 - 2000 đã đưa ra chín điểm chính: 1) Bố trí lại dân cư và phát triển cơ sở hạ tầng; 2) Tái định canh, định cư, di cư đến các vùng kinh tế mới; 3) Tín dụng cho người nghèo; 4) Hỗ trợ sản xuất và phát triển các hoạt động phi nông nghiệp; 5) Hướng dẫn cho người nghèo mở rộng nông, lâm, ngư nghiệp; 6) Đào tạo đội ngũ nhân viên tại các xã nghèo và nhân viên Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo; 7) Trợ giúp những người dân tộc thiểu số và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 8) Trợ giúp y tế cho người nghèo; 9) Trợ giúp giáo dục cho trẻ em thuộc các hộ nghèo. Để Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo được sâu sát hơn, tập trung vào những vùng nghèo nhất, nhà nước đã thông qua Chương trình xây dựng cụm xã miền núi, vùng cao (theo Quyết định 35/Ttg ngày 13/1/1997); Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135); Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm; Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và môi trường nông thôn; Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế; Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục;… Bên cạnh đó, Nhà nước còn có nhiều chương trình khuyến nông, khuyến ngư, chuyển giao kỹ thuật nuôi trồng, canh tác, chế biến nông, lâm, thủy sản nhằm ngày càng mở rộng và nâng cao đời sống mọi mặt của người dân[3].
Xóa đói giảm nghèo là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam. Từ năm 1998, xóa đói giảm nghèo trở thành một trong bảy Chương trình mục tiêu quốc gia lớn được Nhà nước tập trung đầu tư và chỉ đạo thực hiện. Có ba chương trình giảm nghèo của Chính phủ, 41 dự án và chính sách định hướng vào giảm nghèo đã được Chính phủ thực hiện trong giai đoạn vừa qua. Ba chương trình giảm nghèo là: i) Chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn tại các vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006 - 2010; ii) Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010; iii) Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo nhằm thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ. Ngân sách nhà nước đã dành 46.311 tỉ đồng cho giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010. Chính phủ Việt Nam cũng đang triển khai Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu tiếp tục đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
2.2. Những thành tựu và thách thức trong việc thực hiện Quyền có Lương thực thỏa đáng tại Việt Nam
2.2.1. Thành tựu
Có thể nói mục tiêu hàng đầu để thực hiện Quyền có Lương thực thỏa đáng chính là xóa đói giảm nghèo. Việt Nam được quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia đi đầu về xóa đói giảm nghèo. Một loạt các chiến lược, chính sách về xóa đói giảm nghèo đã được chính phủ ban hành và việc thực hiện đã đạt kết quả tốt. Các hoạt động hỗ trợ giảm nghèo của Việt Nam được tiến hành tương đối toàn diện với nhiều hình thức thực hiện và đã tác động hiệu quả tới các đối tượng hưởng thụ; tỉ lệ hộ nghèo giảm mạnh trên phạm vi cả nước; đời sống của người nghèo, bộ mặt của các vùng nông thôn, miền núi được cải thiện rõ rệt; nhiều hộ nghèo đã tận dụng được các cơ hội, các dự án giảm nghèo để thoát nghèo[4]. Ngân sách nhà nước đã dành 46.311 tỉ đồng cho giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010. Những thành tích cụ thể đó là các mục tiêu và chiến lược này đã góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo quốc gia) trên toàn quốc từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,2% năm 2010, 12,6% năm 2011, 11% năm 2012[5] và chỉ còn 9,8% vào năm 2013[6]. Theo Kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2012 thì có khoảng 99% số xã khảo sát có mức sống khá lên so với 5 năm trước. Mức sống của dân cư trong xã năm 2012 được cải thiện trước tiên là do những thay đổi về thu nhập từ nông nghiệp (84,8% số xã), năng suất các loại cây trồng ở hầu hết các xã đều tăng do thay đổi kỹ thuật canh tác và giống mới, diện tích đất nông nghiệp được tưới tiêu đều tăng qua các năm7. Thành tích giảm nghèo đã giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đề ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2020, tỉ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm bình quân khoảng 1 - 1,5%/năm.
Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế liên tục đã giúp nâng cao mức sống cho người dân, đảm bảo quyền của người dân được hưởng một mức sống thỏa đáng. Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện, bước đầu đạt kết quả tích cực8. Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng trung bình tương đối cao nhờ những động lực được tạo ra qua các cuộc cải cách kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo số liệu Các chỉ số phát triển thế giới của Ngân hàng Thế giới, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm trong giai đoạn từ năm 1986 - 2014 của Việt Nam là 6,51%, cao hơn đáng kể so với các nước kém phát triển nhất (4,49%), các nước có thu nhập thấp (3,76%), các nước có thu nhập trung bình thấp (4,75%) và của thế giới (2,83%) trong cùng giai đoạn này. Tự do hóa trong nông nghiệp và các lĩnh vực phi nông nghiệp, mở cửa hội nhập, các yếu tố địa lý thuận lợi cùng với việc đầu tư đáng kể cho cơ sở hạ tầng “cứng” (đường, cảng, thông tin,…) và “mềm” (giáo dục, y tế,…) đã tạo ra những động lực quan trọng nhất giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng cao trong kinh tế nói chung cũng như trong nông nghiệp và các ngành công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động nói riêng. Nhờ đó, cơ hội việc làm được mở rộng đáng kể, giúp đại đa số người lao động được tham gia, đóng góp vào, và hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng9. Nhờ những thành tựu kinh tế đạt được mà thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam luôn được cải thiện. Việt Nam đã chuyển từ nhóm các nước kém phát triển nhất thế giới sang nhóm các nước đang phát triển, từ nước có thu nhập thấp nhất thế giới, bình quân đầu người chỉ đạt 200 USD/người vào năm 1990 sang nhóm các nước có thu nhập trung bình (GDP đạt 2.052 USD/người vào năm 2014)10.
Đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam, an ninh lương thực luôn được đặt là mục tiêu hàng đầu. Một trong những thuận lợi của Việt Nam trong việc bảo đảm an ninh lương thực đó là Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp, thể hiện sự chú ý bảo đảm thực thi quyền có đủ lương thực cho người dân, thể hiện rõ từ khâu sản xuất đến chế biến và phân phối lương thực. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn từ năm 2011 - 2020 của Việt Nam đã đưa ra phương hướng phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững. Kết quả là từ một quốc gia nghèo đói, phải nhập khẩu lương thực, với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công, chuyển từ một nước sản xuất không đủ tiêu dùng, phải nhập khẩu với khối lượng lớn, nay sản xuất đã vượt nhu cầu trong nước và xuất khẩu nhiều sản phẩm như gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, hải sản,… với khối lượng thuộc vào những nước đứng đầu thế giới. Những năm gần đây, Việt Nam đã đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia. Bình quân lương thực đầu người liên tục tăng từ 445 kg năm 2000 lên 501 kg năm 2008, và tiếp tục tăng qua các năm: 513,4 kg (2010), 537,7 kg (2011), 548,7 kg (2012) và 552,9 kg (2014)11.
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là mục tiêu hàng đầu. Vì vậy, mục tiêu phát triển 5 năm tới (2016 - 2020), Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Cụ thể là xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu. Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất, quản lý nông nghiệp và đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, nâng cao giá trị gia tăng, chú trọng đầu tư vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp. Có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất, thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp; từng bước hình thành các tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ công nghệ cao12.
Nội hàm của Quyền có Lương thực thỏa đáng đề cập đến quyền của người dân có được một lượng tối thiểu về năng lượng, về chất đạm và các chất dinh dưỡng. Việc đảm bảo nhu cầu tối thiểu về số lượng cũng như chất lượng lương thực cho người dân sẽ góp phần giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng, từng bước nâng cao tầm vóc và thể lực cho người dân. Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng quốc gia, việc triển khai Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng, Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em và các hoạt động can thiệp dinh dưỡng khác đã góp phần quan trọng hạ thấp tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, từ 51,5% (1985) xuống còn 19,9% (2008)13. Tổ chức Y tế Thế giới và UNICEF đã đánh giá Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực đạt mức giảm suy dinh dưỡng xấp xỉ mức đề ra để tiến đến Mục tiêu Thiên niên kỷ (2%/năm). Tháng 3/2008, Việt Nam được Ủy ban thường trực dinh dưỡng Liên hợp quốc chọn là nước chủ nhà và đã thành công trong việc tổ chức Hội nghị lần thứ 35 để chia sẻ kinh nghiệm phòng chống suy dinh dưỡng. Những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ giảm dần tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, đến năm 2011 giảm xuống còn 16,8%.
Số liệu thống kê về tình trạng dinh dưỡng trẻ em qua các năm
http://viendinhduong.vn/FileUpload/Images/200312_013135do_thi_sdd_te_2011.png" > |
Nguồn: Viện Dinh dưỡng quốc gia, 2012.
Để tiếp tục giữ vững các thành quả đạt được và hướng tới các mục tiêu cao hơn, ngày 22/2/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 226/QĐ-Ttg về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn từ năm 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu: Đến năm 2020, bữa ăn của người dân được cải thiện về số lượng, cân đối hơn về chất lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh; suy dinh dưỡng trẻ em, đặc biệt thể thấp còi được giảm mạnh, góp phần nâng cao tầm vóc và thể lực của người Việt Nam.
2.2.2. Thách thức
Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước đã chỉ ra bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn rất nhiều những khó khăn, thách thức như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường14. Vì vậy, tuy có nhiều thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo cũng như đảm bảo an ninh lương thực quốc gia nhưng mục tiêu nâng cao khả năng tiếp cận an ninh lương thực và mưu sinh bền vững cho mọi người, cho mọi đối tượng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là bộ phận dân cư ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, những người thường xuyên lâm vào tình trạng đói nghèo. Họ luôn gặp khó khăn trong việc sản xuất cũng như tiếp cận với lương thực. Ngoài ra, một khó khăn nữa đối với người dân trong việc đảm bảo lương thực, đó là diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp. “Đất ở đồng bằng và thành thị đang bị thu hẹp dần do quá trình công nghiệp hóa - đô thị hóa. Đất ở miền núi lại càng khan hiếm do nạn chặt phá rừng bừa bãi làm cho đất đai bị suy thoái, môi trường bị ô nhiễm, nguồn nước bị cạn kiệt”15. Đặc biệt trong những tháng đầu năm 2016, chúng ta đang phải chứng kiến những ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu mang lại, những hậu quả đó khốc liệt và đến sớm hơn so với dự báo, cụ thể là đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra trên diện rộng (11/13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng bởi hạn hán và xâm nhập mặn) dẫn tới sự sụt giảm đáng kể năng suất cây trồng. Những tác động đó khiến tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam đứng trước nhiều thách thức như phát triển kém bền vững, nông sản chất lượng thấp, tính cạnh tranh thấp. Mặt khác, tình trạng vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, thực phẩm bẩn cũng đe dọa nghiêm trọng sức khỏe con người, ảnh hưởng tới Quyền có Lương thực thỏa đáng của người dân.
Những năm qua, tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của trẻ em đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên việc tiếp tục hạ thấp tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và hạ thấp một cách đồng đều giữa các vùng vẫn còn là một nhiệm vụ khó khăn. Năm 2010, tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em nước ta là 17,5% (chỉ tiêu cân nặng/tuổi), trong đó suy dinh dưỡng vừa (độ 1) là 15,4%, suy dinh dưỡng nặng (độ 2) là 1,8% và suy dinh dưỡng rất nặng (độ 3) là 0,3%. 20/63 tỉnh, thành có mức suy dinh dưỡng trẻ em trên 20% (xếp ở mức cao theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới). Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo chỉ tiêu chiều cao/tuổi (suy dinh dưỡng thể thấp còi) năm 2010 toàn quốc là 29,3%, trong đó xét theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới có đến 31 tỉnh tỉ lệ trên 30% (mức cao), 2 tỉnh trên 40% (mức rất cao).
Với những thách thức nêu trên, trong thời gian tới Việt Nam cần đẩy mạnh các biện pháp ứng phó với tình hình biến đổi khí hậu, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu tới sản xuất nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực; tiếp tục duy trì tốc độ giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống và điều kiện sản xuất của nhóm hộ nghèo; hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi; đảm bảo các điều kiện tiếp cận y tế cho nhóm đối tượng nghèo, đối tượng yếu thế, vùng sâu, vùng xa để tiếp tục giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng và mắc các bệnh hiểm nghèo.
Quyền có Lương thực thỏa đáng được coi là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Quyền này đã được các quốc gia trên thế giới và Việt Nam tôn trọng và quan tâm thực hiện. Tuy không được ghi cụ thể trong Hiến pháp hay có luật riêng về quyền này nhưng một số luật như Luật An toàn thực phẩm hay các chính sách, chương trình của nhà nước như chính sách Xóa đói giảm nghèo, Chương trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế,... đều bao hàm nội dung đảm bảo thực hiện Quyền có Lương thực thỏa đáng cho người dân. Kết quả của việc thực hiện những chương trình này là Việt Nam đã giảm mạnh được tỉ lệ đói nghèo, mức sống của người dân được cải thiện, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm rõ rệt và Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên đạt được Mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo trước thời hạn đặt ra. Bên cạnh việc đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước, Việt Nam đã xuất khẩu được nhiều mặt hàng nông sản ra thị trường quốc tế, trong đó có những mặt hàng Việt Nam đứng hàng đầu về số lượng và chất lượng như gạo, cà phê, hồ tiêu,...
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo nhưng nhiều vùng, miền trong cả nước vẫn còn tình trạng đói, nghèo, không đủ lương thực như các vùng dân tộc thiểu số, vùng miền núi và hải đảo. Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn cao tập trung ở các vùng nghèo, tình trạng thấp còi của người Việt Nam được cải thiện không đáng kể, còn khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, tình trạng thực phẩm không an toàn cũng đang là vấn đề báo động hiện nay, đang từng ngày từng giờ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Để đảm bảo thực hiện tốt Quyền có Lương thực thỏa đáng cho người dân, Việt Nam cần nhanh chóng có những giải pháp thiết thực để giải quyết những khó khăn, thách thức như đã nêu trên.
Tài liệu tham khảo
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TƯ Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
- Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Lao động xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
- “Các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 - 2010”, http:// ww.undp.org.vn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
- Nguyễn Bá Ngà (2012), “Thực trạng an ninh lương thực và một số giải pháp đối với an ninh lương thực, mưu sinh bền vững”, http:// www.crdhue.com.vn, ngày 23/7.
- Tổng cục Thống kê (2014), Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2012, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
- Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám Thống kê tóm tắt năm 2014, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
- Tường Duy Kiên (2011), “Các chỉ số về quyền con người - Ý nghĩa và khả năng áp dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 5.
- UNDP - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2016), Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2015 - Tăng trưởng vì mọi người, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2013), “Số liệu thống kê về tình trạng dinh dưỡng trẻ em đến năm 2013”.
[1] Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn Việt Nam, Nxb. Lao động xã hội, Tr. 24 - 26.
[2] Tường Duy Kiên (2011), “Các chỉ số về quyền con người - Ý nghĩa và khả năng áp dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, Số 5.
[3] Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Sđd, Tr. 85 - 86.
[4] UNDP (2011), Báo cáo Phát triển con người Việt Nam năm 2011, Tr. 46.
[5] Tổng cục Thống kê (2014), Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012, Nxb. Thống kê, Tr. 20.
[6] Tổng cục Thống kê (2014), Sđd, Tr. 23.
7 Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê tóm tắt 2014, Nxb. Thống kê.
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
9 UNDP (2015), Báo cáo tóm tắt chính sách (Báo cáo Phát triển Con người Việt Nam năm 2015 về Tăng trưởng bao trùm), Tr. 2.
10 Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê tóm tắt 2014, Nxb. Thống kê, Tr. 65.
11 Tổng cục Thống kê (2015), Sđd, Tr. 240.
12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
13 UNDP (2015), Báo cáo Phát triển Con người Việt Nam, Tr. 98.
14 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
15 Nguyễn Bá Ngà (2012), “Thực trạng an ninh lương thực và một số giải pháp đối với an ninh lương thực, mưu sinh bền vững”, http://www.crdhue.com.vn, ngày 23/7.
Nguồn: http://ihs.vass.gov.vn