Vì sao khi không mô tả hiện thực ngoại hiện thì hội họa và điêu khắc trừu
tượng lại gặp phải sự phản đối, còn trong lịch sử nhiều thế kỉ của âm nhạc những
lời kêu gọi hướng đến việc mô tả hiện thực bên ngoài lại là ngoại lệ hiếm hoi?
Câu hỏi này liên quan đến một điều bí ẩn khác đã được biết: vì sao lời nói
nghe thấy được lại là phương tiện tổng hợp, tự tại và chủ yếu duy nhất để giao
tiếp giữa những con người? Những tín hiệu để nhìn khác nhau hoặc là thuần
túy có tính bổ trợ, đi kèm như cử chỉ và điệu mặt, hoặc như các chữ viết
và mẫu tự tượng hình, xét từ quan điểm kí hiệu học là, theo thuật ngữ của J.
Lotz, những tổ chức kí sinh, những siêu cấu trúc võ đoán được gán ép cho thoại
ngữ trong quá trình sơ khai của sự phát triển của nó(1). Sapir đã diễn
đạt ngắn gọn điều này như sau: "Ngôn ngữ nói đi trước tất cả các hệ thống
giao tiếp mang tính biểu tượng khác mà chúng, hoặc là những vật thay thế chẳng
hạn như chữ viết, hoặc là sự bổ trợ cho nó, như điệu bộ kèm theo lời nói"(2).
Nhà nghiên cứu tài năng đã quá cố M. Aronson, người mà ban đầu làm việc ở
Viên với N. Trubeskoi, còn sau đó với V. Eikhenbaum ở Leningrad đã công bố
một bài báo có tính khuyến nhủ trong đó mô tả những thí nghiệm được tiến hành tại
phòng bá âm Leningrad nhằm nâng cao và phát triển kịch truyền thanh. Các nhà
nghiên cứu, trong tiến trình của vở kịch, đã đưa vào đó các âm ghi được giống
như thật của vô số các tiếng động tự nhiên. Nhưng hóa ra là "chỉ một phần
không đáng kể những tiếng động xung quanh được chúng ta tiếp nhận rõ ràng và có
quan hệ với những hiện tượng nhất định". Các cán bộ của phòng bá âm đã ghi
cẩn thận những tiếng động của nhà ga, của đường sắt, bến cảng, đường phố, tiếng
gió, tiếng mưa... nhưng vì thấy rằng thính giả nhận biết rất kém những âm thanh
này, thành ra cần "vừa lòng với số lượng các tiếng động có ý nghĩa xác định"(3).
Có thể chỉ đồng tình với tác giả rằng giá trị thông tin của các tiếng động tự
nhiên thì tối hạn chế ("những tiếng động chưa phải là ngôn ngữ"). Và
do vậy rất khó dùng chúng trong kịch truyền thanh. Nhưng kết luận của ông cho rằng
"trong đời sống của chúng ta, nhìn có ý nghĩa hơn nghe" thì cần phải
được giải thích rõ thêm.
Nếu sử dụng cách phân loại tín hiệu do C.S. Peirce đề xuất thành: các tín
hiệu - biểu số, các tín hiệu - biểu hình, các tín hiệu - biểu tượng(4),
thì có thể nói rằng đối với cá nhân tiếp nhận, tín hiệu - biểu số được liên tưởng
với đối tượng mà nó biểu hiện do có những quan hệ thực tồn giữa chúng trong tự
nhiên; tín hiệu có tính biểu hình - do sự tương đồng thực tế, trong khi đó giữa
tín hiệu biểu tượng và đối tượng mà nó chú dẫn không tồn tại một quan hệ tự
nhiên - có tính tiên định nào. Tín hiệu - biểu tượng là tín hiệu của đối tượng
"trên cơ sở sự thỏa thuận". Cơ sở của các quan hệ giữa những biểu tượng
đa loại thuộc cùng một hệ thống là những nguyên tắc truyền thống. Mối liên hệ
giữa cái biểu đạt được tri nhận cảm tính của biểu tượng và cái được biểu đạt của
biểu tượng này được nhận thức (được phiên dịch) trong tư tưởng dựa trên sự liên
tưởng có tính chất thỏa thuận, giả tạo và theo tập quán. Như vậy, các tín hiệu
- biểu tượng và các tín hiệu - biểu số ở trong quan hệ liên tưởng với các
đối tượng (có tính nghệ thuật trong trường hợp thứ nhất, có tính tự nhiên - trường
hợp thứ hai). Còn bản chất của tín hiệu biểu hình là trong sự tương đồng với đối
tượng. Mặt khác tín hiệu - biểu số, trái ngược với tín hiệu biểu hình và tín hiệu
- biểu tượng, cần thiết đòi hỏi sự đồng hiện hữu thực tế của đối tượng được
chỉ thị. Nói đúng ra thì, sự khác nhau căn bản giữa các tín hiệu của ba loại là
ở thứ bậc của các đặc tính hơn là ở bản thân các đặc tính. Vậy, theo Peirce, mọi
bức tranh đều "bị quy ước khá nhiều trong phương thức mô tả" và ở mức
độ mà "những nguyên tắc quy ước giúp cho sự tương đồng", thì tín hiệu
như vậy có thể xem như một biểu tượng biểu hình. Mặt khác, vai trò của các tín
hiệu biểu hình và của các biểu trưng - biểu số trong ngôn ngữ tất thảy còn chờ
được nghiên cứu cẩn thận.
Trong đời sống hàng ngày của chúng ta, việc sử dụng và phân biệt các tín hiệu
- biểu số có tính thị giác lớn hơn nhiều so với các tín hiệu - biểu số thính
giác. Tương tự, những tín hiệu biểu hình thính giác tức sự mô phỏng tiếng động
tự nhiên rất khó nhận ra và hầu như không được sử dụng. Mặt khác, tính tổng hợp
của âm nhạc, vai trò nền tảng của lời nói trong văn hóa loài người và, sau
cùng, chỉ là dựa vào sự ưu thế hơn của từ ngữ và âm nhạc trong lĩnh vực truyền thanh
cũng cho phép khẳng định rằng kết luận của Aronson về ưu thế của sự nhìn
so với sự nghe trong đời sống của chúng ta là đáng tin đối với các tín hiệu -
biểu số và tín hiệu biểu hình, nhưng không đáng tin đối với các tín hiệu - biểu
tượng.
Con người có thiên hướng coi mọi đối tượng rơi vào trường nhìn của mình là
sự kích thích thị giác. Có thể chỉ ra sự ham thích phổ biến đối với việc giải
thích những đốm, vết đủ loại, những gốc cây đổ, cành cây gãy như là sự mô tả
sinh vật, phong cảnh hay tĩnh vật, nghĩa là như các tác phẩm nghệ thuật tạo
hình. Cái thiên hướng bẩm sinh biến một hình tượng thị giác bất kì thành một đối
tượng thực tồn nào đấy như vậy khiến cho các hình vẽ trừu tượng bất giác được
xem như những bức tranh huyền bí và do đó gây nên sự bức bối chất phác một khi
chưa cắt nghĩa được sự huyền bí hư ảo này.
Rõ ràng là, cả tri nhận thính giác lẫn tri nhận thị giác đều "làm việc"
vừa trong không gian vừa trong thời gian, nhưng đối với các tín hiệu thuộc thị
giác thì chiều đo không gian là quan trọng hơn, còn các dấu hiệu thuộc thính
giác - chiều đo thời gian. Một tín hiệu thị giác phức tạp bao gồm một loạt những
hợp phần đồng bộ, còn một tín hiệu thính giác phức tạp, thông thường, là một
chuỗi gồm các hợp phần kế tiếp nhau. Sự phức điệu, đa âm, hòa tấu là những biểu
hiện của tính đồng bộ trong âm nhạc dù trạng thái thống trị ở đây vẫn thuộc về
tính trình tự. Vai trò ưu tiên của tính trình tự trong ngôn ngữ đã có một lúc
nào đấy được giải thích sai như là tính trực tuyến. Thế nhưng các âm vị, tổng hòa
của những dấu hiệu khu biệt được hiện thực hóa đồng thời, lại cho thấy trục thứ
hai trong tính trình tự của lời nói. (Chính tư duy giáo điều theo lối trực tuyến
đã khiến các môn đồ của nó, do không đếm xỉa đến cấu trúc thứ bậc của mọi kết cấu
cú pháp, đã coi trình tự ngôn ngữ như một dãy nhãn hiệu).
Có sự khác biệt vô cùng lớn giữa bức tranh, có tính không gian, về cơ bản
được tri nhận đồng thời (tức khắc) và diễn trình trong thời gian của lời nói
hay âm nhạc tuần tự tác động lên thính giác chúng ta. Ngay cả khi xem những bức
tranh đang chuyển động cũng nảy sinh ý muốn bao quát đồng thời kết cấu không
gian của chúng. Tính chất trình tự của các tiếng trong lời nói hoặc các âm của
nhạc để có thể sinh ra, được tri nhận và ghi nhớ cần đáp ứng hai yêu cầu
căn bản - có cấu tạo trình tự thứ bậc và được phân hóa ra các thành tố cơ sở đứt
đoạn được tổ chức nhằm cho một mục đích cụ thể nào đấy mà lại phù hợp với những
mô hình nhất định (hoặc sử dụng cách diễn đạt của Foma Arvinsk, Significantia
artificialiter - biểu đạt bằng các phương tiện của nghệ thuật ). Trong các bộ
tín hiệu thị giác không có những thành tố tương tự nhau, mà ngay cả nếu một cấp
độ nào đấy của các yếu tố có tồn tại thì (thực chất) vừa không có tính bắt buộc
vừa không có tính hệ thống. Chính sự vắng mặt của hai tính chất này đã gây nghi
ngại, làm nên sự nhọc mệt, cản trở khả năng tri giác và ghi nhớ ở con người khi
xem loại phim trừu tượng.
Năm 1963 tác giả của tiểu luận này trong một bài báo của mình đã xem xét
hai kiểu rối loạn ngôn ngữ tương phản nhau - đồng thời (simultané) và tiếp diễn
(successif), và tương ứng với những kết qủa mà A.P. Luria và K.G. Pribrama, đã
cố gắng gắn kiểu rối loạn thứ nhất với sự tổn thương đốt sống lưng, còn kiểu rối
loạn thứ hai với sự tổn thương vùng vòm giữa(5). Trong cuốn sách cuối
cùng của mình(6), Luria đã phát triển một cách độc đáo sự phân biệt
cơ bản mà I.M. Xechennop đã để xuất năm 1878(7) giữa những tổng hợp
kiểu đồng thời và những tổng hợp kiểu kế tiếp. Cả hai kiểu tổng hợp đều tham
gia không chỉ vào hoạt động nói mà cả vào sự tri nhận thị giác. Cho dù thực ra
thì sự tổng hợp đồng thời chỉ là phần ấn định cuối cùng, nhưng trước đoạn cuối
cùng này là, như Luria đã nhấn mạnh, chuỗi những quá trình tìm tòi tuần tự. Còn
về lời nói thì trong đó, các tổng hợp đồng thời là bước chuyển của sự kiện được
phát triển trong thời gian sang cấu trúc đồng đại, trái lại khi tri giác bức
tranh thì những tổng hợp này lại phù hợp một cách tốt nhất với chính bản chất của
bức tranh được chiêm ngắm.
Trong hoạt động nói cũng như trong sự tri nhận thị giác, những tổn thương đốt
sống lưng có ảnh hưởng đến các tổng hợp đồng thời. Mặt khác những tổng hợp kế
tiếp, đặc biệt là "tiến trình tri nhận thị giác" và việc kiến tạo một
trình tự nói hoàn chỉnh sẽ kém đi do những tổn thương ở vùng vòm. Khi Luria chỉ
cho người bệnh bị tổn thương não "một bức tranh phức tạp" thì “ngay
lúc đầu người bệnh chỉ nắm lấy được một thành phần, rồi sau đấy dần dà mới nhận
thức được những phần còn lại"(8).
KẾT LUẬN
Có thể chỉ ra những nhị phân khác nhau của các tín hiệu. Các tín hiệu tạo
hình mà cơ sở của chúng là ở sự thực tồn trong tự nhiên, sự tương đồng hoặc mối
liên hệ với đối tượng được biểu thị trong phần lớn trường hợp là các tín hiệu
thị giác đối lập với các tín hiệu phi tạo hình vốn đa phần là các tín hiệu
thính giác. Các tín hiệu thị giác gắn kết trước hết với không gian, còn các tín
hiệu thính giác - với thời gian; nguyên tắc kết cấu cơ bản ở các tín hiệu loại
đầu là tính tương đồng, ở loại thứ hai - tính trình tự. Trái ngược với kí hiệu
thị giác, việc sử dụng của các tín hiệu thính giác là một tổ chức thứ bậc và những
thành tố cơ sở đứt đoạn được chọn lựa theo cách thích hợp và được tổ chức lại
nhằm đạt được mục đích đặt ra./.
Trịnh Bá Đĩnh dịch từ bản tiếng Nga
(R. Jakobson: Tuyển tập.
M.,1986)
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 6/2007
______________
(1) Lotz J: Natural
and Scientific Language Proc. Amer. Acad. Art Sci., 80,87 (1951).
(2) Sapir E: Language,
Selected Writings, Univ. of California Press,
1949, p.7.
(3) Aronson M: Radiolfilm,
Slavische Rundschaud, 1, 539 (1929).
(4) Peirce C.S: Speculative
Grammar, Collected Papers Haward Univ. Press,
(5) Jakobson R: Towards
a Linguistic Typology of Aphasic Impeirmants, Disorders
of Language, Ciba Foundation Symposium, Churchill,
London, 1964, p. 21.
(6) Luria A.P: Bộ óc
người và những quá trình tâm lí, Nxb. Viện Hàn lâm khoa học sư phạm, 1963.
(7) Xechenkop I.M: Những
yếu tố của tư tưởng, Nxb.VHLKH LX, M., 1959 .
(8) Luria A.P: Disorders of
"Simultaneous Perception "in a Case of Bilateral Occipito -
Parieltal Brain Injuri, Brain 82 ,3
(1959).