Nhờ sự giới thiệu của E. Parson, năm 1921 R. Benedict được F. Boas đặc cách làm nghiên cứu sinh Đại học Columbia và trực tiếp hướng dẫn. Do tuổi đã khá lớn, R. Benedict không xin được học bỗng nên việc học của bà gặp rất nhiều khó khăn. Bà thuê một căn phòng nhỏ và phải sinh hoạt thật tằn tiện trong suốt quá trình học. Nhưng khó khăn hơn cả là bà hơi bị nặng tai, trong khi thầy của bà, F. Boas, lại nổi tiếng là người có cách nói lầm lầm, khó nghe.
Tuy nhiên, vượt qua mọi trở lực, R. Benedict đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ nhân loại học “Ý niệm chung về hộ thần ở Bắc Mỹ” (The Concept of the Guardian Spirit in North America) vào năm 1923 và ngay sau đó được mời làm giảng viên chính thức của Đại học Columbia. Bà gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu và đào tạo ở đại học này cho đến cuối đời.
R. Benedict chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương đối văn hóa của F. Boas và tinh thần chống chủ nghĩa phát xít, chống thuyết tộc người trung tâm của ông. Về nghiên cứu, R. Benedict đặc biệt quan tâm đến công tác điền dã và tập trung vào nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa sáng tạo cá nhân và các mô thức văn hóa. Bà nghiên cứu điền dã nhiều tộc người bản địa ở châu Mỹ và nghiên cứu các nền văn hóa châu Âu, châu Á hiện đại theo hướng trên. Từ việc nghiên cứu so sánh giữa các tộc người thổ dân miền tây nam và miền đồng bằng Bắc Mỹ, R. Benedict nhận ra mối quan hệ đẳng cấu giữa văn hóa và nhân cách. Bà khẳng định “văn hóa hiển nhiên là nhân cách” (culture is personality writ large) và đây cũng là đóng góp đặc biệt của bà trong nghiên cứu, tiếp cận nhân loại học văn hóa, đặt nền móng cho trường phái “Văn hóa và nhân cách” (Culture – and – personality school) nổi tiếng ở Mỹ từ những năm 1930 thế kỷ XX.
Chịu ảnh hưởng phương pháp phân loại tư tưởng của nhà triết học Đức W. Dilthey (1833-1911) và cách phân loại của Friedrich Nietzsch (1844-1900) khi nghiên cứu thần thoại Hy Lạp, R. Benedict phân loại văn hóa ra hai mô hình chính: văn hóa “kiểu Apollo” (Apollonian) và văn hóa “kiểu Dionysus” (Dionysian). Tính cách Apollo là tính cách của thần Mặt trời trong thần thoại Hy Lạp, sống không cạnh tranh, lấy trung dung làm đạo đức; còn tính cách Dionysus là tính cách của thần rượu, nóng nảy, thích cạnh tranh, hiếu thắng, lấy ưu việt làm tiêu chuẩn đạo đức. Theo R. Benedict, văn hóa thổ dân Pueblo ở vùng sa mạc bang New Mexico (đại biểu là người Zuni) là văn hóa kiểu Apollo, còn văn hóa thổ dân ở bình nguyên Bắc Mỹ và những tộc người ven biển tây bắc Bắc Mỹ (đại biểu là dân đảo Dobu, Melanesia và tộc người Kwakiut) là kiểu Dionysus.
Nghiên cứu phân loại này của R. Benedict được công bố trong cuốn Mô thức văn hóa (Patterns of Culture) vào năm 1934. Công trình đã làm sáng tỏ mối quan hệ tương hỗ giữa một số mặt trong một nền văn hóa như kinh tế, cơ cấu gia đình, quyền uy chính trị, tôn giáo, chiến tranh, thần thoại và văn hóa truyền miệng. Công trình không chỉ đi đầu trong việc nắm bắt mối quan hệ giữa cá nhân và văn hóa mà còn đưa ra phương pháp nghiên cứu mới cho nhân loại học văn hóa, đó là cách tiếp cận văn hóa một cách tổng thể trên tinh thần của thuyết tương đối văn hóa. Vì vậy, Mô thức văn hóa được xếp vào hàng kinh điển của trường phái Văn hóa và nhân cách mà chính R. Benedict là người đi tiên phong.
Trong vòng một phần tư thế kỷ, công trình Patterns of Culture của Ruth Benedict đã được dịch ra 14 thứ tiếng, góp phần quan trọng trong việc giới thiệu một cách sáng rõ, sâu sắc về nhân loại học và kết nối được khoa học tự nhiên với khoa học nhân văn – hai ngành trước đó vốn bị coi là rất tách biệt. Theo M. Margaret Mead, khi Ruth Benedict đến với nhân loại học vào năm 1921, thuật ngữ “văn hóa”, như cách hiểu của chúng ta ngày nay, chỉ là một từ ít được biết đến và chỉ được sử dụng hạn hẹp trong một số nhà nhân loại học chuyên nghiệp. Khái niệm “văn hóa”, cũng như cụm từ “trong nền văn hóa của chúng ta”, được sử dụng rộng rãi là có công rất lớn của công trình Patterns of Culture. Điều đáng lưu ý là, tuy R. Benedict phân văn hóa ra thành các mô hình, nhưng theo M. Mead, Ruth Benedict không dựng nên một hệ thống các kiểu hình; bà không tin rằng những nhãn hiệu theo thuyết của Nietzsche hay tâm thần học là phù hợp với mọi xã hội. Bà cũng không tin rằng có một hệ thống khép kín nào đó có thể được thiết lập phù hợp với xã hội của con người trong quá trình phát triển của xã hội đó. Đúng hơn, bà thật sự tin rằng bức tranh văn hóa nhân loại là luôn phát triển và không thể có giới hạn vì các mối liên kết khả thể là đa dạng và vô tận (Margared Mead: “A new preface by Margaret Mead” trong Patterns of Culture, 1959, trang vii – viii).
Sau Mô thức văn hóa, R. Benedict xuất bản một số công trình cũng rất nổi tiếng như Huyền thoại Zuni (Zuni Mythology, 1935), Chủng tộc: khoa học và chính trị học (Race: Science and Politics, 1940) và Hoa cúc và thanh kiếm: mô thức văn hóa Nhật Bản (Chrysanthemum and the Sword: Patterns of Japanese Culture, 1946). Trong đó nổi tiếng nhất là Hoa cúc và thanh kiếm: mô thức văn hóa Nhật Bản. Đây là công trình nghiên cứu về “tính quốc dân” Nhật Bản dưới sự đặt hàng của chính phủ Mỹ nhằm hiểu về đối thủ trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Cuốn sách cho rằng người Nhật là kẻ thù khó hiểu nhất trong số những kẻ thù mà nước Mỹ phải đương đầu bằng cả tính mạng và tác giả cố gắng tìm cách để hiểu tính cách đầy mâu thuẫn của người Nhật. Đó là sự mâu thuẫn giữa chủ nghĩa thẩm mỹ kín đáo, biết kiềm chế, thể hiện trong nghệ thuật cắm hoa (Ikebana), trong thú chơi hoa cúc và chủ nghĩa cuồng tín của người Nhật. R. Benedict coi đó là nét tiêu biểu cho tính quốc dân của người Nhật. Bà cũng gọi văn hóa Nhật Bản là “văn hóa xấu hổ” (bởi người Nhật hay để ý đến cái nhìn của những người chung quanh) trong so sánh với “văn hóa tội lỗi” của người Tây Âu. Cuốn sách gây nhiều tranh luận, ở cả Nhật và Mỹ, nhưng điều cơ bản là đã gợi nên một hướng nghiên cứu mới: nghiên cứu tính quốc dân – một hướng nghiên cứu không dễ thực hiện nhưng đầy triển vọng trong nghiên cứu văn hóa.
R. Benedict được phong là giáo sư chính thức (full professor) Đại học Columbia trước khi bà qua đời khoảng hai tháng. Bà mất ngày 17 tháng 9 năm 1948 tại New York.
Biên soạn: Nguyễn Văn Hiệu