1.Tóm lược nội dung, lập luận và kết luận trong bài viết của L. Kelley
Trước hết, xin tóm lược logic lập luận trong bài “Về từ Thái và vị trí của người Thái trong lịch sử Việt Nam” của L. Kelley. Theo học giả này, những từ Hán - Việt “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà Toàn thư đã dùng để viết về thời vua Hùng trong phần “ngoại kỷ” của cuốn lịch sử Việt Nam là “những từ ‘Thái - Hán hóa’ khi chúng kết hợp các thành phần tiếng Thái và tiếng Hán” [3]. Từ dó, ông đặt câu hỏi: “tại sao những thuật ngữ ‘Thái - Hán hóa’ ấy lại xuất hiện trong một bộ lịch sử Việt Nam được biên soạn ở thế kỉ XV và cho là nó đại diện cho các chức tước có từ thời cổ đại?” [4]. Tự trả lời cho chính câu hỏi mà mình nêu ra ấy, L. Kelley khẳng định, “Trong thế kỷ 15, một triều đại mới của Việt Nam, triều đại nhà Lê, lên nắm quyền sau khi người Trung Quốc bị đánh đuổi vào năm 1427. Nhà Lê cần phải chứng minh tính hợp pháp của triều đại mình, và họ đã làm như vậy thông qua những phương tiện khác nhau” [5].
L. Kelley nhấn mạnh, bằng cách dùng các chức danh ‘Thái - Hán hóa’ trong Toàn thư, Ngô Sỹ Liên đã thể hiện dụng ý xóa nhòa thực tế lịch sử “Người Thái và người Việt không phải là anh em sống trong sự hòa hợp ở thời cổ đại và sau đó họ đã đi theo con đường riêng của họ” [6]. Học giả này còn cho rằng các nhà khoa học lịch sử Việt Nam ở vào những năm cuối thế kỷ XX vẫn còn tiếp tục làm theo cách thức như thế của người tiền nhiệm. Và theo L. Kelley, “các học giả Việt Nam đã đưa ra rất nhiều thông tin về vị trí của người Thái trong quá khứ của người Việt, nhưng những thông tin ấy cuối cùng chỉ giải thích chút ít về quá khứ, mà lại tiết lộ rất nhiều về những nhu cầu hiện tại ở Việt Nam” [7].
Để có được kết luận như thế trong bài viết của mình, ngoài việc cố gắng chứng minh những thuật ngữ mà Toàn thư nói về “chức tước” trong thời vua Hùng có “nguồn gốc tiếng Thái”, L. Kelley còn cho rằng “Trong suốt những năm thuộc thập kỷ 1950 và 1960, các học giả ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DRV) đã tìm cách để tạo ra một lịch sử phù hợp với những tiêu chuẩn ‘khoa học’, và cố gắng giải thích làm sao để người ta tin các thuật ngữ đó đã có thể xuất hiện trong một văn bản khoảng 2.000 năm sau khi chúng được cho là đã được sử dụng” [8]. Theo ông, để “tạo ra một lịch sử phù hợp với những tiêu chuẩn khoa học” của mình, các nhà lịch sử Việt Nam thời đó đã “sáng tạo” nhiều điều phi lịch sử khác nhau. Đó là việc “sáng tạo ra những vị vua Việt thời cổ đại (Inventing ancient Vietnamese kings)” theo hình thức Thái hay “dựng theo hình ảnh một công chúa Thái (Adopting a Tai Princess)” trong câu chuyện Sơn Tinh; là việc xây dựng “mô hình văn hóa – xã hội lúa nước (The wet rice socio-cultural model)” giữa Việt và Thái v.v.
Điều này có nghĩa là, theo L. Kelley, cũng giống như cách làm trước đây của Ngô Sỹ Liên trong Toàn Thư, những kết quả nghiên cứu về “vua Hùng” ở những năm cuối thế kỷ XX của các nhà khoa học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thuần túy chỉ là sự “sáng tạo thiếu căn cứ”. Để chứng minh cho nhận định ấy của mình, ngoài việc cho rằng những phân tích liên quan đến ngôn ngữ học của Hoàng Thị Châu, Trần Quốc Vượng [9], Phạm Đức Dương v.v là thiếu căn cứ và viện dẫn thêm một số hiện tượng thuộc tư liệu lịch sử, dã sử, truyền thuyết dân gian, dân tộc học, L. Kelley tiếp tục sử dụng những chứng cứ về địa danh học và ngữ âm để chứng minh cho một nhận định sau đây của mình: “Về mặt lịch sử quan hệ dân tộc, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thúc giục các học giả tìm cách xác lập một vị trí cho các dân tộc thiểu số trong lịch sử dân tộc. Sự khẩn thiết lúc đó, và cho đến tận ngày nay, là ngôn bản lịch sử này phải là một câu chuyện về sự đoàn kết và chung sống hoà bình. Khi đọc các công trình nghiên cứu của giai đoạn đang được nói tới, rõ ràng là những phát hiện của các học giả Việt Nam thời ấy đã đáp ứng được yêu cầu của chính phủ” [10]. Với logic lập luận như thế, L. Kelley cho chúng ta thấy, đối với ông lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có được sự hòa hợp thực sự giữa người Thái và người Việt; và rộng ra là giữa người Việt với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói riêng và các dân tộc ở Đông Nam Á nói chung.
Nhận thức như thế của L. Kelley thể hiện một cách đầy đủ khi học giả này kết luận trong bài viết của mình rằng: “Tuy nhiên, sự thống trị này không bao giờ hoàn thành. Người Việt chưa từng kết thúc việc mở rộng kiểm soát trực tiếp chính trị của họ ở các khu vực mà các dân tộc Thái sinh sống. Vào thời điểm người Pháp xâm lược khu vực này trong những năm cuối thế kỷ XIX, người Thái vẫn tồn tại theo hình thức tự trị, mặc dù họ đã tuyên bố quy phục triều đình người Việt trong nhiều thế kỷ trước thời điểm đó ... Tuy nhiên, những kiến thức thực sự mà người Việt có về những người hàng xóm Thái của họ vẫn hạn chế” [11]. Nhưng với nhu cầu “cần phải giải thích quá khứ một cách phù hợp với những yêu cầu của một quốc gia - dân tộc đa sắc tộc hiện đại, và với kiến thức hạn chế về lịch sử và ngôn ngữ của chủ đề mà họ đang đề cập đến, các học giả Việt Nam đã đưa ra rất nhiều thông tin về vị trí của người Thái trong quá khứ của người Việt, thông tin mà cuối cùng chỉ giải thích được chút ít về quá khứ, nhưng tiết lộ rất nhiều về những nhu cầu hiện tại ở Việt Nam” [12].
2. Phân tích một vài lập luận của L. Kelley từ góc độ ngôn ngữ học
2.1. Những yếu tố trong Toàn thư được L. Kelley cho là “nguồn gốc Thái”
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, những từ “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà Ngô Sỹ Liên dùng trong Toàn thư là những từ Hán - Việt [13]. Chúng tôi cũng đã chỉ ra rằng lập luận “về ngữ nghĩa” của L. Kelly để ông chứng minh nguồn gốc “từ nguyên” Thái của ba yếu tố trong những từ nói trên là khiên cưỡng [14]. Bởi lẽ, trong thuật ngữ “ mỵ nương”, yếu tố “ mỵ” có nghĩa là “mẹ” có thể có cả trong tiếng Thái (Tai – Kadai) lẫn trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Vietic) thuộc nhánh Môn - Khmer họ Nam Á (Austroasiatic). Nhưng giá trị ngữ âm “mae” tiếng Thái mà L. Kelly giả định đã được “Thái - Hán hóa” thành “mỵ” (tức biến đổi [*mae] > [my]) cũng không có gì khác với khả năng âm [*meɛ] trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường chuyển thành [my] “mỵ”. Vậy thì, L. Kelly dựa vào cơ sở ngôn ngữ học nào để khằng định rằng yếu tố Hán Việt “mỵ” trong Toàn thư về từ nguyên phải là gốc Thái chứ không phải gốc Việt - Mương? Trong khi đó, hiện nay trong tiếng Rục, tiếng Thà Vựng, tiếng Mã Liềng là những ngôn ngữ cổ xưa song tiết của nhóm Việt - Mường, từ có nghĩa “mẹ” có dạng ngữ âm là [meɛ][15], [mǝǝ4][16], [mié][17]. Rõ ràng, dạng thức ngữ âm này trong những ngôn ngữ nhóm Việt - Mường đã xác nhận tính thuần Môn - Khmer của từ ngữ nói trên trong tiếng Việt.
Còn đối với trường hợp thuật ngữ “quan lang”, có nghĩa là “người đàn ông chính thức”, thì lập luận của L. Kelley như sau. Theo ông, từ này vốn được sử dụng trong “thời Trung Quốc cổ đại” và do hiện còn thấy được sử dụng như một chức danh ở một số thổ dân trong khu vực tỉnh Quảng Tây nên phải quy nó về hệ Thái [18]. Việc lấy lý do tổ hợp “quan lang” hiện còn được sử dụng như một chức danh ở một số thổ dân trong khu vực tỉnh Quảng Tây nên phải quy nó về hệ Thái thì là một lập luận suy diễn hoàn toàn thiếu căn cứ. Vì thứ nhất, “một số thổ dân trong khu vực tỉnh Quảng Tây” không nhất thiết chỉ là cư dân thuộc hệ ngôn ngữ Thái mà có thể có nhiều hệ ngôn ngữ khác, kể cả hệ ngôn ngữ Môn - Khmer là bà con với những ngôn ngữ Việt - Mường [19]. Thứ hai, chắc chắn L. Kelley cũng biết từ “lang” là từ không xa lạ gì trong tiếng Mường. Cho nên, nếu theo cách suy diễn như L. Kelly thì trở ngại nào để người ta không thể quy yếu tố “lang” là một từ có nguồn gốc từ ngôn ngữ Việt - Mường bị Hán hóa?
Cuối cùng đối với từ “bồ chính”, theo L. Kelly, thuật ngữ này “là một thuật ngữ ngoại lai. Từ ‘bồ’ có thể tương đương với từ ‘phu (người)’ hoặc ‘phó (bố)’ trong tiếng Thái. Trong khi ‘chính’ có thể là ‘chieng’ trong tiếng Thái, có nghĩa là ‘thành trì’ và giống như từ ‘thành, (城)’ trong tiếng Hán. Do đó, ‘phu chieng’ hay “pho chieng” biểu hiện một cái gì đó như là ‘chủ nhân của tòa thành’” [20]. Cách giải thích như trên của của L. Kelly có thể nói là chưa đủ cơ sở nếu căn cứ vào quy tắc biến đổi của ngữ âm của ngôn ngữ. Bởi vì, nếu theo lối suy diễn như L. Kelly, thì đâu là lý do để người ta không thế cho rằng yếu tố “bồ” trong “bồ chính” cũng có thể tương đương với từ “po/pô” hoặc “bọ” trong một số ngôn ngữ Việt - Mường với nghĩa là “bố” hay “người đứng đầu”? Do vậy, thuật ngữ “bồ chính” mà Ngô Sỹ Liên dùng là để gọi “người có vị trí đứng đầu một đơn vị nào đó” về biến đổi ngữ âm là có thể hoàn toàn thuần Việt - Mường chứ không phải gốc Thái. Bởi lẽ, nếu xét về ngữ âm thì rõ ràng dạng thức [po/pô] của Việt - Mường[21] sẽ chuyển đổi một cách có quy luật sang Hán - Việt “bồ” trong “bồ chính” còn dễ dàng hơn từ dạng ngữ âm “phu” hoặc “pho” của các ngôn ngữ Thái [22].
Như vậy, luận cứ “nguồn gốc Thái” của ba yếu tố trong từ “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà L. Kelley lấy làm cơ sở để cho rằng một số thuật ngữ xã hội trong Toàn thư được Ngô Sỹ Liên dùng làm “bề nổi” nhằm ẩn chứa trong đó một mục đích lịch sử khác là một suy diễn, chưa đủ căn cứ nên “thiếu thiện ý” đối với nhà sử học Ngô Sỹ Liên.
2.2. Những chứng cứ ngôn ngữ học khác được L. Kelley sử dụng
Ngoài việc cố gắng chứng minh “nguồn gốc Thái” của một vài thuật ngữ được dùng trong Toàn thư, L. Kelley còn sử dụng một vài chứng cớ ngôn ngữ học khác để chứng minh cho lập luận của ông. Cụ thể, ông cho rằng “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt” [23]; vì thế việc các nhà khoa học nhân văn Việt Nam ở vào cuối thế kỷ XX chứng minh đã từng có “sự pha trộn Thái – Việt” [24] là chưa đủ cơ sở. Và để biện giải cho nhận định “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”, L. Kelley đã sử dụng những nghiên cứu đã có về địa danh Thái trong khu vực, về ngữ âm hay vay mượn ngôn ngữ giữa Thái và Việt. Ở đây, chúng tôi sẽ lần lượt trao đổi với L. Kelley về những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ mà ông đưa ra để thảo luận.
2.2.1. “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”
Trước hết, xin khẳng định lại rằng chúng tôi cũng đã từng chứng minh “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt” [25]. Nhưng ở đây, “quá khứ Việt” phải được hiểu về mặt ngôn ngữ học như thế nào? Do vậy, nội hàm của khái niệm này cần phải được phân tích một cách chi tiết và thấu đáo chứ không thể đập nhập trong một cục như cách làm của L. Kelley.
Như chúng ta đều biết, ý kiến của A.G. Haudricourt cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc Nam Á[26] chứ không phải nguồn gốc Thái như quan niệm của H. Maspero [27] đã nhận được sự đồng tình của giới ngôn ngữ học lịch sử không chỉ ở nước ngoài mà cả ở Việt Nam [28] . Tuy nhiên, mặc dù không phải là gốc Thái nhưng giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ Thái trong khu vực chắc chắn đã có một sự vay mượn lẫn nhau rất “đặc biệt”, đến mức nó khiến cho H. Maspero đã phải quy tiếng Việt về hệ Thái.
Sự vay mượn lẫn nhau “đặc biệt” thứ nhất là do thời gian lịch sử của hiện tượng vay mượn. Chúng tôi đã từng chứng minh rằng mặc dù tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á nhưng từ cuối giai đoạn tiền Việt – Mường (ước tính khoàng + 200 năm trước Công nguyên) trở đi, tiếng Việt và tiếng Thái đã có sự tiếp xúc mật thiết với nhau [29]. Với một thời gian lịch sử tiếp xúc mật thiết với nhau một cách hòa bình như thế, sự vay mượn lẫn nhau giữa hai ngôn ngữ tất nhiên phải diễn ra ở mức đặc biệt. A.G. Haudricourt đã có nhận xét về tính chất đặc biệt này như sau “Trong cả ngàn năm, một hay hai thế kỷ trước Công nguyên cho tới thế kỷ X, người Thái và người Việt đều đã sống dưới sự thống trị của Trung Hoa; điều này là hình như đủ, đối với tôi, để giải thích tính chất quy tụ trong sự tiến hóa ngôn ngữ của họ” [30]. Như vậy, có thể nói rằng mối quan hệ đặc biệt giữa những người nói tiếng Việt và người nói tiếng Thái trong khu vực là do thời gian kéo dài “trong cả ngàn năm” lịch sử dưới sự thống trị của phong kiến Trung Hoa.
Sự vay mượn “đặc biệt” thứ hai thể hiện ở tính chất hay chất lượng của sự vay mượn ngôn ngữ. Phân tích hiện tượng này giữa Việt và Thái, người ta chỉ có thể nói rằng giữa hai cộng đồng dân cư đã có một mối quan hệ thật sự mật thiết. Mật thiết ở chỗ, người nói tiếng Việt đã vay mượn những yếu tố Thái để làm phong phú thêm ngôn ngữ của mình. Cụ thể, các từ dùng trong tiếng Việt như chim chóc, cỏ giả/nhả, chó má, sâu thẳm, đường/đàng xá v.v có một trong hai yếu tố là gốc Thái (chóc, giả/nhả, má, thẳm, đường/đàng); nhờ có những yếu tố Thái đó mà các từ tiếng Việt chim chóc, cỏ giả/nhả, chó má, sâu thẳm, đường/đàng xá được dùng khác với những từ tiếng Việt thuần gốc Nam Á là từ đơn như chim, cỏ, chó, sâu, xá. Hay như, thay vì dùng từ ruộng như người Việt hay người Mường từ Thanh Hóa trở vào, người Mường ở Hòa Bình lại dùng từ nà gốc Thái để chỉ ruộng nước. Trong khi đó, ví dụ như, giới nghiên cứu đã chứng minh rằng từ tiếng Thái “khaw” (có nghĩa là lúa/gạo) là một từ có nguồn gốc từ những ngôn ngữ Nam Á [31]. Rõ ràng, tính chất hay chất lượng của sự vay mượn ngôn ngữ giữa cộng đồng Việt và Thái phản ánh một sự vay mượn ngôn ngữ “bình đẳng” chứ không phản ánh một quan hệ “thống trị” như cách nhìn nhận của L. Kelley.
Để biện minh cho cách nhìn mối quan hệ “thống trị” chứ không phải “bình đẳng” Việt - Thái được phản ánh trong việc vay mượn ngôn ngữ trước đây, L. Kelley cho rằng “Dù cũng có một số cứ liệu ngôn ngữ để chứng minh về mối quan hệ giữa người nói tiếng Thái và tiếng Mon-Khmer đã có từ rất sớm, nhưng cũng phải đến khi người Thái di cư khỏi vùng Quảng Tây thì những cứ liệu lịch sử mới trở nên rõ ràng” [32] . Ở đây có một chi tiết mà ông đã cố tình “lờ đi” mặc dù chính ông đã nêu ra. Vậy, theo L. Kelley, khi nào thì “người Thái di cư khỏi vùng Quảng Tây” ? Câu hỏi này đã có câu trả lời của A.G. Haudricourt [33] từ năm 1953 trước đó và hiện nay chúng tôi vẫn chưa thấy có ai chứng minh khác đi một cách thuyết phục. Vậy thì, khi người Thái di cư khỏi Quảng Tây đi về phần lãnh thổ Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) hoàn tất chậm nhất vào thế kỷ thứ X thì sự di cư đó là “hòa bình” hay bị “thống trị” ở những nơi mà họ đến định cư sinh sống?
Như vậy, cho dù là “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”, nhưng điều đó không có nghĩa người Việt luôn tìm cách “thống trị” người Thái để giữa họ không có sự hòa hợp. Ngược lại, lịch sử và tính chất vay mượn ngôn ngữ chỉ có thể được giải thích là giữa họ đã có một sự tiếp xúc hòa bình và sâu sắc dẫn đến mức có “sự pha trộn ngôn ngữ Thái – Việt” [34] như L. Kelley đã nhắc đến. Và “sự pha trộn ngôn ngữ” ấy cho thấy bộ phận người Thái di cư vào đất Việt Nam là một quá trình tiếp xúc “bình đẳng” chứ không phải “chưa bao giờ có được sự hòa hợp thực sự giữa người Thái và người Việt” như cách nói của L. Kelley.
2.2.2. Chứng cứ về địa danh và ngữ âm trong khu vực
Một mặt cho rằng “ngôn ngữ Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”, mặt khác L. Kelley viện dẫn có những địa danh và hiện tượng ngữ âm trong khu vực gốc từ ngôn ngữ Thái để chứng minh mối quan hệ Thái - Việt trong “quá khứ” là “người Thái và người Việt không phải là anh em sống trong sự hòa hợp ở thời cổ đại” [35].
Theo đó, khi phân tích địa danh Hán - Viêt có yếu tố “cổ” như Cổ Bàng (古榜), Cổ Lão (古老), Cổ Lễ (古禮) v.v ở Việt Nam, L. Kelley cho rằng các nhà nghiên cứu trước đây đã xác nhận yếu tố “cổ” ấy có nguồn gốc từ tiếng Choang (Zhuang) rồi được mở rộng ra Việt Nam [36]. Điều đó cũng có nghĩa, việc Ngô Sỹ Liên lấy các yếu tố Thái để làm thuật ngữ “chức danh” trong Toàn thư là điều gì đó không xa lạ với khả năng hay cách thức “lan truyền” của ngôn ngữ Thái trong khu vực. Tuy nhiên, có thể khẳng định những kết luận trong nghiên cứu về địa danh có yếu tố “cổ (古)” trước đây được ông viện dẫn hiện nay không còn được ngôn ngữ học xác nhận và đã có tình trạng lý giải khác đi.
Cụ thể, chúng tôi đã từng chứng minh rằng trong địa danh “Cổ Loa (古螺)” ở Việt Nam, yếu tố “cổ (古)” trong địa danh này về ngữ âm lịch sử chỉ có thể là cách “Hán - Việt hóa” một thành phần của một địa danh ban đầu gốc từ Nam Đảo (Austronésian) [37]. Điều đó có nghĩa là cơ sở về địa danh mà L. Kelley dựa trên kết quả nghiên cứu của Từ Tùng Thạch (徐松石 Xu Songshi, 1946) hay Trần Kính Hòa (陳荊和 Chen Jinghe, 1950) trước đây là khó có thể được ngôn ngữ học lịch sử hiện nay xác nhận. Cho nên, ý kiến cho rằng “có những địa danh khác nhau ở miền nam Trung Quốc và mở rộng vào miền Bắc Việt Nam là đến từ Choang (Zhuang), một ngôn ngữ Thái” [38] đối với những trường hợp có yếu tố “cổ (古)” hay “Cự (巨)” là khiên cưỡng nếu xét từ cách nhìn hiện có của ngôn ngữ học lịch sử.
Tình trạng “khiên cưỡng” ấy còn lộ rõ khi L. Kelley dựa vào Từ Tùng Thạch để giải thích “nghĩa” của những địa danh mà ông dẫn ra. Cụ thể, theo ông, những trường hợp địa danh có yếu tố “cổ (古)” như thế “có nghĩa là ‘tôi’, hay là một phân loại, với nghĩa để chỉ một ngọn núi không có thảm thực vật trên nó” [39]. Biện dẫn cho cách xác định nghĩa như thế của mình, L. Kelley dẫn lại kết quả nghiên cứu của Từ Tùng Thạch và Trần Kính Hòa. Đối với Từ Tùng Thạch, “địa danh như vậy có thể được tìm thấy trong quá khứ từ tỉnh An Huy, ngày nay là trung tâm của Trung Quốc, tới tỉnh Quảng Tây ở phía tây nam, một khu vực ... những người nói tiếng Thái đã sinh sống trong lịch sử” [40] ; còn đối với Trần Kính Hòa, “trong nhiều ngôn ngữ Thái có những từ chỉ ‘người’ bắt đầu bằng một âm ‘k’, chẳng hạn như khon trong tiếng Thái Trung tâm hiện nay" [41]. Chúng tôi nghĩ rằng, có thể ở khu vực từ tỉnh An Huy đến tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, giải thích của Từ Tùng Thạch vào năm 1946 mà L. Kelley dẫn lại là “hợp lý”; nhưng ở Việt Nam giải thích nghĩa cho những địa danh có yếu tố “cổ (古)” hay “Cự (巨)” như ý kiến của Từ Tùng Thạch và Trần Kính Hòa từ thế kỷ trước, ở góc độ ngôn ngữ học lịch sử, là hoàn toàn chưa đủ cơ sở.
Ở Việt Nam, từ năm 1964 GS Đào Duy Anh cũng đã từng cho rằng địa danh “Cổ Loa (古螺)” là cách Hán - Việt hóa một tên gọi khác là kẻ Loa; và theo GS, yếu tố kẻ là cơ sở để Hán - Việt hóa thành Cổ (trong Cổ Loa) có nghĩa dùng để chỉ “người” [42] .Trong một vài bài nghiên cứu về địa danh học từ góc nhìn của ngôn ngữ học, chúng tôi đã chứng minh rằng “Cổ Loa (古螺)” không thể là dạng thức Hán - Việt hóa của địa danh “kẻ Loa” [43] . Bởi vì kẻ Loa là một tổ hợp địa danh có yếu tố Nôm (thuần Việt), trong đó về mặt cấu tạo địa danh, kẻ là thành tố chung (kẻ Loa, kẻ Noi, kẻ Trầu v.v) còn Loa, Noi, Trầu mới là tên riêng địa danh. Trong khi đó Cổ Loa là một tên địa danh gồm hai yếu tố Hán - Việt, nó phải kết hợp với thành tố chung là làng (“làng Cổ Loa”) mới có thể trở thành một tổ hợp địa danh tương ứng với “kẻ Loa”. Hiện tại, ở Việt Nam ngôn ngữ học chưa quan sát hay chứng minh được có tình trạng một thành tố chung của địa danh có yếu tố Nôm chuyển đổi thành một yếu tố tên riêng trong tổ hợp Hán - Việt. Điều đó có nghĩa việc cho rằng yếu tố kẻ làm cơ sở để Hán - Việt hóa thành Cổ có nghĩa dùng để chỉ “người” (như trong địa danh Cổ Loa) là hoàn toàn chưa đủ cơ sở khoa học để giải thích về mặt cấu tạo ngôn ngữ. Với lại, khi người Việt có thể nói kẻ Loa, kẻ Noi, kẻ Trầu hay làng Loa, làng Noi, làng Trầu thì rất có thể thành tố chung kẻ trong một tổ hợp địa danh có yếu tố Nôm (thuần Việt) dùng để chỉ “nơi chốn” do nó tương ứng với thành tố chung làng là yếu tố chỉ địa điểm chứ không phải để chỉ “người”.
Còn việc cho rằng “trong nhiều ngôn ngữ Thái có những từ chỉ ‘người’ bắt đầu bằng một âm ‘k’, chẳng hạn như khon trong tiếng Thái Trung tâm hiện nay" như cách suy luận của Trần Kính Hòa mà L. Kelley dẫn lại thì, có lẽ, cách giải thích đó là không có sơ sở khoa học. Bởi lẽ, trong tiếng Thái, tiếng Việt hay nhiều ngôn ngữ trong khu vực Đông Nam Á những từ (hay âm tiết) bắt đầu với một âm ‘k’ nhiều vô kể; nhưng không phải tất cả những từ đó đều là những từ chỉ ‘người’. Với lại, không chỉ trong tiếng Thái Trung tâm hiện nay từ chỉ ‘người’ bắt đầu với một âm ‘k’ như khon; các ngôn ngữ Việt - Mường (tiếng Rục [kɔn]) hay Môn - Khmer (tiếng Kơ Ho [kòn]) cũng có hiện tượng này. Chẳng lẽ, cả những ngôn ngữ Môn - Khmer như tiếng Kơ Ho cũng dẫn xuất hiện tượng này từ những ngôn ngữ Thái ở phía nam Trung Quốc? Vì thế có thể nói cách giải thích của Trần Kính Hòa mà L. Kelley dẫn lại để chứng minh “nguồn gốc Thái” của những từ chỉ ‘người’, về mặt ngôn ngữ học, là không thực tế.
Như vậy, chứng cứ về địa danh và hiện tương ngữ âm ở một vài ngôn ngữ mà L. Kelley viện dẫn cho rằng những yếu tố ngôn ngữ gốc Thái có tính phổ biến trong khu vực để từ đó đưa ra kết luận về mối quan hệ Thái - Việt “trong quá khứ” là quá khiên cưỡng khi phân tích theo cách nhìn của ngôn ngữ học lịch sử.
3. Nhận xét kết luận
Như chúng tôi đã nói ở trên, trong bài viết của mình L. Kelley đã đưa ra một kết luận “Người Thái và người Việt không phải là anh em sống trong sự hòa hợp ở thời cổ đại và sau đó họ đã đi theo con đường riêng của họ”; và từ thế kỷ XV (trong Toàn thư của Ngô Sỹ Liên) cho đến cuối thế kỷ thứ XX (trong nghiên cứu về “Hùng Vương dựng nước”) người Việt luôn “sáng tạo ra lịch sử” để lảng tránh thực tế ấy. Để minh chứng cho kết luận đó, L. Kelley viện dẫn những nghiên cứu khác nhau về lịch sử, dã sử, truyền thuyết dân gian, dân tộc học, ngôn ngữ học. Trong những luận cứ đó, dẫn liệu về ngôn ngữ học được ông triệt để sử dụng.
Phân tích biện luận của L. Kelley về những hiện tượng của ngôn ngữ học, chúng tôi đã chứng minh lập luận cho rằng yếu tố “lang 郎”, “mỵ 媚”, “bồ 蒲” trong những từ Hán - Việt “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà Toàn thư đã dùng để viết về thời vua Hùng trong phần “ngoại kỷ” có “nguồn gốc Thái” là không có cơ sở khoa học. Tình trạng không có cơ sở khoa học như vậy cũng có trong việc ông dẫn Từ Tùng Thạch và Trần Kính Hòa để cho rằng ở Việt Nam những địa danh có “cổ (古)” hay “cự (巨)” là sự “loại suy” hay “copy” những địa danh có nguồn gốc Choang (một ngôn ngữ Thái) để chỉ “người” hay “một ngọn núi không có thảm thực vật trên nó”. Việc dẫn ra những lập luận ngôn ngữ học thiếu cơ sở khoa học như thế, có lẽ, là do L. Kelley chưa cập nhật những kết quả nghiên cứu về ngôn ngữ học lịch sử khu vực ở Việt Nam trong nhiều năm gần đây.
Chính vì thế, chúng tôi cho rằng những suy luận của L. Kelley về “mục đích” việc Ngô Sỹ Liên dùng các từ Hán - Việt “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” trong Toàn thư cũng như việc ông cho rằng những nghiên cứu về “Hùng Vương dựng nước” của Việt Nam những năm 60 -70 thế kỷ XX là “làm một cuộc thảo luận chính trị lớn hơn để tìm cách đưa các dân tộc thiểu số vào trong thành phần của dân tộc Việt Nam” [44] là một nhận xét chưa thiện chí về mặt khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1.- Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa Huế, 1997, 264 tr.
2.- Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, 1979;Tái bản: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, 354 tr.
-(1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb Giáo dục, 1995, 348 tr.
3.- Trần Trí Dõi (2008), Ba bài viết về địa danh Cổ Loa; In trong “20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành”, Nxb Thế giới, 2008, tr 196-219
-(2008), Tên gọi của sông Hồng: dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hoá trong lịch sử người Việt; Hội thảo Quốc tế “Việt Nam học lần thứ 3” năm 2008; In trong “Ngôn ngữ văn hóa Thăng Long - Hà Nội 1000 năm”, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2010, tr 62-76.
- (2011), Giáo trình lịch sử tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011, 271 tr
- (2011a), Một vài vấn đề nghiên cứu so sánh lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, 371 tr
- (2012), Họ ngôn ngữ và văn hóa tiền sử: Trường hợp văn hóa Đông Sơn và họ Thái – Kađai, In trong “Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kađai ở Việt Nam...”, Nxb Thế giới, 2012, tr 337-346.
- (2012a).Tên gọi thánh “Dóng” và lễ hội “Phù Đổng”: góc nhìn từ ngữ âm lịch sử tiếng Việt, Hội thảo KH “Việt Nam học lần thứ IV” năm 2012; Tạp chí Ngôn ngữ, số 2 (285)/2013, tr 3-10
- (2013) Tên Hán Việt của tướng Cao Lỗ皐魯thời Âu Lạc – An Dương Vương: từ góc nhìn ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Kỷ yếu HTQT “Nghiên cứu giảng dạy ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam – Trung Quốc” lần thứ IV năm 2013.Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr 87 – 95
-Trần Trí Dõi - M. Ferlus (2013a), Arem - French/English -Vietnamese: A preliminary Lexicon (Tiếng Arem - Pháp/Anh - Việt: Bảng từ vựng cơ bản), Fifth ICAL, The ANU at Canberra, September 4-5, 2013, 49pp
- (2015),Về bài viết “Về từ Thái và vị trí của người Thái trong lịch sử Việt Nam” của Liam Kelly, In trong “Cộng đồng Thái - Kadai Việt Nam những vấn đề phát triển bền vững”, Nxb Thế giới, 2015, tr 59-65
- (2015a), Bàn thêm về vấn đề địa danh học ở Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4 (311)/2015, tr 03-17.
4- Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, 382 tr.
5. - Ferlus M. (1979), Lexique Thavung – Francais, Cah.de Ling.Asie orientale N05 Mars 1979, pp 71 – 94.
- Ferlus M. (2008), Etymology of *wat/yuè (越) “ people, principality” (as in Băiyuè 百越), The 41 st ICSTLL, 17-21 September 2008 - SOAS, University of London.
- (2010), The Austroasiatic Vocabulary for Rice: Its Origin and Expansion, Paper presented at The Twentieth Anniversary Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, Zurich, Switzerland, June 10-11, 2010.
6.- Haudricourt A.G. (1953), Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1 - 1991, tr 19 – 22.
7. Liam Kelley (2013), Tai Words and the Place of the Tai in the Vietnamese Past, Journal of the Siam Society, Vol. 101.2013, pp 55-84.
8.- Nguyễn Phú Phong - Trần Trí Dõi - M. Ferlus (1988), Lexique Vietnamien - Rục – Francais, Sudestasie Paris, 1988, 95 p
9.- Sidwell. P (2010), The Austroasiatic central riverine hypothesis, Journal of Language Relationship, 4 (2010), pp 117-134
10.- Hà Văn Tấn (1997), Theo dấu các văn hóa cổ, Nxb Khoa học xã hội, 1997, 851 tr.
11.- Vũ Quỳnh - Kiều Phú (thế kỷ XV), Lĩnh Nam chích quái - Đinh Gia Khánh dịch, Nxb Văn hóa, 1960, 139 tr
[1] Nguyên văn tiếng Anh “the Vietnamese ultimately gained dominance over the Tai in the greater Red River Delta region in the 15th century” (L. Kelley, 2013: p 83)
[2] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2015
[3] Nguyên văn tiếng Anh “they are mostly “Sinicized Tai” terms as they combine Tai and Chinese elements” (L. Kelley, 2013: p 82).
[4] Nguyên văn tiếng Anh “why these Sinicized Tai terms appear in a Vietnamese history compiled in the 15th century and claim to represent ancient titles)” (L. Kelley, 2013: p 82).
[5] Nguyên văn tiếng Anh “In the 15th century a new Vietnamese dynasty, the Lê Dynasty, came to power after the Chinese were driven out in 1427. The Lê Dynasty needed to demonstrate its legitimacy, and it did so through various means” (L. Kelley, 2013: p 82).
[6] Nguyên văn tiếng Anh “The Tai and Vietnamese were not siblings who lived in harmony in antiquity and then went their separate ways” (L. Kelley, 2013: p 83).
[7] Nguyên văn tiếng Anh “Vietnamese scholars produced a great deal of information about the place of the Tai in the Vietnamese past, information which ultimately explained little about the past, but revealed a great deal about the imperatives of the present in Vietnam” (L. Kelley, 2013: p 84).
[8] Nguyên văn tiếng Anh “Over the course of the 1950s and 1960s, scholars in the DRV sought to create a history which fi t the standards of “scientifi c” (khoa học) scholarship, and that required explaining how terms could appear in a text some 2,000 years after they were supposedly used” (L. Kelley, 2013: p 56).
[9] Xin xem L. Kelley, 2013: tr 66).
[10] Nguyên văn tiếng Anh “In terms of the history of ethnic relations, the DRV government urged scholars to fi nd a place for the ethnic minority peoples in the national narrative. It was imperative then, as it still is today, that this narrative be a story of unity and peaceful coexistence” (L. Kelley, 2013: p 63).
[11] Nguyên văn tiếng Anh “However, this dominance was never complete. The Vietnamese never ended up extending their direct political control over many of the areas which Tai peoples inhabited. By the time the French conquered the area in the late 19th century, the Tai still lived a largely autonomous existence, although they had declared their subservience to the Vietnamese court for centuries by that point... However, the actual knowledge which the Vietnamese had of their Tai neighbors remained limited” (L. Kelley, 2013: p 83-84).
[12] Nguyên văn tiếng Anh “With a need to explain the past in ways which fi t the demands of a modern multi-ethnic nation-state, and with limited historical and linguistic knowledge of the topic they were dealing with, Vietnamese scholars produced a great deal of information about the place of the Tai in the Vietnamese past, information which ultimately explained little about the past, but revealed a great deal about the imperatives of the present in Vietnam” (L. Kelley, 2013: p 84).
[13] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 1979.
[14] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2015
[15] Xin xem: Nguyễn Phú Phong, 1988: pp 65
[16] Xin xem: M.Ferlus, 1979: pp 89
[17] Tiếng Mã Liềng ở bản Cọi, dọc biên giới Việt - Lào thuộc xã Hương Vĩnh, Hương Khê Hà Tĩnh
[18] Xin xem: L. Kelley, 2013: tr 82
[19] Xin xem: P. Sidwell, 2010: pp 117-134
[20] Nguyên văn tiếng Anh: “this term likewise appears to be a hybrid term. The word“bồ” could be the equivalent of either “phu” (ผู้, person) or “pho” (พ่อ, father) in Tai. “Chính,” meanwhile could be “chieng” in Tai, which means “citadel” and comes from the Chinese “cheng” (城). The “phu chieng” or “pho chieng” could therefore signify something like the “master of the citadel.” (L. Kelley, 2013: p 82)
[21] Ví dụ, từ “bố” trong tiếng Rục là [bɔ̣] (xin xem, Nguyễn Phú Phong, 1988: pp 33), trong tiếng Arem là [pìǝ?] (xin xem, Trần Trí Dõi-M.Ferlus, 2013, pp 4), tiếng Mã Liềng ở bản Cọi là [bɔ̣].
[22] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 1995.
[23] Nguyên văn tiếng Anh: “The Tai on the periphery of the Vietnamese past” (L. Kelley, 2013: p 57)
[24] Nguyên văn tiếng Anh: “Tai-Vietnamese mixing” (L. Kelley, 2013: 60)
[25] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2008: tr 62-76; 2012: tr 337-346
[26] Xin xem: A.G. Haudricourt, 1953: tr 19 – 22.
[27] Nguyên văn tiếng Pháp kết luận của H. Maspero: “Le preannamite est né de la fusion d’un dialecte mon-khmer, d’un dialecte thai et peut-être meme d’une troisième langue encore inconnue, et postérieurement, l’annamite a emprenté une masse énorme de mots chinois. Mais la langue don’t l’influence dominante a donné à l’annamite sa forme modern était certainement, à mon avis, une langue thai, et c’est, je pense, à la famille thai que la langue annamite doit étre rattachée” (H.Maspéro,1912: p 118)
[28] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 1995; Trần Trí Dõi, 2011: tr 60-97;
[29] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2011: tr 98-174
[30] Xin xem: A.G.Haudricourt, 1953: tr 19.
[31] Xin xem: A.G.Haudricourt, 1953: tr 21; M. Ferlus, 2010.
[32] Nguyên văn tiếng Anh: “While there is some linguistic evidence to suggest that some contact between speakers of Tai and Mon-Khmer languages may have occurred very early, it is when Tai peoples started to migrate out of the Guangxi region that historical evidence ofTai-Vietnamese contact becomes apparent” (L. Kelley, 2013: p 73)
[33] Xin xem: A.G.Haudricourt, 1953: tr 19
[34] Nguyên văn tiếng Anh: “Tai-Vietnamese mixing” (L. Kelley, 2013: p 60)
[35] Nguyên văn tiếng Anh: “The Tai and Vietnamese were not siblings who lived in harmony in antiquity” (L. Kelley, 2013: p 83)
[36] Xin xem: L. Kelley, 2013: tr 58-60.
[37] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2008: tr 196-219
[38] Nguyên văn tiếng Anh: “were various place names in southern China and extending into northern Vietnam which came from Zhuang, a Tai language” (L. Kelley, 2013: p 58).
[39] Nguyên văn tiếng Anh: “from meaning “I,” to a classifi er, to meaning a mountain with no vegetation on it” (L. Kelley, 2013: p 58)
[40] Nguyên văn tiếng Anh: “He also mentions that such place names could be found in the past from Anhui Province, in what is today central China, to Guangxi Province in the southwest, an area which he argues Tai speakers historically inhabited” (L. Kelley, 2013: p 58-59).
[41] Nguyên văn tiếng Anh: “in many Tai languages there are words for “person” which begin with a “k” sound, such as khon in modern Central Thai” (L. Kelley, 2013: p 60).
[42] Xin xem: Đào Duy Anh, 1997: tr 31-32
[43] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2008: tr 196-219; 2015a: tr 03-17
[44] Nguyên văn tiếng Anh: “worked within a larger political discourse which sought to incorporate minority peoples into the narrative of the Vietnamese nation” (L. Kelley, 2013: p 60).
Nguồn: Tác giả
Bài đăng ở tạp chí NGÔN NGỮ số 3 (334)/2017, tr 3-14.
Trong bài viết ở “Tạp chí Hội Xiêm học, tập 101.2013”, dựa vào lập luận nguồn gốc tiếng Thái của những yếu tố trong từ “quan lang (官郎)”, “mỵ nương (媚娘)”, “bồ chính (蒲正)” ở Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là Toàn thư) viết về thời vua Hùng, L. Kelley cho rằng vào thế kỷ XV Ngô Sỹ Liên sử dụng những từ đó là để khẳng định việc “người Việt đạt được sự thống trị người Thái ở ngoài khu vực đồng bằng sông Hồng vào thế kỉ XV”[1]
Chúng tôi đã có bài viết phân tích giả thiết về “nguồn gốc tiếng Thái” ba từ trong “Toàn thư” mà L. Kelley nêu ra là chưa phù hợp với biến đổi lịch sử ngôn ngữ khu vực [2]. Ở bài viết này, tiếp tục phân tích thêm một vài lập luận khác liên quan đến ngôn ngữ học mà ông đưa ra, chúng tôi chỉ ra rằng những lập luận ấy là thiếu cơ sở khoa học. Vì thế, kết luận của học giả này về vị trí của cộng đồng dân tộc Thái trong lịch sử Việt Nam là một suy luận khiên cưỡng, thiếu tính khách quan.
1.Tóm lược nội dung, lập luận và kết luận trong bài viết của L. Kelley
Trước hết, xin tóm lược logic lập luận trong bài “Về từ Thái và vị trí của người Thái trong lịch sử Việt Nam” của L. Kelley. Theo học giả này, những từ Hán - Việt “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà Toàn thư đã dùng để viết về thời vua Hùng trong phần “ngoại kỷ” của cuốn lịch sử Việt Nam là “những từ ‘Thái - Hán hóa’ khi chúng kết hợp các thành phần tiếng Thái và tiếng Hán” [3]. Từ dó, ông đặt câu hỏi: “tại sao những thuật ngữ ‘Thái - Hán hóa’ ấy lại xuất hiện trong một bộ lịch sử Việt Nam được biên soạn ở thế kỉ XV và cho là nó đại diện cho các chức tước có từ thời cổ đại?” [4]. Tự trả lời cho chính câu hỏi mà mình nêu ra ấy, L. Kelley khẳng định, “Trong thế kỷ 15, một triều đại mới của Việt Nam, triều đại nhà Lê, lên nắm quyền sau khi người Trung Quốc bị đánh đuổi vào năm 1427. Nhà Lê cần phải chứng minh tính hợp pháp của triều đại mình, và họ đã làm như vậy thông qua những phương tiện khác nhau” [5].
L. Kelley nhấn mạnh, bằng cách dùng các chức danh ‘Thái - Hán hóa’ trong Toàn thư, Ngô Sỹ Liên đã thể hiện dụng ý xóa nhòa thực tế lịch sử “Người Thái và người Việt không phải là anh em sống trong sự hòa hợp ở thời cổ đại và sau đó họ đã đi theo con đường riêng của họ” [6]. Học giả này còn cho rằng các nhà khoa học lịch sử Việt Nam ở vào những năm cuối thế kỷ XX vẫn còn tiếp tục làm theo cách thức như thế của người tiền nhiệm. Và theo L. Kelley, “các học giả Việt Nam đã đưa ra rất nhiều thông tin về vị trí của người Thái trong quá khứ của người Việt, nhưng những thông tin ấy cuối cùng chỉ giải thích chút ít về quá khứ, mà lại tiết lộ rất nhiều về những nhu cầu hiện tại ở Việt Nam” [7].
Để có được kết luận như thế trong bài viết của mình, ngoài việc cố gắng chứng minh những thuật ngữ mà Toàn thư nói về “chức tước” trong thời vua Hùng có “nguồn gốc tiếng Thái”, L. Kelley còn cho rằng “Trong suốt những năm thuộc thập kỷ 1950 và 1960, các học giả ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DRV) đã tìm cách để tạo ra một lịch sử phù hợp với những tiêu chuẩn ‘khoa học’, và cố gắng giải thích làm sao để người ta tin các thuật ngữ đó đã có thể xuất hiện trong một văn bản khoảng 2.000 năm sau khi chúng được cho là đã được sử dụng” [8]. Theo ông, để “tạo ra một lịch sử phù hợp với những tiêu chuẩn khoa học” của mình, các nhà lịch sử Việt Nam thời đó đã “sáng tạo” nhiều điều phi lịch sử khác nhau. Đó là việc “sáng tạo ra những vị vua Việt thời cổ đại (Inventing ancient Vietnamese kings)” theo hình thức Thái hay “dựng theo hình ảnh một công chúa Thái (Adopting a Tai Princess)” trong câu chuyện Sơn Tinh; là việc xây dựng “mô hình văn hóa – xã hội lúa nước (The wet rice socio-cultural model)” giữa Việt và Thái v.v.
Điều này có nghĩa là, theo L. Kelley, cũng giống như cách làm trước đây của Ngô Sỹ Liên trong Toàn Thư, những kết quả nghiên cứu về “vua Hùng” ở những năm cuối thế kỷ XX của các nhà khoa học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thuần túy chỉ là sự “sáng tạo thiếu căn cứ”. Để chứng minh cho nhận định ấy của mình, ngoài việc cho rằng những phân tích liên quan đến ngôn ngữ học của Hoàng Thị Châu, Trần Quốc Vượng [9], Phạm Đức Dương v.v là thiếu căn cứ và viện dẫn thêm một số hiện tượng thuộc tư liệu lịch sử, dã sử, truyền thuyết dân gian, dân tộc học, L. Kelley tiếp tục sử dụng những chứng cứ về địa danh học và ngữ âm để chứng minh cho một nhận định sau đây của mình: “Về mặt lịch sử quan hệ dân tộc, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thúc giục các học giả tìm cách xác lập một vị trí cho các dân tộc thiểu số trong lịch sử dân tộc. Sự khẩn thiết lúc đó, và cho đến tận ngày nay, là ngôn bản lịch sử này phải là một câu chuyện về sự đoàn kết và chung sống hoà bình. Khi đọc các công trình nghiên cứu của giai đoạn đang được nói tới, rõ ràng là những phát hiện của các học giả Việt Nam thời ấy đã đáp ứng được yêu cầu của chính phủ” [10]. Với logic lập luận như thế, L. Kelley cho chúng ta thấy, đối với ông lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có được sự hòa hợp thực sự giữa người Thái và người Việt; và rộng ra là giữa người Việt với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói riêng và các dân tộc ở Đông Nam Á nói chung.
Nhận thức như thế của L. Kelley thể hiện một cách đầy đủ khi học giả này kết luận trong bài viết của mình rằng: “Tuy nhiên, sự thống trị này không bao giờ hoàn thành. Người Việt chưa từng kết thúc việc mở rộng kiểm soát trực tiếp chính trị của họ ở các khu vực mà các dân tộc Thái sinh sống. Vào thời điểm người Pháp xâm lược khu vực này trong những năm cuối thế kỷ XIX, người Thái vẫn tồn tại theo hình thức tự trị, mặc dù họ đã tuyên bố quy phục triều đình người Việt trong nhiều thế kỷ trước thời điểm đó ... Tuy nhiên, những kiến thức thực sự mà người Việt có về những người hàng xóm Thái của họ vẫn hạn chế” [11]. Nhưng với nhu cầu “cần phải giải thích quá khứ một cách phù hợp với những yêu cầu của một quốc gia - dân tộc đa sắc tộc hiện đại, và với kiến thức hạn chế về lịch sử và ngôn ngữ của chủ đề mà họ đang đề cập đến, các học giả Việt Nam đã đưa ra rất nhiều thông tin về vị trí của người Thái trong quá khứ của người Việt, thông tin mà cuối cùng chỉ giải thích được chút ít về quá khứ, nhưng tiết lộ rất nhiều về những nhu cầu hiện tại ở Việt Nam” [12].
2. Phân tích một vài lập luận của L. Kelley từ góc độ ngôn ngữ học
2.1. Những yếu tố trong Toàn thư được L. Kelley cho là “nguồn gốc Thái”
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, những từ “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà Ngô Sỹ Liên dùng trong Toàn thư là những từ Hán - Việt [13]. Chúng tôi cũng đã chỉ ra rằng lập luận “về ngữ nghĩa” của L. Kelly để ông chứng minh nguồn gốc “từ nguyên” Thái của ba yếu tố trong những từ nói trên là khiên cưỡng [14]. Bởi lẽ, trong thuật ngữ “ mỵ nương”, yếu tố “ mỵ” có nghĩa là “mẹ” có thể có cả trong tiếng Thái (Tai – Kadai) lẫn trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Vietic) thuộc nhánh Môn - Khmer họ Nam Á (Austroasiatic). Nhưng giá trị ngữ âm “mae” tiếng Thái mà L. Kelly giả định đã được “Thái - Hán hóa” thành “mỵ” (tức biến đổi [*mae] > [my]) cũng không có gì khác với khả năng âm [*meɛ] trong nhóm ngôn ngữ Việt - Mường chuyển thành [my] “mỵ”. Vậy thì, L. Kelly dựa vào cơ sở ngôn ngữ học nào để khằng định rằng yếu tố Hán Việt “mỵ” trong Toàn thư về từ nguyên phải là gốc Thái chứ không phải gốc Việt - Mương? Trong khi đó, hiện nay trong tiếng Rục, tiếng Thà Vựng, tiếng Mã Liềng là những ngôn ngữ cổ xưa song tiết của nhóm Việt - Mường, từ có nghĩa “mẹ” có dạng ngữ âm là [meɛ][15], [mǝǝ4][16], [mié][17]. Rõ ràng, dạng thức ngữ âm này trong những ngôn ngữ nhóm Việt - Mường đã xác nhận tính thuần Môn - Khmer của từ ngữ nói trên trong tiếng Việt.
Còn đối với trường hợp thuật ngữ “quan lang”, có nghĩa là “người đàn ông chính thức”, thì lập luận của L. Kelley như sau. Theo ông, từ này vốn được sử dụng trong “thời Trung Quốc cổ đại” và do hiện còn thấy được sử dụng như một chức danh ở một số thổ dân trong khu vực tỉnh Quảng Tây nên phải quy nó về hệ Thái [18]. Việc lấy lý do tổ hợp “quan lang” hiện còn được sử dụng như một chức danh ở một số thổ dân trong khu vực tỉnh Quảng Tây nên phải quy nó về hệ Thái thì là một lập luận suy diễn hoàn toàn thiếu căn cứ. Vì thứ nhất, “một số thổ dân trong khu vực tỉnh Quảng Tây” không nhất thiết chỉ là cư dân thuộc hệ ngôn ngữ Thái mà có thể có nhiều hệ ngôn ngữ khác, kể cả hệ ngôn ngữ Môn - Khmer là bà con với những ngôn ngữ Việt - Mường [19]. Thứ hai, chắc chắn L. Kelley cũng biết từ “lang” là từ không xa lạ gì trong tiếng Mường. Cho nên, nếu theo cách suy diễn như L. Kelly thì trở ngại nào để người ta không thể quy yếu tố “lang” là một từ có nguồn gốc từ ngôn ngữ Việt - Mường bị Hán hóa?
Cuối cùng đối với từ “bồ chính”, theo L. Kelly, thuật ngữ này “là một thuật ngữ ngoại lai. Từ ‘bồ’ có thể tương đương với từ ‘phu (người)’ hoặc ‘phó (bố)’ trong tiếng Thái. Trong khi ‘chính’ có thể là ‘chieng’ trong tiếng Thái, có nghĩa là ‘thành trì’ và giống như từ ‘thành, (城)’ trong tiếng Hán. Do đó, ‘phu chieng’ hay “pho chieng” biểu hiện một cái gì đó như là ‘chủ nhân của tòa thành’” [20]. Cách giải thích như trên của của L. Kelly có thể nói là chưa đủ cơ sở nếu căn cứ vào quy tắc biến đổi của ngữ âm của ngôn ngữ. Bởi vì, nếu theo lối suy diễn như L. Kelly, thì đâu là lý do để người ta không thế cho rằng yếu tố “bồ” trong “bồ chính” cũng có thể tương đương với từ “po/pô” hoặc “bọ” trong một số ngôn ngữ Việt - Mường với nghĩa là “bố” hay “người đứng đầu”? Do vậy, thuật ngữ “bồ chính” mà Ngô Sỹ Liên dùng là để gọi “người có vị trí đứng đầu một đơn vị nào đó” về biến đổi ngữ âm là có thể hoàn toàn thuần Việt - Mường chứ không phải gốc Thái. Bởi lẽ, nếu xét về ngữ âm thì rõ ràng dạng thức [po/pô] của Việt - Mường[21] sẽ chuyển đổi một cách có quy luật sang Hán - Việt “bồ” trong “bồ chính” còn dễ dàng hơn từ dạng ngữ âm “phu” hoặc “pho” của các ngôn ngữ Thái [22].
Như vậy, luận cứ “nguồn gốc Thái” của ba yếu tố trong từ “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà L. Kelley lấy làm cơ sở để cho rằng một số thuật ngữ xã hội trong Toàn thư được Ngô Sỹ Liên dùng làm “bề nổi” nhằm ẩn chứa trong đó một mục đích lịch sử khác là một suy diễn, chưa đủ căn cứ nên “thiếu thiện ý” đối với nhà sử học Ngô Sỹ Liên.
2.2. Những chứng cứ ngôn ngữ học khác được L. Kelley sử dụng
Ngoài việc cố gắng chứng minh “nguồn gốc Thái” của một vài thuật ngữ được dùng trong Toàn thư, L. Kelley còn sử dụng một vài chứng cớ ngôn ngữ học khác để chứng minh cho lập luận của ông. Cụ thể, ông cho rằng “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt” [23]; vì thế việc các nhà khoa học nhân văn Việt Nam ở vào cuối thế kỷ XX chứng minh đã từng có “sự pha trộn Thái – Việt” [24] là chưa đủ cơ sở. Và để biện giải cho nhận định “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”, L. Kelley đã sử dụng những nghiên cứu đã có về địa danh Thái trong khu vực, về ngữ âm hay vay mượn ngôn ngữ giữa Thái và Việt. Ở đây, chúng tôi sẽ lần lượt trao đổi với L. Kelley về những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ mà ông đưa ra để thảo luận.
2.2.1. “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”
Trước hết, xin khẳng định lại rằng chúng tôi cũng đã từng chứng minh “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt” [25]. Nhưng ở đây, “quá khứ Việt” phải được hiểu về mặt ngôn ngữ học như thế nào? Do vậy, nội hàm của khái niệm này cần phải được phân tích một cách chi tiết và thấu đáo chứ không thể đập nhập trong một cục như cách làm của L. Kelley.
Như chúng ta đều biết, ý kiến của A.G. Haudricourt cho rằng tiếng Việt có nguồn gốc Nam Á[26] chứ không phải nguồn gốc Thái như quan niệm của H. Maspero [27] đã nhận được sự đồng tình của giới ngôn ngữ học lịch sử không chỉ ở nước ngoài mà cả ở Việt Nam [28] . Tuy nhiên, mặc dù không phải là gốc Thái nhưng giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ Thái trong khu vực chắc chắn đã có một sự vay mượn lẫn nhau rất “đặc biệt”, đến mức nó khiến cho H. Maspero đã phải quy tiếng Việt về hệ Thái.
Sự vay mượn lẫn nhau “đặc biệt” thứ nhất là do thời gian lịch sử của hiện tượng vay mượn. Chúng tôi đã từng chứng minh rằng mặc dù tiếng Việt là một ngôn ngữ Nam Á nhưng từ cuối giai đoạn tiền Việt – Mường (ước tính khoàng + 200 năm trước Công nguyên) trở đi, tiếng Việt và tiếng Thái đã có sự tiếp xúc mật thiết với nhau [29]. Với một thời gian lịch sử tiếp xúc mật thiết với nhau một cách hòa bình như thế, sự vay mượn lẫn nhau giữa hai ngôn ngữ tất nhiên phải diễn ra ở mức đặc biệt. A.G. Haudricourt đã có nhận xét về tính chất đặc biệt này như sau “Trong cả ngàn năm, một hay hai thế kỷ trước Công nguyên cho tới thế kỷ X, người Thái và người Việt đều đã sống dưới sự thống trị của Trung Hoa; điều này là hình như đủ, đối với tôi, để giải thích tính chất quy tụ trong sự tiến hóa ngôn ngữ của họ” [30]. Như vậy, có thể nói rằng mối quan hệ đặc biệt giữa những người nói tiếng Việt và người nói tiếng Thái trong khu vực là do thời gian kéo dài “trong cả ngàn năm” lịch sử dưới sự thống trị của phong kiến Trung Hoa.
Sự vay mượn “đặc biệt” thứ hai thể hiện ở tính chất hay chất lượng của sự vay mượn ngôn ngữ. Phân tích hiện tượng này giữa Việt và Thái, người ta chỉ có thể nói rằng giữa hai cộng đồng dân cư đã có một mối quan hệ thật sự mật thiết. Mật thiết ở chỗ, người nói tiếng Việt đã vay mượn những yếu tố Thái để làm phong phú thêm ngôn ngữ của mình. Cụ thể, các từ dùng trong tiếng Việt như chim chóc, cỏ giả/nhả, chó má, sâu thẳm, đường/đàng xá v.v có một trong hai yếu tố là gốc Thái (chóc, giả/nhả, má, thẳm, đường/đàng); nhờ có những yếu tố Thái đó mà các từ tiếng Việt chim chóc, cỏ giả/nhả, chó má, sâu thẳm, đường/đàng xá được dùng khác với những từ tiếng Việt thuần gốc Nam Á là từ đơn như chim, cỏ, chó, sâu, xá. Hay như, thay vì dùng từ ruộng như người Việt hay người Mường từ Thanh Hóa trở vào, người Mường ở Hòa Bình lại dùng từ nà gốc Thái để chỉ ruộng nước. Trong khi đó, ví dụ như, giới nghiên cứu đã chứng minh rằng từ tiếng Thái “khaw” (có nghĩa là lúa/gạo) là một từ có nguồn gốc từ những ngôn ngữ Nam Á [31]. Rõ ràng, tính chất hay chất lượng của sự vay mượn ngôn ngữ giữa cộng đồng Việt và Thái phản ánh một sự vay mượn ngôn ngữ “bình đẳng” chứ không phản ánh một quan hệ “thống trị” như cách nhìn nhận của L. Kelley.
Để biện minh cho cách nhìn mối quan hệ “thống trị” chứ không phải “bình đẳng” Việt - Thái được phản ánh trong việc vay mượn ngôn ngữ trước đây, L. Kelley cho rằng “Dù cũng có một số cứ liệu ngôn ngữ để chứng minh về mối quan hệ giữa người nói tiếng Thái và tiếng Mon-Khmer đã có từ rất sớm, nhưng cũng phải đến khi người Thái di cư khỏi vùng Quảng Tây thì những cứ liệu lịch sử mới trở nên rõ ràng” [32] . Ở đây có một chi tiết mà ông đã cố tình “lờ đi” mặc dù chính ông đã nêu ra. Vậy, theo L. Kelley, khi nào thì “người Thái di cư khỏi vùng Quảng Tây” ? Câu hỏi này đã có câu trả lời của A.G. Haudricourt [33] từ năm 1953 trước đó và hiện nay chúng tôi vẫn chưa thấy có ai chứng minh khác đi một cách thuyết phục. Vậy thì, khi người Thái di cư khỏi Quảng Tây đi về phần lãnh thổ Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) hoàn tất chậm nhất vào thế kỷ thứ X thì sự di cư đó là “hòa bình” hay bị “thống trị” ở những nơi mà họ đến định cư sinh sống?
Như vậy, cho dù là “Người (ngôn ngữ) Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”, nhưng điều đó không có nghĩa người Việt luôn tìm cách “thống trị” người Thái để giữa họ không có sự hòa hợp. Ngược lại, lịch sử và tính chất vay mượn ngôn ngữ chỉ có thể được giải thích là giữa họ đã có một sự tiếp xúc hòa bình và sâu sắc dẫn đến mức có “sự pha trộn ngôn ngữ Thái – Việt” [34] như L. Kelley đã nhắc đến. Và “sự pha trộn ngôn ngữ” ấy cho thấy bộ phận người Thái di cư vào đất Việt Nam là một quá trình tiếp xúc “bình đẳng” chứ không phải “chưa bao giờ có được sự hòa hợp thực sự giữa người Thái và người Việt” như cách nói của L. Kelley.
2.2.2. Chứng cứ về địa danh và ngữ âm trong khu vực
Một mặt cho rằng “ngôn ngữ Thái ở vùng ngoại vi trong quá khứ Việt”, mặt khác L. Kelley viện dẫn có những địa danh và hiện tượng ngữ âm trong khu vực gốc từ ngôn ngữ Thái để chứng minh mối quan hệ Thái - Việt trong “quá khứ” là “người Thái và người Việt không phải là anh em sống trong sự hòa hợp ở thời cổ đại” [35].
Theo đó, khi phân tích địa danh Hán - Viêt có yếu tố “cổ” như Cổ Bàng (古榜), Cổ Lão (古老), Cổ Lễ (古禮) v.v ở Việt Nam, L. Kelley cho rằng các nhà nghiên cứu trước đây đã xác nhận yếu tố “cổ” ấy có nguồn gốc từ tiếng Choang (Zhuang) rồi được mở rộng ra Việt Nam [36]. Điều đó cũng có nghĩa, việc Ngô Sỹ Liên lấy các yếu tố Thái để làm thuật ngữ “chức danh” trong Toàn thư là điều gì đó không xa lạ với khả năng hay cách thức “lan truyền” của ngôn ngữ Thái trong khu vực. Tuy nhiên, có thể khẳng định những kết luận trong nghiên cứu về địa danh có yếu tố “cổ (古)” trước đây được ông viện dẫn hiện nay không còn được ngôn ngữ học xác nhận và đã có tình trạng lý giải khác đi.
Cụ thể, chúng tôi đã từng chứng minh rằng trong địa danh “Cổ Loa (古螺)” ở Việt Nam, yếu tố “cổ (古)” trong địa danh này về ngữ âm lịch sử chỉ có thể là cách “Hán - Việt hóa” một thành phần của một địa danh ban đầu gốc từ Nam Đảo (Austronésian) [37]. Điều đó có nghĩa là cơ sở về địa danh mà L. Kelley dựa trên kết quả nghiên cứu của Từ Tùng Thạch (徐松石 Xu Songshi, 1946) hay Trần Kính Hòa (陳荊和 Chen Jinghe, 1950) trước đây là khó có thể được ngôn ngữ học lịch sử hiện nay xác nhận. Cho nên, ý kiến cho rằng “có những địa danh khác nhau ở miền nam Trung Quốc và mở rộng vào miền Bắc Việt Nam là đến từ Choang (Zhuang), một ngôn ngữ Thái” [38] đối với những trường hợp có yếu tố “cổ (古)” hay “Cự (巨)” là khiên cưỡng nếu xét từ cách nhìn hiện có của ngôn ngữ học lịch sử.
Tình trạng “khiên cưỡng” ấy còn lộ rõ khi L. Kelley dựa vào Từ Tùng Thạch để giải thích “nghĩa” của những địa danh mà ông dẫn ra. Cụ thể, theo ông, những trường hợp địa danh có yếu tố “cổ (古)” như thế “có nghĩa là ‘tôi’, hay là một phân loại, với nghĩa để chỉ một ngọn núi không có thảm thực vật trên nó” [39]. Biện dẫn cho cách xác định nghĩa như thế của mình, L. Kelley dẫn lại kết quả nghiên cứu của Từ Tùng Thạch và Trần Kính Hòa. Đối với Từ Tùng Thạch, “địa danh như vậy có thể được tìm thấy trong quá khứ từ tỉnh An Huy, ngày nay là trung tâm của Trung Quốc, tới tỉnh Quảng Tây ở phía tây nam, một khu vực ... những người nói tiếng Thái đã sinh sống trong lịch sử” [40] ; còn đối với Trần Kính Hòa, “trong nhiều ngôn ngữ Thái có những từ chỉ ‘người’ bắt đầu bằng một âm ‘k’, chẳng hạn như khon trong tiếng Thái Trung tâm hiện nay" [41]. Chúng tôi nghĩ rằng, có thể ở khu vực từ tỉnh An Huy đến tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, giải thích của Từ Tùng Thạch vào năm 1946 mà L. Kelley dẫn lại là “hợp lý”; nhưng ở Việt Nam giải thích nghĩa cho những địa danh có yếu tố “cổ (古)” hay “Cự (巨)” như ý kiến của Từ Tùng Thạch và Trần Kính Hòa từ thế kỷ trước, ở góc độ ngôn ngữ học lịch sử, là hoàn toàn chưa đủ cơ sở.
Ở Việt Nam, từ năm 1964 GS Đào Duy Anh cũng đã từng cho rằng địa danh “Cổ Loa (古螺)” là cách Hán - Việt hóa một tên gọi khác là kẻ Loa; và theo GS, yếu tố kẻ là cơ sở để Hán - Việt hóa thành Cổ (trong Cổ Loa) có nghĩa dùng để chỉ “người” [42] .Trong một vài bài nghiên cứu về địa danh học từ góc nhìn của ngôn ngữ học, chúng tôi đã chứng minh rằng “Cổ Loa (古螺)” không thể là dạng thức Hán - Việt hóa của địa danh “kẻ Loa” [43] . Bởi vì kẻ Loa là một tổ hợp địa danh có yếu tố Nôm (thuần Việt), trong đó về mặt cấu tạo địa danh, kẻ là thành tố chung (kẻ Loa, kẻ Noi, kẻ Trầu v.v) còn Loa, Noi, Trầu mới là tên riêng địa danh. Trong khi đó Cổ Loa là một tên địa danh gồm hai yếu tố Hán - Việt, nó phải kết hợp với thành tố chung là làng (“làng Cổ Loa”) mới có thể trở thành một tổ hợp địa danh tương ứng với “kẻ Loa”. Hiện tại, ở Việt Nam ngôn ngữ học chưa quan sát hay chứng minh được có tình trạng một thành tố chung của địa danh có yếu tố Nôm chuyển đổi thành một yếu tố tên riêng trong tổ hợp Hán - Việt. Điều đó có nghĩa việc cho rằng yếu tố kẻ làm cơ sở để Hán - Việt hóa thành Cổ có nghĩa dùng để chỉ “người” (như trong địa danh Cổ Loa) là hoàn toàn chưa đủ cơ sở khoa học để giải thích về mặt cấu tạo ngôn ngữ. Với lại, khi người Việt có thể nói kẻ Loa, kẻ Noi, kẻ Trầu hay làng Loa, làng Noi, làng Trầu thì rất có thể thành tố chung kẻ trong một tổ hợp địa danh có yếu tố Nôm (thuần Việt) dùng để chỉ “nơi chốn” do nó tương ứng với thành tố chung làng là yếu tố chỉ địa điểm chứ không phải để chỉ “người”.
Còn việc cho rằng “trong nhiều ngôn ngữ Thái có những từ chỉ ‘người’ bắt đầu bằng một âm ‘k’, chẳng hạn như khon trong tiếng Thái Trung tâm hiện nay" như cách suy luận của Trần Kính Hòa mà L. Kelley dẫn lại thì, có lẽ, cách giải thích đó là không có sơ sở khoa học. Bởi lẽ, trong tiếng Thái, tiếng Việt hay nhiều ngôn ngữ trong khu vực Đông Nam Á những từ (hay âm tiết) bắt đầu với một âm ‘k’ nhiều vô kể; nhưng không phải tất cả những từ đó đều là những từ chỉ ‘người’. Với lại, không chỉ trong tiếng Thái Trung tâm hiện nay từ chỉ ‘người’ bắt đầu với một âm ‘k’ như khon; các ngôn ngữ Việt - Mường (tiếng Rục [kɔn]) hay Môn - Khmer (tiếng Kơ Ho [kòn]) cũng có hiện tượng này. Chẳng lẽ, cả những ngôn ngữ Môn - Khmer như tiếng Kơ Ho cũng dẫn xuất hiện tượng này từ những ngôn ngữ Thái ở phía nam Trung Quốc? Vì thế có thể nói cách giải thích của Trần Kính Hòa mà L. Kelley dẫn lại để chứng minh “nguồn gốc Thái” của những từ chỉ ‘người’, về mặt ngôn ngữ học, là không thực tế.
Như vậy, chứng cứ về địa danh và hiện tương ngữ âm ở một vài ngôn ngữ mà L. Kelley viện dẫn cho rằng những yếu tố ngôn ngữ gốc Thái có tính phổ biến trong khu vực để từ đó đưa ra kết luận về mối quan hệ Thái - Việt “trong quá khứ” là quá khiên cưỡng khi phân tích theo cách nhìn của ngôn ngữ học lịch sử.
3. Nhận xét kết luận
Như chúng tôi đã nói ở trên, trong bài viết của mình L. Kelley đã đưa ra một kết luận “Người Thái và người Việt không phải là anh em sống trong sự hòa hợp ở thời cổ đại và sau đó họ đã đi theo con đường riêng của họ”; và từ thế kỷ XV (trong Toàn thư của Ngô Sỹ Liên) cho đến cuối thế kỷ thứ XX (trong nghiên cứu về “Hùng Vương dựng nước”) người Việt luôn “sáng tạo ra lịch sử” để lảng tránh thực tế ấy. Để minh chứng cho kết luận đó, L. Kelley viện dẫn những nghiên cứu khác nhau về lịch sử, dã sử, truyền thuyết dân gian, dân tộc học, ngôn ngữ học. Trong những luận cứ đó, dẫn liệu về ngôn ngữ học được ông triệt để sử dụng.
Phân tích biện luận của L. Kelley về những hiện tượng của ngôn ngữ học, chúng tôi đã chứng minh lập luận cho rằng yếu tố “lang 郎”, “mỵ 媚”, “bồ 蒲” trong những từ Hán - Việt “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” mà Toàn thư đã dùng để viết về thời vua Hùng trong phần “ngoại kỷ” có “nguồn gốc Thái” là không có cơ sở khoa học. Tình trạng không có cơ sở khoa học như vậy cũng có trong việc ông dẫn Từ Tùng Thạch và Trần Kính Hòa để cho rằng ở Việt Nam những địa danh có “cổ (古)” hay “cự (巨)” là sự “loại suy” hay “copy” những địa danh có nguồn gốc Choang (một ngôn ngữ Thái) để chỉ “người” hay “một ngọn núi không có thảm thực vật trên nó”. Việc dẫn ra những lập luận ngôn ngữ học thiếu cơ sở khoa học như thế, có lẽ, là do L. Kelley chưa cập nhật những kết quả nghiên cứu về ngôn ngữ học lịch sử khu vực ở Việt Nam trong nhiều năm gần đây.
Chính vì thế, chúng tôi cho rằng những suy luận của L. Kelley về “mục đích” việc Ngô Sỹ Liên dùng các từ Hán - Việt “quan lang 官郎”, “mỵ nương 媚娘”, “bồ chính 蒲正” trong Toàn thư cũng như việc ông cho rằng những nghiên cứu về “Hùng Vương dựng nước” của Việt Nam những năm 60 -70 thế kỷ XX là “làm một cuộc thảo luận chính trị lớn hơn để tìm cách đưa các dân tộc thiểu số vào trong thành phần của dân tộc Việt Nam” [44] là một nhận xét chưa thiện chí về mặt khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1.- Đào Duy Anh (1997), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Thuận Hóa Huế, 1997, 264 tr.
2.- Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, 1979;Tái bản: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, 354 tr.
-(1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb Giáo dục, 1995, 348 tr.
3.- Trần Trí Dõi (2008), Ba bài viết về địa danh Cổ Loa; In trong “20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành”, Nxb Thế giới, 2008, tr 196-219
-(2008), Tên gọi của sông Hồng: dấu tích biểu hiện nét đa dạng văn hoá trong lịch sử người Việt; Hội thảo Quốc tế “Việt Nam học lần thứ 3” năm 2008; In trong “Ngôn ngữ văn hóa Thăng Long - Hà Nội 1000 năm”, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2010, tr 62-76.
- (2011), Giáo trình lịch sử tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011, 271 tr
- (2011a), Một vài vấn đề nghiên cứu so sánh lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, 371 tr
- (2012), Họ ngôn ngữ và văn hóa tiền sử: Trường hợp văn hóa Đông Sơn và họ Thái – Kađai, In trong “Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái – Kađai ở Việt Nam...”, Nxb Thế giới, 2012, tr 337-346.
- (2012a).Tên gọi thánh “Dóng” và lễ hội “Phù Đổng”: góc nhìn từ ngữ âm lịch sử tiếng Việt, Hội thảo KH “Việt Nam học lần thứ IV” năm 2012; Tạp chí Ngôn ngữ, số 2 (285)/2013, tr 3-10
- (2013) Tên Hán Việt của tướng Cao Lỗ皐魯thời Âu Lạc – An Dương Vương: từ góc nhìn ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Kỷ yếu HTQT “Nghiên cứu giảng dạy ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam – Trung Quốc” lần thứ IV năm 2013.Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr 87 – 95
-Trần Trí Dõi - M. Ferlus (2013a), Arem - French/English -Vietnamese: A preliminary Lexicon (Tiếng Arem - Pháp/Anh - Việt: Bảng từ vựng cơ bản), Fifth ICAL, The ANU at Canberra, September 4-5, 2013, 49pp
- (2015),Về bài viết “Về từ Thái và vị trí của người Thái trong lịch sử Việt Nam” của Liam Kelly, In trong “Cộng đồng Thái - Kadai Việt Nam những vấn đề phát triển bền vững”, Nxb Thế giới, 2015, tr 59-65
- (2015a), Bàn thêm về vấn đề địa danh học ở Việt Nam, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4 (311)/2015, tr 03-17.
4- Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, 382 tr.
5. - Ferlus M. (1979), Lexique Thavung – Francais, Cah.de Ling.Asie orientale N05 Mars 1979, pp 71 – 94.
- Ferlus M. (2008), Etymology of *wat/yuè (越) “ people, principality” (as in Băiyuè 百越), The 41 st ICSTLL, 17-21 September 2008 - SOAS, University of London.
- (2010), The Austroasiatic Vocabulary for Rice: Its Origin and Expansion, Paper presented at The Twentieth Anniversary Meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, Zurich, Switzerland, June 10-11, 2010.
6.- Haudricourt A.G. (1953), Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1 - 1991, tr 19 – 22.
7. Liam Kelley (2013), Tai Words and the Place of the Tai in the Vietnamese Past, Journal of the Siam Society, Vol. 101.2013, pp 55-84.
8.- Nguyễn Phú Phong - Trần Trí Dõi - M. Ferlus (1988), Lexique Vietnamien - Rục – Francais, Sudestasie Paris, 1988, 95 p
9.- Sidwell. P (2010), The Austroasiatic central riverine hypothesis, Journal of Language Relationship, 4 (2010), pp 117-134
10.- Hà Văn Tấn (1997), Theo dấu các văn hóa cổ, Nxb Khoa học xã hội, 1997, 851 tr.
11.- Vũ Quỳnh - Kiều Phú (thế kỷ XV), Lĩnh Nam chích quái - Đinh Gia Khánh dịch, Nxb Văn hóa, 1960, 139 tr
Nguồn: Tác giả
[1] Nguyên văn tiếng Anh “the Vietnamese ultimately gained dominance over the Tai in the greater Red River Delta region in the 15th century” (L. Kelley, 2013: p 83)
[2] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2015
[3] Nguyên văn tiếng Anh “they are mostly “Sinicized Tai” terms as they combine Tai and Chinese elements” (L. Kelley, 2013: p 82).
[4] Nguyên văn tiếng Anh “why these Sinicized Tai terms appear in a Vietnamese history compiled in the 15th century and claim to represent ancient titles)” (L. Kelley, 2013: p 82).
[5] Nguyên văn tiếng Anh “In the 15th century a new Vietnamese dynasty, the Lê Dynasty, came to power after the Chinese were driven out in 1427. The Lê Dynasty needed to demonstrate its legitimacy, and it did so through various means” (L. Kelley, 2013: p 82).
[6] Nguyên văn tiếng Anh “The Tai and Vietnamese were not siblings who lived in harmony in antiquity and then went their separate ways” (L. Kelley, 2013: p 83).
[7] Nguyên văn tiếng Anh “Vietnamese scholars produced a great deal of information about the place of the Tai in the Vietnamese past, information which ultimately explained little about the past, but revealed a great deal about the imperatives of the present in Vietnam” (L. Kelley, 2013: p 84).
[8] Nguyên văn tiếng Anh “Over the course of the 1950s and 1960s, scholars in the DRV sought to create a history which fi t the standards of “scientifi c” (khoa học) scholarship, and that required explaining how terms could appear in a text some 2,000 years after they were supposedly used” (L. Kelley, 2013: p 56).
[9] Xin xem L. Kelley, 2013: tr 66).
[10] Nguyên văn tiếng Anh “In terms of the history of ethnic relations, the DRV government urged scholars to fi nd a place for the ethnic minority peoples in the national narrative. It was imperative then, as it still is today, that this narrative be a story of unity and peaceful coexistence” (L. Kelley, 2013: p 63).
[11] Nguyên văn tiếng Anh “However, this dominance was never complete. The Vietnamese never ended up extending their direct political control over many of the areas which Tai peoples inhabited. By the time the French conquered the area in the late 19th century, the Tai still lived a largely autonomous existence, although they had declared their subservience to the Vietnamese court for centuries by that point... However, the actual knowledge which the Vietnamese had of their Tai neighbors remained limited” (L. Kelley, 2013: p 83-84).
[12] Nguyên văn tiếng Anh “With a need to explain the past in ways which fi t the demands of a modern multi-ethnic nation-state, and with limited historical and linguistic knowledge of the topic they were dealing with, Vietnamese scholars produced a great deal of information about the place of the Tai in the Vietnamese past, information which ultimately explained little about the past, but revealed a great deal about the imperatives of the present in Vietnam” (L. Kelley, 2013: p 84).
[13] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 1979.
[14] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2015
[15] Xin xem: Nguyễn Phú Phong, 1988: pp 65
[16] Xin xem: M.Ferlus, 1979: pp 89
[17] Tiếng Mã Liềng ở bản Cọi, dọc biên giới Việt - Lào thuộc xã Hương Vĩnh, Hương Khê Hà Tĩnh
[18] Xin xem: L. Kelley, 2013: tr 82
[19] Xin xem: P. Sidwell, 2010: pp 117-134
[20] Nguyên văn tiếng Anh: “this term likewise appears to be a hybrid term. The word“bồ” could be the equivalent of either “phu” (ผู้, person) or “pho” (พ่อ, father) in Tai. “Chính,” meanwhile could be “chieng” in Tai, which means “citadel” and comes from the Chinese “cheng” (城). The “phu chieng” or “pho chieng” could therefore signify something like the “master of the citadel.” (L. Kelley, 2013: p 82)
[21] Ví dụ, từ “bố” trong tiếng Rục là [bɔ̣] (xin xem, Nguyễn Phú Phong, 1988: pp 33), trong tiếng Arem là [pìǝ?] (xin xem, Trần Trí Dõi-M.Ferlus, 2013, pp 4), tiếng Mã Liềng ở bản Cọi là [bɔ̣].
[22] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 1995.
[23] Nguyên văn tiếng Anh: “The Tai on the periphery of the Vietnamese past” (L. Kelley, 2013: p 57)
[24] Nguyên văn tiếng Anh: “Tai-Vietnamese mixing” (L. Kelley, 2013: 60)
[25] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2008: tr 62-76; 2012: tr 337-346
[26] Xin xem: A.G. Haudricourt, 1953: tr 19 – 22.
[27] Nguyên văn tiếng Pháp kết luận của H. Maspero: “Le preannamite est né de la fusion d’un dialecte mon-khmer, d’un dialecte thai et peut-être meme d’une troisième langue encore inconnue, et postérieurement, l’annamite a emprenté une masse énorme de mots chinois. Mais la langue don’t l’influence dominante a donné à l’annamite sa forme modern était certainement, à mon avis, une langue thai, et c’est, je pense, à la famille thai que la langue annamite doit étre rattachée” (H.Maspéro,1912: p 118)
[28] Xin xem: Nguyễn Tài Cẩn, 1995; Trần Trí Dõi, 2011: tr 60-97;
[29] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2011: tr 98-174
[30] Xin xem: A.G.Haudricourt, 1953: tr 19.
[31] Xin xem: A.G.Haudricourt, 1953: tr 21; M. Ferlus, 2010.
[32] Nguyên văn tiếng Anh: “While there is some linguistic evidence to suggest that some contact between speakers of Tai and Mon-Khmer languages may have occurred very early, it is when Tai peoples started to migrate out of the Guangxi region that historical evidence ofTai-Vietnamese contact becomes apparent” (L. Kelley, 2013: p 73)
[33] Xin xem: A.G.Haudricourt, 1953: tr 19
[34] Nguyên văn tiếng Anh: “Tai-Vietnamese mixing” (L. Kelley, 2013: p 60)
[35] Nguyên văn tiếng Anh: “The Tai and Vietnamese were not siblings who lived in harmony in antiquity” (L. Kelley, 2013: p 83)
[36] Xin xem: L. Kelley, 2013: tr 58-60.
[37] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2008: tr 196-219
[38] Nguyên văn tiếng Anh: “were various place names in southern China and extending into northern Vietnam which came from Zhuang, a Tai language” (L. Kelley, 2013: p 58).
[39] Nguyên văn tiếng Anh: “from meaning “I,” to a classifi er, to meaning a mountain with no vegetation on it” (L. Kelley, 2013: p 58)
[40] Nguyên văn tiếng Anh: “He also mentions that such place names could be found in the past from Anhui Province, in what is today central China, to Guangxi Province in the southwest, an area which he argues Tai speakers historically inhabited” (L. Kelley, 2013: p 58-59).
[41] Nguyên văn tiếng Anh: “in many Tai languages there are words for “person” which begin with a “k” sound, such as khon in modern Central Thai” (L. Kelley, 2013: p 60).
[42] Xin xem: Đào Duy Anh, 1997: tr 31-32
[43] Xin xem: Trần Trí Dõi, 2008: tr 196-219; 2015a: tr 03-17
[44] Nguyên văn tiếng Anh: “worked within a larger political discourse which sought to incorporate minority peoples into the narrative of the Vietnamese nation” (L. Kelley, 2013: p 60).